( Truyện ngắn đoạt giải thưởng do báo VIỄN ĐÔNG tổ chức )
Hình ảnh Internet NGUYÊN NHUNG thực hiện
Tôi gặp chị vào những ngày sau tháng tư năm bảy mươi lăm,
khi hai người đàn ông của chị và tôi cùng vắng mặt trong gia
đình. Tôi trở về nhà với mẹ trong một xóm nhỏ ở thành phố
Cần Thơ, còn chị cũng dắt con về nhà người anh tá túc, vì cha
mẹ chị không còn.
Hoàn cảnh hai đứa thật giống nhau, hai người phụ nữ chân
yếu tay mềm, mỗi nhà hai đứa con dại còn bế trên tay. Hỏi ra
thì trước kia tôi và chị cùng học một trường, cũng mái trường
Nữ Trung Học và cũng những thầy cô năm cũ. Tôi đi dạy một ít
lâu, lấy chồng rồi bận rộn con cái, yên phận làm mẹ. Chị lý
tưởng hơn, sau khi đậu Tú Tài, thích là " hoa lạc giữa rừng
gươm", chị đi học khóa nữ trợ tá xã hội, tham gia nhiều công
tác giúp đời. Chị có học qua một khóa trợ y, nhờ vậy sau này
khi lâm vào bước đường cùng, chị đem chút tài mọn ra chữa
bệnh cho dân nghèo ở vùng sâu, vô tình được phong làm "cô
bác sĩ", dù không đỗ đạt được mảnh bằng y khoa nào hết.
Dạo ấy hai đứa đều dưới tuổi ba mươi, vì chưa lăn
lộn với đời nên vẫn có nét ngây thơ của những người
đàn bà trẻ con. Chúng tôi sống bám vào hai mảnh ny
lông trên vỉa hè thành phố. Hai người cùng hoàn
cảnh nên dễ thân nhau, cả hai đứa cùng có núm
đồng tiền rất sâu trên má. Chị thật thà bảo tôi:
" Người ta bảo những ai có núm đồng tiền thì lúc
nào cũng dư dả, sao hai đứa mình đói rách quá."
Tôi ngắm chị. Một khuôn mặt hơi vuông nhưng rất
ưa nhìn. Hai mắt sâu và sáng, vầng trán thông minh,
mỗi khi cười hai núm đồng tiền lõm xuống, trông chị
rất có duyên. Ngày còn trẻ, chắc chắn có nhiều anh
"chết" vì nụ cười của chị. Bởi vậy khi gặp chị, anh
mau mau đón chị về, rồi không cho đi làm nữa, vì
giữa chốn ba quân, chị như một bông hoa đẹp mà ai
cũng muốn hái.
Tôi không đẹp như chị, chỉ dễ coi, cũng hai núm đồng tiền
sâu trên má. Hai đứa có những bốn cái đồng tiền mà lúc nào
cũng túng bấn, phải chia nhau từng đồng tiền vốn, xẻ cho
nhau đồng tiền lời để mua thức ăn cho con. Có sống trong
cảnh đời ấy mới thấy được lòng dạ con người tốt xấu ra sao.
Hoàn cảnh bên ngoài thì đổi thay như chong chóng, anh em
trong gia đình ai cũng lo thủ phận mình, hai điều ấy đã giúp
những con người như tôi với chị xích lại gần nhau hơn.
Những lúc hai đứa đi kiếm ăn, dồn cả bốn đứa trẻ lại nhờ
mẹ tôi trông giúp. Hai đứa lớn đến trường, hai đứa nhỏ nhờ
bà cụ già chăm bẵm, mỗi chiều về ngoài quà cho con, chị
vẫn không quên mua mớ trầu, mấy quả cau tươi cho mẹ tôi.
Có khi cả hai gia đình cùng ăn chung bữa cơm tối, những
lúc ấy cả hai đứa cùng cảm thấy sự chia xẻ cái khổ, cái
nghèo cho nhau thật là đáng quí. Dưới ngọn đèn điện đỏ
quạch, chỉ có đàn bà và trẻ con, không ai nói ra nhưng tôi
vẫn nhận thấy nỗi cô đơn và băn khoăn của những cuộc đời
không lối thoát.
Không còn gì để bấu víu và tin tưởng, khi tương lai là một chuỗi
mịt mù, tăm tối. Đêm nào mẹ con tôi cũng cầu nguyện, ngọn đèn
dầu leo lét trên bàn thờ, đêm đêm chúng tôi chờ phép lạ, như chờ đợi từ
ngày mùng một Tết dài mãi cho đến chiều ba mươi cuối năm, vẫn
không có gì hơn. Chị đi chùa, hôm nào có tiền mang theo bó nhang,
nải chuối. Không chỉ có Phật mà hễ nơi nào có Thánh thần là chị đến,
với một niềm hy vọng là anh ấy được mau trở về với chị. Dưới ngọn
nến sáng bập bùng dưới chân Đức Mẹ, tôi nhìn nét mặt nghiêng của
chị, mờ ảo và đẹp lạ lùng. Chị như một thánh nữ, đôi mắt ứa ra hai giọt
lệ long lanh. Chân thành lắm, chỉ là những lời van xin, khấn khứa cầu
sự an bình cho kẻ chân mây.
Tuy vậy, có những khi thất vọng quá, hai đứa vẫn rủ nhau đi coi bói,
bỏ mấy đồng bạc để nghe một niềm hy vọng. Thầy bói không thấy ai
giàu, giữa ban ngày ngó lên nóc nhà lổ chổ như sao sa, chả thầy nào
nói được tương lai của chúng tôi hết. Chị chìa bàn tay còn xinh đẹp cho
lão thầy bói nắn đi nắn lại, lật tới lật lui, đo đạc dài ngắn rồi nói nhăng
nói cuội. Lúc ấy nét mặt chị thật thành khẩn, để rồi trên đường về chị
buồn bã bảo tôi:
" Bồ hên quá, có quý nhân phù trợ, ông ấy lại có đường về,
còn mình sao mờ mịt quá."
Tôi bật cười bảo chị:
" Chuyện, hơi sức đâu mà tin, cứ đợi đến "con trăng" này
xem đương sự có về không đã, biết thế nào là hên với xui."
Có đến chục " con trăng " qua đi mà bóng người vẫn biền
biệt bóng chim tăm cá. Mỗi lần nói chuyện coi bói hai đứa
lại cười, nhớ lại lúc còn đi học, mới biết yêu, vẫn nhờ
người ta đoán hộ tình duyên, gia đạo. Lũ nhỏ lớn
dần lên, đời chị và tôi vẫn chỉ là những con bài bích,
những người chồng thời buổi đó vẫn chưa nhận được con
cơ báo hiệu ngày trở lại.
Một hôm, chị nhận được thư anh, chiếc phong bì được xếp bằng
giấy học trò như đồ chơi thủ công , lại viết bằng mực tím, bút lá
tre. Chị mừng mừng tủi tủi nhìn con dấu nhà Bưu điện, lá thư vượt
đèo, vượt suối đi cả hai tháng trời mới đến tay vợ, và chỉ là những
con số không thấy nói nơi người gửi. Đọc thư anh, tả chút thay đổi
thời tiết, chị biết anh ở xa lắm. Quê chị miền Tây Nam bộ, ven bờ
Cửu Long, từ nhỏ đến lớn chị chỉ đi tới Sài Gòn là hết đất. Thư anh
viết có một khuôn mẫu sẵn, không thấy nói gì đến nhớ thương, chị
đọc thư khóc mùi mẫn, trách anh vô tình. Ngây thơ như một đứa trẻ,
chị bảo tôi:
" Anh dặn mình mạnh dạn đưa các con đi xây dựng vùng kinh tế
mới, chỉ có con đường ấy mới mở ngỏ cho anh có cơ hội làm lại
cuộc đời. Hãy tin những gì anh nói, ngày về không còn xa."
Tôi gạt đi, vì trước mắt tôi nhan nhản những gia đình sống lang
thang trên hè phố, hoặc trở về làm một cái chái che nắng mưa trên
chính nền đất của mình ngày xưa. Tôi khuyên chị: