Thưa thầy kính mến,
Nhận được tin thầy đang định cư ở Canada, em mừng quá, vội
viết thư thăm hỏi sức khỏe của thầy cô và gia quyến. Mới đó
đã gần bốn mươi năm không gặp lại thầy, cuộc đời dâu bể, bể
dâu biết bao nhiêu thay đổi, vậy mà có lúc nào đó trong cuộc
đời, em vẫn nhớ đến một khoảng trời rất xanh bên ngoài khung
cửa lớp. Ở đó có cây sao già rì rào lời tình tự quanh năm, đứa
học trò lơ đãng của thầy có lúc đã thả hồn lơ mơ theo cánh
chim bay ngoài cửa sổ.
Thưa thầy,
Nhắc lại thuở còn đi học với các thầy cô năm ấy, em nhớ thầy
nhiều nhất, vì lẽ thầy là giáo sư hướng dẫn của lớp, lại cũng
là vị giáo sư Việt văn trẻ tuổi, có nhiều bài thơ hay chứa đầy
tình tự quê hương và tình yêu tuổi trẻ. Thầy là người đã đi qua
và chúng em là những người sẽ bước tới, thầy đã chia xẻ cho
đám học trò nhiều chuyện đời buồn vui bên ngoài khung cửa
lớp. Nó như một khám phá mới lạ bên ngoài thế giới học trò,
bỗng dưng em có cảm tưởng mình được chắp đôi cánh, bay
bổng vào vùng trời của sự hiểu biết. Em cám ơn thầy nhiều
lắm, nhờ vậy mà sau này em nhìn đời bằng đôi mắt thoáng
đãng hơn, quảng đại hơn để dễ dàng chia xẻ với mọi người
ngay trong những hoàn cảnh đớn đau nhất.
Thầy ơi! Thầy có nhớ cái lớp học ban C lẫn lộn nam sinh
và nữ sinh năm ấy không hở thầy? Chúng em là lũ học trò
đang tuổi lớn nên nhiều chuyện lộn xộn lắm. Ngày nào dưới
hộc bàn của em cũng có một tờ giấy học trò xếp làm tư,
trong ấy khi là mấy vần thơ, khi lại là một lời tỏ tình rất
ngô nghê, ngắn ngủi, người gửi đã chẳng ký tên . Có khi tác
giả những lá thư ấy là lũ kẹp tóc tụi em chọc ghẹo nhau, có
khi từ những bạn phái nam cùng lớp, những câu tỏ tình rất
ngộ nghĩnh, mà có khi chỉ là những tia nhìn đằm thắm gởi
trao. Trong ấy có đôi mắt của người bạn đồng lớp, chưa hề
nói với em một lời nào, nhưng mãi cho đến ngày bạn ấy từ
giã bạn bè, xếp bút nghiên theo nghiệp đao binh, rồi vì
phần số ngắn ngủi, người bạn ấy đã đền nợ nước một chiều
bên dòng sông quê mẹ .
Ðôi mắt ấy cứ ám ảnh em mãi một thời gian dài, ngay cả
lúc này đây, đã nhiều năm trôi qua em vẫn nhìn thấy đôi
mắt ấy. Đôi mắt thuở học trò, biểu tượng cho một tình
cảm trọn vẹn trong sáng đã làm em bối rối suốt một đời
mỗi lần nghĩ đến.Sau này lớn lên, trong đời em có dịp
gặp gỡ và đối diện với bao nhiêu cái nhìn của tha nhân,
em mới thấy cái câu "đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn "
thật đúng.
Thầy biết không? Sau này ngẫu nhiên em lại đi vào
nghề nghiệp của thầy, nghĩa là lại trở thành nhà giáo. Ðể
rồi có một ngày, theo vận nước nổi trôi đã xô đẩy mỗi
người mỗi nơi mỗi ngả, em nghe tin thầy thoát được sang
bên kia với ít nhiều mất mát của gia đình, nhưng bù lại
thầy có cái tự do bù trừ cho những mất mát đó. Em lại
nhớ đến chuyện Tái Ông mất ngựa, cái may cái rủi cuả
đời người, và luật bù trừ của trời đất, như vậy thì buồn
làm gì hở thầy?
Như em, đứa học trò tầm thường của thầy, có cái mặt tròn và chiếc
mũi hếch, khoa thẩm mỹ cũng không làm sao kéo dài cho thanh tú
hơn, nhưng bù lại em có đôi lúm đồng tiền, vì vậy mà khi em cười
khuôn mặt đỡ tròn hơn nhờ hai phần lõm xuống trên đôi má, trông
em lại có duyên, để cái người bạn có ánh mắt năm xưa đã có công
ngồi chép bài " Mười thương " tặng cô bạn nhỏ nhoi, tội nghiệp.
Sau cái chết của anh bạn học, tự nhiên em chán đời mất một thời
gian, không phải vì nhớ nhung người bạn cũ, nhưng có lẽ em vừa
chợt nhìn ra thân phận nhỏ bé của con người bất lực trước bàn tay
của định mệnh, những bất hạnh đổ xuống từng giây từng phút .
Thuở ấy ngày nào trên đường đi học về em vẫn phải đạp xe ngang
khu nghĩa trang, ngày nào em cũng thấy những vành khăn trắng,
những đôi mắt đỏ hoe, những vòng hoa tang héo dần trên nấm mộ
mới, cho đến năm em mười chín tuổi, em có làm được mấy vần thơ
cho người bạn cũ, để em ghi lại cho thầy đọc:
“Người bạn thân yêu ơi!
Có những buổi chiều đi ngang nghĩa trang,
Nhìn những nấm mộ bia xếp hàng im lặng,
Buổi chiều có nắng vàng se sắt,
Buổi chiều có lá sao khô,
Trên cành những bông hoa sứ nở,
Lòng tôi chợt nảy sinh bỡ ngỡ,
Rồi một mai sẽ tàn như nắng quái chiều hôm,
Như lá sao khô rời cành bay lả tả,
Như hoa sứ rụng trên bờ cỏ uá. . .”
( thơ Nguyên Nhung ).
Thưa thầy, đứa học trò của thầy đã ảnh hưởng nơi thầy
một chút nào về sự "vô thường" của cõi nhân gian, vốn là
không lại trở về không, vốn là bụi lại trở về bụi. Em vẫn
nhớ những giờ học cuối năm, khi mùa thi đã qua, thầy
thường ngâm thơ cho học trò nghe. Mới đầu cả lớp khúc
khích cười, nhưng sau phút giây bỡ ngỡ đó, tất cả đều im
lặng để nghe tiếng thơ rộn ràng trong thanh âm sang
sảng của ông thầy nghệ sĩ, có những uẩn khúc, có những
đớn đau. Sau này lớn lên em mới hiểu, thầy cũng cần có
những phút giây để trang trải nỗi niềm sâu kín của con
tim. Như em vậy thôi, em cũng từng say sưa đọc đi đọc lại
bài viết của mình, có lúc cười như người khùng điên, có
lúc buồn chứa chan nước mắt, như lúc này đây, khi viết
thư cho thầy em cũng khóc
Sau năm 75, em kẹt lại quê nhà cho nên giờ này mới có lắm
chuyện để kể thầy nghe. Em nghĩ thầy rất thích đọc thư, dù
không có giờ để viết thư. Ở bên này, người ta chỉ cần nhắc
phôn lên là nói đủ thứ chuyện đời, lời nói tuôn ào ào như
nước đổ xuống ngày đêm ở thác Niagara nơi thầy ở. Em
tưởng tượng một ngày nào đó nước ngừng đổ, thác chỉ còn trơ
lại những bờ đá khô queo, lởm chởm, người ta sẽ dửng dưng
nhìn nó như một phong cảnh chết, có còn lại chăng là những
tấm hình lưu lại cảnh hùng vĩ của chốn xưa. Do đấy em mới
viết thư để thầy đọc, rồi có một lúc nào đó , vô tình thầy lật lại
chồng thư cũ, biết đâu lá thư của em không mang lại cho thầy
một chút vui trong cuộc sống vốn rất nhiều phiền muộn, phải
không thầy?
Em là cô giáo nghèo giữa đám học trò cũng khốn khổ
như mình. Thầy biết không? Tháng 6 năm 1975 chồng
em lên đường vào trại tù CS, bảy tám năm tù tội anh để
em một mình ngu ngơ nuôi hai đứa con nhỏ, chỉ có hai
đứa thôi mà nhiều khi em muốn ngã gục thì đừng nói gì
đến những người phụ nữ thay chồng nuôi một đàn con
năm, bảy đứa. Em vừa làm cô giáo vừa đi bán chợ trời.
Ở trường học, em rất xấu hổ khi đã làm nghèo đi kiến
thức của mình bằng những lời lếu láo theo sự chỉ đạo
của cấp trên để dạy dỗ học trò. Ra trường đời, có
chung đụng với sự lọc lừa kiếm sống, em ngây thơ như
con nai tơ. Sự bắt buộc phải nói những điều lếu láo
trong lớp học đã làm em xấu hổ, rồi bắt buộc phải dối
trá ngoài chợ đời làm em tủi nhục biết bao nhiêu.
Em gặp đứa học trò cũ mấy niên học trước, nay cũng được
đẩy ra vỉa hè để tập ăn gian, nói dối với mọi người, tất cả
những gì học được nơi nhà trường mấy mươi năm trước
đều vứt đi, nếu không làm sao để sống. Em cố gắng duy trì
phần tốt của nhà giáo giữa nơi xô bồ đó, được chừng nào
hay chừng nấy, nếu không chọn được sự hoàn thiện thì
cũng phải chọn điều gì ít xấu nhất, phải không thầy?
Câu chuyện cuả một chị nhà giáo em kể thầy nghe tiếp đây,
để mà càng chán chường cho thân phận nhà giáo những
năm tháng đó. Lương bổng không đủ lo cho gia đình nên
chị cũng phải lăn lộn ngoài vỉa hè mới mong nuôi nổi lũ
con còn đang tuổi cắp sách đến trường. Buổi chiều phải
gác thi, buổi sáng chị vẫn ráng chạy ra chợ kiếm thêm
đồng nào hay đồng nấy.