Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Thuyết chính danh nho giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.04 KB, 13 trang )

Tiểu luận Triết học
MỤC LỤC
Đỗ Phú Khánh – CA140154 – Lớp KTHH Trang 1
Tiểu luận Triết học
MỞ ĐẦU
Triết học Trung Hoa cổ đại và trung đại là một bộ phận quan trọng của triết học
phương Đông, trong đó có thể nói Nho giáo là một trường phái quan trọng và có giá
trị vào loại bậc nhất. Mặc dù ra đời để phục vụ cho chế độ phong kiến nhưng đến
nay nhiều tư tưởng, quan niệm về xã hội, con người, đạo đức, giáo dục… của Nho
giáo vẫn còn giá trị và mang tính thời sự, như tư tưởng nhân nghĩa và học thuyết
chính danh. “ Nhân nghĩa” có ý nghĩa trong mọi mặt của đời sống, nhưng “ chính
danh” lại tác động sâu sắc tới việc đảm bảo trật tự và ổn định xã hội, đặc biệt là ở
lĩnh vực chính trị.
“Chính danh” theo Khổng Tử đề xướng là một nguyên tắc cai trị xã hội, được
hiểu là: một vật trong thực tại cần phải cho phù hợp với cái danh nó mang, có nghĩa
là đảm bảo sự phù hợp giữa cái danh và cái thực. Đây là một học thuyết có giá trị
không chỉ trong thời kỳ phong kiến mà cả trong thời hiện đại. Chúng ta sẽ tìm hiểu
giá trị của học thuyết này trên hai phương diện: đối với sự phát triển tư tưởng triết
học và giá trị về mặt thực tiễn.
Nhận thức được ý nghĩa của học thuyết trên, em đã lựa chọn tìm hiểu đề tài:
“Thuyết chính danh của Nho giao và ý nghĩa của nó ở Việt Nam hiện nay”.
Nội dung của tiểu luận gồm những phần chính sau:
- Chương 1: Sơ lược cơ bản về Nho giáo
- Chương 2: Học thuyết chính danh của Nho giáo
- Chương 3: Ý nghĩa của học thuyết “chính danh” trong giai đoạn hiện nay
Đỗ Phú Khánh – CA140154 – Lớp KTHH Trang 2
Tiểu luận Triết học
CHƯƠNG 1: SƠ LƯỢC CƠ BẢN VỀ NHO GIÁO
1.1 Hoàn cảnh ra đời của trường phái Nho giáo
1.1.1 Hoàn cảnh lịch sử - xã hội
Trung Quốc là một quốc gia phương Đông điển hình trên thế giới, đó là một xã


hội không có hình thức sở hữu về ruộng đất. Xã hội Trung Quốc cũng giống như
nhiều xã hội khác ở châu Á, và khác biệt hoàn toàn so với xã hội chiếm hữu nô lệ
và phong kiến phương Tây. Đặc điểm của xã hội ấy là công hữu ruộng đất chiếm ưu
thế, tàn dư công xã kéo dài, nền kinh tế - xã hội diễn ra với sự cống nạp từ bên dưới
và phân phối từ bên trên.
Xã hội và quốc gia chiếm hữu nô lệ của Trung Quốc cổ đại được hình thành vào
khoảng thiên niên kỷ thứ 2 trước công nguyên. Lịch sử xã hội chiếm hữu nô lệ
Trung Quốc cổ đại là lịch sử đấu tranh tàn khốc giữa chủ nô và nô lệ, giữa tầng lớp
thượng lưu của xã hội chiếm hữu nô lệ với những người nông dân bị phá sản, bị nô
dịch và phụ thuộc. Giữa tầng lớp quý tộc gia truyền bị bần cùng hóa với những
thương nhân và trọc phú tiếm quyền. Những xung đột giai cấp trong quốc gia chiếm
hữu nô lệ Trung Quốc trở nên sâu sắc. Cuộc đấu tranh ấy lại để lại những dấu ấn rất
nặng nề. Nó tạo tiền đề chính trị - xã hội cho cuộc đấu tranh của các trường phái
chính trị khác nhau rất đa dạng và phong phú.
Thời Xuân thu – Chiến Quốc, Trung Quốc loạn bở sự xâu xé lẫn nhau, tranh
quyền tranh bá, đất nước Trung Quốc bị chia thành hàng trăm quốc gia nhỏ, rồi
những nước nhỏ có tương đồng với nhau trong hoàn cảnh nào đó liên minh với
nhau chống lại liên minh khác, cuối cùng dẫn đến phong trào ngũ bá. Hàng trăm
nhà tư tưởng khác nhau đã đưa ra những tư tưởng của mình nhằm cắt nghĩa, tìm ra
nguyên nhân xã hội loạn lạc và từ đó đưa ra các cách để ổn định xã hội ấy. Trong số
đó, nổi bật lên những tư tưởng: Nho giáo – người đứng đầu là Khổng Tử, Lão Gia –
người đứng đầu là Lão Tử, Mặc gia – người đứng đầu là Mặc Tử, Pháp gia – người
đứng đầu là Hàn Phi Tử.
1.1.2 Thân thế - sự nghiệp của Khổng Tử (551 – 479 TCN)
Khổng Tử tên là Khâu, tên chữ là Trọng Ni, ông sinh ra ở ấp Trâu, quận Xương
Bình, nước Lỗ (nay thuộc Sơn Đông – phía Bắc Trung Quốc). Ông là người dòng
dõi nước Tống nhưng do chiến tranh mà lưu lạc song nước Lỗ. Sinh ra và lớn lên ở
thời Xuân Thu – thời kỳ rối ren, loạn lạc trong lịch sử Trung Quốc cổ đại. Đó là thời
Đỗ Phú Khánh – CA140154 – Lớp KTHH Trang 3
Tiểu luận Triết học

đại vương đạo suy vi, bá đạo nổi lên, chế độ tông pháp của nhà Chu đảo lộn, đạo lý
nhân luân suy đồi, các nước chu hầu tranh giành lẫn nhau, trăm dân rơi vào bể khổ.
Ngoài 50 tuổi ông mới được vua Lỗ Định Công phong chức Trung Đô Tể, 4
năm sau được phong chức Tư Không, rồi Đại Tư Khấu trông coi pháp luật. Suốt
thời gian làm quan ông chăm lo chính sự cho nước Lỗ ổn định. Nước Tề lập kế để
vua Lỗ mãi vui chơi, quên việc triều đình. Ông Can gian nhưng vua Lỗ không nghe,
ông bèn cùng học trò bỏ vua Lỗ mà đi.
Khổng Tử nhiều lần đi sang các nước chư hầu mong muốn áp dụng học thuyết
của mình vào việc trị nước, nhưng không được dùng, bản thân ông cũng không
được trọng dụng. Sau 14 năm du thuyết không thành, quay về nước Lỗ khi ông đã
68 tuổi. Ông viết sách và mở trường dạy học, học trò theo học rất đông. Ông thọ 73
tuổi.
Học thuyết của Khổng Tử chủ yếu đề cập đến những vấn đề chính trị - xã hội.
Vì vậy nó là học thuyết chính tri. Tuy nhiên, dưới góc độ tiếp cận và hướng giải
quyết những vấn đề chính trị - xã hội, tư tưởng của Khổng Tử lại là tư tưởng về con
người, về đạo đức. Nói cách khác, học thuyết của Khổng Tử về cơ bản là học thuyết
chính trị - đạo đức.
1.2 Nội dung cơ bản của Nho giáo
Cốt lõi của Nho giáo là Nho gia. Đó là một học thuyết chính trị nhằm tổ chức
xã hội. Để tổ chức xã hội có hiệu quả, điều quan trọng nhất là phải đào tạo cho được
người cai trị kiểu mẫu – người lý tưởng này gọi là quân tử (quân tức là vua, quân tử
nghĩa là chỉ tầng lớp trên trong xã hội, phân biệt với “tiểu nhân”, những người thấp
kém về địa vị xã hội; sau quân tử còn chỉ cả phẩm chất đạo đức: những người cao
thượng, phẩm chất tốt đẹp, phân biệt với “tiểu nhân” là những người thiếu đạo đức
hoặc đạo đức chưa hoàn thiện. Điều này có thể được lý giải bởi đối tượng mà Nho
giáo hướng đến trước tiên là những người cầm quyền). Để trở thành quân tử, con
người ta trước hết phải tự đào tạo, phải tu thân. Sau khi tu thân xong, người quân tử
phải có bổn phận phải hành đạo (Đạo không chỉ đơn giản chỉ là đạo lý. Nho gia
hình dung cả vũ trụ được cấu thành từ các nhân tố đạo đức, và Đao ở đây bao chứa
cả nguyên lý vận hành chung của vũ trụ, vấn đề là nguyên lý đó là những nguyên lý

đạo đức do Nho gia đề xướng và cần phải tuân theo. Trời giáng mệnh làm vua cho
kẻ có Đạo, tức là nắm được đạo trời, biết sợ mệnh trời. Đạo vận hành trong vũ trụ
Đỗ Phú Khánh – CA140154 – Lớp KTHH Trang 4
Tiểu luận Triết học
khi giáng vào con người sẽ được gọi là Mệnh). Cần phải hiểu cơ sở triết lý của Nho
giáo mới nắm được logic phát triển và tồn tại của nó. Trong đó, phải nhắc đến các
khái niệm:
- Tu thân: Khổng Tử đặt ra một loạt Tam cương, Ngũ thường, Tam tòng, Tứ
Đức… để làm chuẩn mực cho mọi sinh hoạt chính trị và an sinh xã hội.
- Đạt đạo: Đạo có nghĩa là con đường hay phương cách ứng xử mà người quân
tử phải thực hiện trong cuộc sống. Đạt đạo trong thiên hạ có năm điều: “Đạo
vua tôi, đạo cha con, đạo vợ chồng, đạo anh em, đạo bạn bè; tương đương
với “quân thần, phụ tử, phu phu, huynh đệ, bằng hữu”.
- Đạt đức: Quân tử phải đạt được ba đức: “nhân – trí – dũng”. Khổng Tử nói:
“Đức của người quân tử có ba mà ta chưa làm được. Người nhân không lo
buồn, người trí không nghi ngại, người dũng không sợ hãi”.
- Hành đạo: Sau khi tu thân, người quân tử phải hành đạo, tức là làm quan,
làm chính trị. Nội dung của công việc này được công thức hóa thành “tề gia,
trị quốc, bình thiên hạ”. Tức là phải hoàn thành những việc nhỏ - gia đình,
cho đến lớn – trị quốc, và đạt đên mức cuối cùng là bình thiên hạ. Kim chỉ
nam cho mọi hành động của người quân tử trong việc cai trị là hai phương
châm:
+ Nhân trị: Nhân là tình người, nhân trị là cai trị bằng tình người, là yêu
người và coi người như bản thân mình. Nhân được coi là điều cao nhất của
luân lý, đạo đức, Khổng Tử nói: “Người không có nhân thì lễ mà làm gì?
Người không có nhân thì nhạc mà làm gì?”.
+ Chính danh: Chính danh là mỗi sự vật phải được gọi đúng tên của nó, mỗi người
phải làm đúng chức phận của mình. “Danh không chính thì ngôn bất thuận, ngôn
bất thuận tất việc không thành”. Điều quan trọng nhất trong các kinh sách của Nho
giáo có thể tóm gon trong chín chữ: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.

Đỗ Phú Khánh – CA140154 – Lớp KTHH Trang 5
Tiểu luận Triết học
CHƯƠNG 2: HỌC THUYẾT CHÍNH DANH CỦA NHO GIÁO
2.1 Nội dung học thuyết “chính danh”
Chính danh là tư tưởng cơ bản của chính trị Nho giáo nhằm đưa xã hội loạn trở
lại trị. Khổng Tử phản đối nhà cầm quyền dùng pháp chế, hình phạt trị dân mà chủ
trương nhân trị.
Sự vật tồn tại khách quan, để biểu hiện nó phải dùng ngôn ngữ, cái ngôn ngữ để
biểu hiện đó là “danh”. Danh đối lập với thực. Danh có nội hàm, sự vật luôn thay
đổi nên nội hàm của dnah cũng luôn thay đổi. Nhưng ngôn ngữ lại có tính ổn định
nên danh thường lạc hậu hơn so với thực, không thay đổi kịp so với hiện thực, nhất
là xã hội có biến loạn. Nguyên nhân khiến cho xã hội loạn lạc là do danh không hợp
với thực, xã hội đã xa rời đạo lý nhân nghĩa, kỷ cương phép nước bị đảo lộn. Muốn
ổn định trật tự xã hội, Khổng Tử chủ trương giáo dục chính trị đạo đức là “ chính
danh, định phận”.
Thực chất là mỗi người cần phải có phẩm chất tương xứng với vị thế xã hội của
mình và suy nghĩ, hành động tương xứng với vị thế ấy. Khổng Tử nói rằng: “Bất tại
kỳ vị, bất mưu kỳ chính” (không ở vị thế khác thì không mưu việc của người ở vị
thế ấy). Ở đây cần nhìn về vấn đề chính danh từ sự quy định lẫn nhau giữa phẩm
chất và năng lực với vị thế xã hội, nghĩa là mọi vật cần hợp với cái danh nó mang.
Mỗi cái danh đều bao hàm bổn phẩn, trách nhiệm, những cá nhân mang danh ấy
phải có trách nhiệm và bổn phận phù hợp với cái danh ấy. Khổng Tử nói: danh với
thực phải hợp nhau, nêu không hợp nhau thì gọi tên ra, người ta sẽ không hiểu, lý
luận sẽ không xuôi. Mọi việc sẽ không thành, lễ, nhạc, hình pháp sẽ không định
được mà xã hội sẽ loạn.
Theo học thuyết chính danh Khổng Tử đã chia thành các mối quan hệ cơ bản,
trong đó mỗi mối quan hệ gọi là một luân. Theo Khổng Tử trong xã hội có 5 luân,
đó là: Vua – tôi, cha – con, chồng – vợ, anh – em, bạn – bè. Trong 3 luân đều được
chú trọng hơn cả và gọi đó là tam cương, các luân đã nói rõ danh phận của từng
người. Nếu mỗi người thực hiện đúng cái danh phận đó sao cho “vua phải giữ đạo

vua, bề tôi phải giữ đạo bề tôi, cha phải giữ đạo cha, con phải giữ đạo con, chồng
phải giữ đạo chồng, vợ phải giữ đạo vợ” thì có chính danh. Mỗi người đúng danh
phận của mình thì mới có thể gây lại được nền chính trị của thời thiên hạ có đạo.
Đỗ Phú Khánh – CA140154 – Lớp KTHH Trang 6
Tiểu luận Triết học
Trong quan hệ vua – tôi, Khổng Tử chủ trường dùng đức trị, tức là người thống
trị tự lấy đạo đức của mình để cảm hóa người bị trị, làm cho họ không chống lại.
Khác với hình thức, đức trị không quan tâm đến sản xuất, đến chính sách, không
dùng biện pháp thưởng – phạt, mà chỉ cho rằng người thống trị chỉ cần có đạo đức
là đủ, thậm trí không cần cả đẳng cấp xuất thân của họ. Ông thường nói làm chính
trị mà có đức nhân là đã đứng vào vị trí của sao bắc đẩu, vị trị mà tất cả các ngôi
sao khác phải hướng theo.
Trong mối quan hệ cha – con, thì cha từ, con hiếu. Hiếu ở đây chủ yếu được xét
trên góc độ tâm, hiếu không chỉ phụng dưỡng người sinh ra mình mà phải có lòng
thành kính. Hiếu không nhất nhất là theo cha mẹ, mà phận làm con thấy cha mẹ sai
lầm phải can gian một cách nhẹ nhàng. Ông nói: “chỉ xét cái đáng theo mà theo mới
gọi là trung, hiếu. Như vậy, ông không chủ trương ngu trung, ngu hiêu, quân có
nhân thì thần mới trung, phụ có từ thì tử mới hiếu”. Đó là quan hệ hai chiều mà ít
người để ý.
Trong quan hệ vợ chồng thì chồng phải giữ đạo chồng, vợ phải giữ đạo vợ, vợ
phải nghe theo chồng được như thế xã hội sẽ có trật tự, sẽ có kỷ cương, thái bình
mới thịnh trị.
Có thể nói, khi nghiên cứu thuyết chính danh Khổng Tử đưa ra ta cần tập trung
vào các nội dung:
- Trước hết, là phân biệt cho đúng tên gọi. Mỗi sự vật như con người phải thể
hiện đúng bản tính của mình, mỗi cái tên bao hàm thái độ, trách nhiệm, bổn
phận, để thực hiện bản tính vốn có của nó.
- Thứ hai, phân biết cho đúng danh phận, ngôi vị.
- Thứ ba, danh mang tính phê phán khẳng định chân lý, phân biệt đúng - sai,
tốt - xấu.

2.2 Giá trị tích cực và hạn chế của thuyết chính danh
2.2.1 Mặt tích cực
Nho giáo là một học thuyết đức trị, lễ trị, nhân trị, văn trị, khẩu hiệu của nó là
thu phục lòng người. Học thuyết chính danh đề ra là bài thuốc để chữa trị xã hội
loạn, nhằm mục đích thu phục lòng người. Do vậy, dù đứng ở một góc độ nào đi
chăng nữa thì đây cũng chính là một học thuyết chính trị xã hội, nó đưa xã hội vào
kỷ cương có lợi cho giai cấp thống trị.
Đỗ Phú Khánh – CA140154 – Lớp KTHH Trang 7
Tiểu luận Triết học
Khổng Tử đưa ra học thuyết chính danh, đòi hỏi nhà cầm quyền phải có tài đức
xứng với địa vị của họ, lời nói và việc làm phải đi đôi với nhau, trọng việc làm hơn
lời nói. Dùng đạo đức của người cầm quyền để cai trị, cai trị bằng giáo dục, giáo
dưỡng, giáo hóa chứ không phải là cai trị bằng gươm giáo, bằng bạo lực. Đây là giá
trị phổ biến tích cực cho đến ngày nay.
Học thuyết "chính danh" cũng đặt ra vấn đề coi trọng người hiền tài, sử dụng
người hiền tài đúng với trình độ của họ. Như vậy, sẽ phát huy được hết tiềm năng
của người hiền tài nhằm phục vụ cho dân, cho nước. Đây cũng là một học thuyết coi
trọng sự học tập, có học mới được làm quan, coi sự học là tiêu chí để vào chính trị.
Sự học ở đây là có giáo dục, được giáo dục, được giáo hóa để rèn dũa những phẩm
chất đạo đức, rèn khí tiết, tu khí tiết, tu tâm.
Học thuyết chính danh còn có giá trị là khi thực hiện nó làm cho con người có
trách nhiệm với bản thân hơn, có trách nhiệm với công việc của mình hơn, từ đó
phấn đấu để hoàn thành nhiệm vụ được giao.
2.2.2 Mặt hạn chế
Học thuyết chính danh của Khổng Tử còn có hạn chế đó là hoài cổ, bao hàm ý
bảo thủ, phải trọng danh cũ, phải hành động hợp với tiêu chuẩn cũ. Trong học
thuyết chính danh của Khổng Tử vẫn trọng danh hơn thực, trọng xưa hơn nay, từ đó
ông đã gạt bỏ nhiều giá trị đạo đức mang tính nhân đạo Học thuyết chính danh mà
Khổng Tử đưa ra "Bất tại kỳ vị, bất mưu kỳ chính", "thứ nhân bất nghị" là không
cho dân có quyền bàn việc nước. Chỉ một ý đó thôi cũng cho ta thấy ở đây không có

dân chủ. Mặc dù ông rất yêu dân, lo cho dân ănng không cho dân bàn việc nước vì
dân không được học, không đủ tư cách bàn việc nước, cho họ làm việc nước thì sẽ
loạn.
Hơn nữa, học thuyết chính danh còn thể hiện rõ sự bất bình đẳng, thang bậc
trong xã hội, coi thường phụ nữ (người phụ nữ phải theo chồng thì mới đúng đạo
làm vợ), coi thường lao động chân tay. Và vì ông không dám đả động đến "tông
pháp" của Chu Công nên học thuyết chính danh của ông có vẻ lưng chừng, không
triệt để. Và chỉ là lý thuyết suông vì đương thời danh và thực mâu thuẫn nhau sâu
sắc. Do đó mà không thể làm được.
Đỗ Phú Khánh – CA140154 – Lớp KTHH Trang 8
Tiểu luận Triết học
2.2 Giá trị thuyết chính danh đối với sự phát triển tư tưởng triết học
Chủ trương làm cho xã hội có trật tự, Khổng Tử cho rằng trước hết là thực hiện
“chính danh”. Mỗi cái danh đều mang trong nó những điều kiện bản chất mà vật
mang danh ấy phải thực hiện cho đúng. Sau này các triết gia Trung Quốc đã tiếp tục
nghiên cứu và phát triền nó dựa trên nền tảng mà ông đã đưa ra.
Mặc tử có quan niệm khác nhau về danh và thực. Nếu Khổng Tử đưa ra sự phù
hợp giữa danh và thực theo nghĩa mang danh nào thì phải có tính chất đúng với cái
danh ấy thì Mặc Tử lại có quan điểm “thủ thực dữ danh”, tức là phải dựa vào sự vật
và hành vi trong tồn tại mà đặt tên. Phát triên quan điểm đó Mặc Tử còn đưa ra ba
tiêu chuẩn (tam biểu) để đi tìm cái đúng: Căn cứ vào những kinh nghiệm của các
thánh nhân đời xưa, căn cứ trên kinh nghiệm của bách tính, và căn cứ trên sự xác
nhận của thực tiễn khi đem một chính sách ra dùng.
Tuân Tử thuộc nho gia kế thừa học thuyết của Khổng Tử kết hợp với những
thành quả của Mặc gia đã thành lập một hệ thống lý luận khá chặt chẽ làm nền tảng
cho sự diễn tả thuyết chính danh Nho học của ông.
Ở Việt Nam, học thuyết chính danh cũng như Nho giáo nói chung đã góp phần
hình thành nên hệ thống tư tưởng triết học mang đậm bản sắc dân tộc. Trong khi các
nguyên tắc cai trị xã hội của Nho giáo Trung Hoa có phần cứng nhắc và hà khắc thì
ở Việt Nam thấm sau tình nhân ái và lòng yêu nước được đặt lên hàng đầu.

Có thể nói, thuyết chính danh cũng như Nho giáo có vai trò quan trọng trong
nền triết học cổ, trung đại Trung Hoa nói riêng và phương Đông nói chung. Và
thuyết chính danh nguyên thủy do Khổng Tử đề xường là nền tảng để các nhà
Khổng giáo đời sau phát triển cho phù hợp với xã hội.
CHƯƠNG 3: Ý NGHĨA CỦA HỌC THUYẾT CHÍNH DANH TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY
Những tư tưởng triết học của Nho gia xuất hiện vào thế kỷ VI trước công
nguyên, trải qua hơn hai ngàn năm cho đến nay, Nho giao đã để lại cho đời những
tư tưởng triết học về luân lý, đạo đức chính trị - xã hội rất sâu sắc và vô cùng quý
giá. Nhất là trong giai đoạn hiện nay nước ta đang chuyển sang nền kinh tế thị
trường, mở của quan hệ với các nước trên thế giới, với sự du nhập của văn hóa
Đỗ Phú Khánh – CA140154 – Lớp KTHH Trang 9
Tiểu luận Triết học
phương Tây, ở một khía cạnh nào đó, một số giá trị đạo đức cũng bị thay đổi, thì
những tư tưởng về chữ Nhân của con người có ý nghĩa rất lớn trong việc giáo dục
lối sông cho thế hệ trẻ hiện nay.
Chính danh là một nguyên tắc để ổn định trật tự xã hội. Mặc dù ra đời để phục
vụ cho việc cai trị đất nước của các bậc đế vương thời phong kiến nhưng cho đến
nay cùng với một số tư tưởng khác của Nho giáo, “chính danh” vẫn phát huy tác
dụng.
Trong lĩnh vực chính trị, chế độ phong kiến đã lùi xa nhưng xã hội mới cũng
đòi hỏi phải “chính danh” mới đảm bảo trật tự. Có nghĩa là các vị quan chức chính
phủ phải có tư cách đạo đức, luôn làm tròn trách nhiệm theo đúng cái “danh” mà
mình mang để đảm bảo cuộc sống ấm no hạnh phúc cho nhân dân. Còn dân thì cũng
có trách nhiệm thực hiện pháp luật chủ trương của nhà nước, giám sát nhà nước,…
Chúng ta tự hào có một vị lãnh tụ thiên tài - Hồ Chí Minh với phẩm chất đạo đức
cách mạng sáng ngời. Người dạy cán bộ phải cần, kiệm, liêm, chính (chữ chính này
bao gồm cả “chính danh”), và chính Người cũng là một tấm gương cho sự chính
danh với lối sống giản dị gần gũi nhân dân lúc nào cũng một lòng hướng về dân về
nước. Cho nên vấn đề chính danh là một trong những chủ trương của nhà nước ta

hiện nay để đảm bảo đất nước phát triển bền vững, ổn định, khi tình trạng tham
nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không
nhỏ cán bộ đảng viên là rất nghiêm trọng, nó có ảnh hưởng rất lớn đối với lòng tin
của nhân dân, với Đảng, với chế độ mà nguyên nhân chính là việc tổ chức thực hiện
nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng chưa tốt, kỷ luật, kỷ cương chưa
nghiêm và tinh thần trách nhiệm chấp hành của cán bộ và nhân dân chưa cao. Vì
vậy, mỗi cán bộ, mỗi người đảng viên phải xác định trách nhiệm, nghĩa vụ của
mình, hay nói cách khác là phải "chính danh, định phận" để góp phần đề ra chủ
trương, chính sách cho phù hợp với thực tế và quyết tâm thực hiện tính nghiêm
minh của pháp luật.
Trong giai đoạn hiện nay, nếu chúng ta vận dụng học thuyết "chính danh" để
xây dựng đội ngũ cán bộ công chức nhà nước có vị trí xứng đáng với tài năng của
mình, thì sẽ góp phần nâng cao hiệu quả làm việc của người lao động và năng suất
lao động xã hội sẽ ngày càng cao hơn. Thực tế hiện nay ở các cấp, các ngành vẫn
Đỗ Phú Khánh – CA140154 – Lớp KTHH Trang 10
Tiểu luận Triết học
còn tồn tại một đội ngũ cán bộ kiêm chức khá đông, mà theo như Khổng Tử nói
"danh không chính thì ngôn không thuận, ngôn không thuận thì việc không
thành ". Cho nên hiệu quả công việc không cao, tình trạng ỷ lại cho nhau vẫn còn
mà cụ thể nhất là vấn đề chịu trách nhiệm trước công việc chung. Vì vậy, xây dựng
đội ngũ cán bộ chúng ta phải coi trọng tài năng của họ để xây dựng đội ngũ cán bộ
có tính chuyên nghiệp, nghĩa là biết người, biết dùng người tạo điều kiện cho họ
phát huy hết tài năng và phẩm chất của mình, phải chính quy đội ngũ cán bộ, tránh
tình trạng kiêm nhiệm, kiêm chức để xảy ra tình trạng "nhiều sãi không ai đóng cửa
chùa".
Tóm lại, học thuyết "chính danh" của Nho giáo đương thời Khổng Tử là ảo
tưởng, nhưng những giá trị hợp lý của nó mà chúng ta biết vận dụng, biết chắt lọc
và thực hiện nó thì sẽ đưa xã hội vào trật tự kỷ cương, làm cho người dân trung
thành với chế độ với sự nghiệp hơn. Vận dụng học thuyết "chính danh" ông chủ coi
công nhân như con cái của mình, quan tâm, lo lắng đến cuộc sống của người công

nhân, đến gia đình người công nhân. Từ đó, người công nhân cũng làm việc xứng
với cái danh của mình, trung thành, hết lòng, thành tâm với ông chủ, với xí nghiệp,
dồn hết sức lực của mình để tạo ra giá trị thặng dư cao. Đó là bí quyết hóa rồng của
Nhật Bản và các nước châu Á. Điều đó rất có ý nghĩa trong giai đoạn mới của Việt
Nam hiện nay.
Đỗ Phú Khánh – CA140154 – Lớp KTHH Trang 11
Tiểu luận Triết học Kết
luận
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu nội dung học thuyết chính danh của Nho giáo, nếu chúng ta gạt
bỏ đi những yếu tố bất hợp lý như là bất bình đẳng, thang bậc xã hội, gạn lọc những
nhân tố hợp lý của học thuyết thì nó rất có ý nghĩa đối với xã hội hiện đại. Vận
dụng nó chúng ta xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa có tâm trong sáng, có
trí tuệ và thể lực tốt, có lập trường quan điểm vững vàng, có trách nhiệm với mình,
với mọi người, có lòng yêu thương đồng loại, luôn phấn khởi và tin tưởng đem hết
nhiệt tình, trí tuệ và năng lực của mình đóng góp một cách tích cực vào cuộc phấn
đấu chung của cả nước và thế giới.
Để phát triển đất nước ngày càng giàu mạnh thì chúng ta phải phát huy nhân tố
con người, khuyến khích người dân học tập nâng cao trình độ, phải học tập khí tiến
học, tinh thần học, thái độ học của Nho giáo để không những tu dưỡng rèn luyện
thành con người có đức mà còn phải học khoa học kỹ thuật để áp dụng và phát triển
đất nước. phải tôn trọng và sử dụng người hiền tài, tạo điều kiện cho học làm việc
phù hợp với sở trường của từng ngời để tạo ra được giá trị cao trong lao động, làm
cho họ ở cương vị nào cũng hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Đỗ Phú Khánh – CA140154 – Lớp KTHH Trang 12
Tiểu luận Triết học Tài liệu tham
khảo
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đỗ Phú Khánh – CA140154 – Lớp KTHH Trang 13

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×