Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

vài điều cần chú ý về tiếp cận bn đau ngực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.47 KB, 9 trang )

Chương 21: Đau ngực
Joseph R. Shackelford
Đau ngực là một triệu chứng thông thường và quan trọng. Nó thường không xuất hiện như đã mô
tả trong sách giáo khoa. Đau ngực là một triệu chứng làm lo lắng và thường nổi lên một câu hỏi
lớn trong tâm trí của người bệnh: có thể là tôi đau tim chǎng? Sợ chết hoặc bệnh nghiêm trọng
đó dù có biểu lộ công khai hay không cũng mang một sự thật trong nền vǎn hoá của chúng ta cho
mọi thành phần kinh tế và mỗi lứa tuổi. Vì vậy, đau ngực đã gây ra sự lo lắng đáng kể cho cả
bệnh nhân và cho cả thầy thuốc.
Chương này trình bày một tổng quan về đau ngực như thường gặp trong phòng khám bệnh của
thầy thuốc gia đình. Các nguyên nhân của đau ngực sẽ được trình bày và sau đó là bàn luận về sự
tiếp cận với các bệnh nhân có triệu chứng chung này.
CáC NGUYÊN NHÂN CủA ĐAU NGựC
Bất kỳ một hệ thống nào trong cơ thể cũng có thể gây ra đau ngực. Các nguyên nhân chung của
triệu chứng này được liệt kê trong bảng 21.1. Sự hiểu biết về các nguyên nhân chính thường gặp
và không điển hình của đau ngực sẽ giúp cho nhà lâm sàng đánh giá từng bệnh nhân một cách
hiệu quả. Trong phần lớn các trường hợp, xem xét kỹ lưỡng bệnh sử, chú ý đến các yếu tố dịch tễ
như tuổi, giới và sự thǎm khám thực thể tập trung vào các dấu hiệu quan trọng và vào ngực
thường sẽ mang lại chẩn đoán đúng và sẽ cung cấp chìa khóa để lầm yên lòng và quản lý hiệu
quả người bệnh.
Bảng 21.1 Các nguyên nhân đau ngực
Rất phổ biến Phổ biến ít gặp
Đau thắt ngực
Viêm sườn - sun
Đau giập ngực
Khó tiêu
Co thắt thực quản
Gộy xương sườn. xương đòn
Nhồi máu cấp tính cơ tim
Khí thũng phổi cấp tính
Viêm màng phổi cấp
Viêm hạch nách


Herpes zoster (zona) hoặc tiền
triệu của zona
Viêm cấp màng ngoài tim
Tách động mạch chủ
Đụng giập tim
Phình động mạch chủ đoạn ngực
Sa van 2 lá
Đau lan lừ bụng
hoặc vai
Hội chứng bẫy khí
Thoái vị hoành
Đau cơ liên sườn thứ phát do
hội chứng virus
Đau vú do bệnh xơ nang, nhiễm
trùng, dùng hormon estregen có
thai, đang thời kỳ cho con bú
Hôi chứng cơ mạc
Đau ngực tâm lý
Bệnh đĩa liên đốt sống
Viêm thực quản
Tắc mạch phổi
Viêm khớp ức - đòn
Sai khớp sườn - sụn nhẹ
Về mặt giải phẫu, đau ngực có thể bị gây ra bởi các vấn đề thuộc các khu vực sau: (a) tim và các
mạch máu lớn, (b) phổi và màng phổi, (c) hệ thống xương (thuộc vùng ngực, cổ và lưng), (d) da
và các mô mềm (kể cả vú), (e) hệ thống tiêu hóa, và (f) các cấu trúc sâu của ngực.
Tim và các mạch lớn
Đau thắt ngực: là đau vùng trước ngực gây ra do suy mạch vành có hồi phục. Nó xuất hiện khi
một phần của cơ tim không nhận đủ oxy. Đau của đau thắt ngực thì thường ở trước tim, có thể
lan ra cổ, hàm, mặt và một hoặc cả tay. Đau thường được mô tả giống như cảm giác đè nén, nặng

nề bị siết chặt và bệnh nhân đôi khi nắm chặt tay để biểu lộ cảm giác đau. Hiếm khi có cảm giác
rát bỏng, và không bao giờ có cảm giác đau chói hoặc như dao đâm. Đau thắt ngực cổ điển xẩy
ra sau gắng sức hoặc stress tâm lý; đau thắt ngực biến thể (Prinzmetal) xẩy ra do co thắt động
mạch vành và thường xuất hiện trong lúc nghỉ ngơi. Đau thắt ngực cổ điển thường dịu đi khi
nghỉ ngơi về thể lực hoặc không bị xúc động và đáp ứng nhanh chóng với nitroglycerin đặt dưới
lưỡi.
Đau thắt ngực thường đi kèm với xơ vữa động mạch vành, nhưng có thể (hiếm khi) xây ra khi
không có xơ vữa động mạch vành mà là kết quả của bệnh cơ tim phì đại. Các dấu hiệu thực thể
trong đau thắt ngực thường là bình thường, đôi khi có thể thấy nhịp tim ngựa phi thoáng qua,
tiếng B
2
phân đôi nghịch thường, hoặc tiếng thổi tâm thu nhẹ.
Điện tâm đồ (ĐTĐ) lúc nghỉ ngơi thường ghi được khi có nghi ngờ đau thắt ngực hoặc nhồi máu
cơ tim. Vì phần lớn bệnh nhân đau thắt ngực lại không đau khi thǎm khám tại phòng khám, cho
nên ĐTĐ làm tại phòng khám ít khi giúp chẩn đoán được bệnh. Những ĐTĐ lúc nghỉ ở người bị
đau thắt ngực là bình thường trong khoảng nửa số lần khám, số còn lại là những dấu hiệu thể
hiện tổn thương cơ tim cũ. Lý tưởng là ghi được điện tâm đồ khi đang có đau ngực hoặc khi nhu
cầu oxy cao, tìm các dấu hiệu thiếu máu cục bộ. Đó là cơ sở cho nghiệm pháp stress gắng sức là
nghiệm pháp dùng xe đạp cơ lực kế hoặc đi trên thanh quay cơ học để tǎng dần sự gắng sức
trong khi theo dõi liên tục điện tâm đồ. Các kết quả của nghiệm pháp stress gắng sức có thể
hướng dẫn sự can thiệp về sau.
Nhồi máu cơ tim cấp (NMCT) là kết quả của sự thiếu máu cục bộ tương đối lâu dẫn tới tổn
thương thường xuyên của cơ tim. Đau của NMCT cũng giống như đau trong đau thắt ngực, chỉ
có trầm trọng hơn, đau không ngừng và thường kèm theo các dấu hiệu toàn thân như mệt mỏi,
toát mồ hôi, buồn nôn và/ hoặc thở gấp. Thêm vào đó, nhồi máu cơ tim cấp có thể gây ra nhịp
tim chậm, nhịp tim nhanh, hạ huyết áp hoặc một loại loạn nhịp tim nào đó.
Sự nhồi máu (hoại tử cơ tim) sẽ hoàn thành trong vòng 3 đến 6 giờ sau khởi phát cơn đau. Cho
nên việc chẩn đoán sớm là cấp bách vì sự can thiệp nhanh có thể làm giảm hoặc đảo ngược
thương tổn do thiếu máu. Ghi điện tâm đồ trong cơn đau thắt ngực sẽ làm chẩn đoán được chính
xác nhồi máu cơ tim 85% trường hợp (nghĩa là tỷ lệ âm tính giả 15%). Các ĐTĐ cũ để so sánh

và các ĐTĐ ghi được hàng loạt trong thời gian nghi có nhồi máu cơ tim là rất có ích cho chẩn
đoán. Phân đoạn MB của enzym creatinin phosphokinase (SPK) tǎng lên trong vòng 3 giờ khi
bắt đầu cơn đau và đỉnh cao là khoảng giờ thứ 12. Phân đoạn MB có thể tǎng cao trong một số
nhồi máu cơ tim ngay cả khi CPK toàn phần còn giữ ở mức bình thường. Mức CPK - MB cho
phép đánh giá được một mức độ nào đó sự tổn thương của cơ tim. Sự đánh giá các yếu tố nguy
cơ là đặc biệt thích hợp trong đau thắt ngực và nhồi máu cơ tim vì sự thay đổi có thể làm chậm
hoặc làm ngừng sự tiến triển bệnh.
Viêm màng ngoài tim cấp tính: Viêm màng ngoài tim cấp tính gây ra đau vùng trước ngực lan
tỏa, cơn đau tǎng lên khi thở vào hoặc khi nằm. Đôi khi cảm thấy đau chủ yếu ở bờ cơ thang trái.
Dạng đặc trưng nhất của viêm màng ngoài tim là cơn đau sẽ giảm đi một phần khi bệnh nhân
đứng lên và ngả người về phía trước. Viêm cấp màng ngoài tim có nhiều nguyên nhân, nhưng
thường gặp nhất là do nhiễm virus và thường kèm theo sốt nhẹ, nhịp tim nhanh. Trong phần lớn
các trường hợp, nếu nghe nhiều lần có thể thấy tiếng cọ màng ngoài tim. Các thay đổi về ĐTĐ
giúp cho chẩn đoán là ST ở trên đường đẳng điển trong mọi đạo trình, trừ AVR, V
1
và/ hoặc V
4
.
Viêm màng ngoài tim có thể xẩy ra 4-7 ngày sau nhồi máu cơ tim, đặc biệt là nhồi máu rộng
hoặc xuyên thành. Nó gây ra đau thông thường, tiếng cọ màng tim và tự giới hạn, nhưng nó có
thể bị nhầm lẫn với đau liên tục hoặc do thiếu máu cục bộ tái phát. Khi nó xẩy ra vài tuần sau
nhồi máu cơ tim thì là hội chứng Dressler và được cho là do nguyên nhân virus hoặc tự miễn.
Hội chứng tương tự có thể xẩy ra 2- 4 tuần sau bất kỳ một phẫu thuật nào có rạch vào màng
ngoài tim.
Sa van hai lá: Có thể gãy đau rất mạnh ở vùng trước tim, không liên quan đến gắng sức. Chủ yếu
hay gặp ở phụ nữ trẻ, đặc biệt là ở những người gầy có sải tay dài. Đặc trưng là ở vùng van 2 lá
có tiếng rì rào cuối tâm thu và tiếng đập "clic". Cần phải xác nhận chẩn đoán bằng tâm thanh đồ.
Tác động mạch chủ: gây ra cơn đau trầm trọng "như xé" thường ở sau ngực. Trường hợp điển
hình, bệnh nhân có tiền sử cao huyết áp. Đầu mối của chẩn đoán bao gồm sự giảm, tắc hoặc sự
dao động của mạch cánh tay hoặc mạch cảnh và trên X- quang thấy động mạch chủ ở vùng ngực

rộng ra.
Đụng giập tim: đụng giập tim do chấn thương có thể xẩy ra trong tai nạn ôtô (khi ngực đập vào
cần lái), va chạm trong thể thao (như bóng đá) hoặc cú đấm nhau. Nó gây ra đau ngực rất mạnh
và dễ bị che phủ bởi đau cơ ĐTĐ chứng tỏ có tổn thương cơ tim (ST trên đường đồng điệu).
Phổi và màng phổi
Viêm màng phổi: gây ra đau ngực có giới hạn ở vùng màng phổi bị viêm. Nó có thể xẩy ra như là
kết quả của nhiễm khuẩn nguyên phát, chấn thương, khối u hoặc do sự lan rộng của một trong
những quá trình đó ra vùng phổi xung quanh. Viêm màng phổi thường được mô tả như là một
cơn đau dữ dội, tǎng lên khi thở hoặc động tác lồng ngực (đó là đau ngực "kiểu viêm màng
ngực". Nó có thể gây cảm giác thở ngắn vì cử động lồng ngực đã bị cảm giác đau hạn chế.
Nhiễm khuẩn nguyên phát của màng phổi (viêm màng phổi) thường là do virus. Nó có thể phát
thành dịch, và được gọi là "viêm màng phổi thành dịch", hoặc bệnh Bornholm's. Nó có thể kéo
dài nhiều ngày, nhưng tiên lượng là lành tính. Sự lan rộng của viêm phổi, đặc biệt là nếu nó bắt
đầu từ ngoại biên (như viêm phổi do streptococus pneumoniae), có thể gây ra viêm màng phổi.
Tràn khí màng phổi cấp: có thể gây ra đau ngực và khó thở từ nhẹ đến nặng, phụ thuộc chủ yếu
vào bao nhiêu phần phổi đa bị xẹp. Tràn khí màng phổi cấp tính thường xảy ra cho người từ 20
đến 30 tuổi và tỷ lệ nam: nữ là 5:1 - Nó thường bị tái nhiễm. Phần lớn những người có tràn khí
màng phổi tự phát thường cao và mảnh. Hút thuốc là một yếu tố nguy cơ. Phim X- quang lồng
ngực thường để chẩn đoán (nếu thầy thuốc chú ý tìm tràn khí màng phổi).
Nghẽn mạch phổi: có thể giả dạng gần giống với bất kỳ một quá trình nào gây đau ngực. Nghẽn
mạch phổi có thể chỉ gây ra khó thở, nhưng điển hình hơn là có kèm theo đau ngực từ nhẹ đến
nặng, với tính chất thay đổi từ đau dưới xương ức tới đau kiểu viêm màng phổi. Nghẽn mạch
phổi thường là kết quả của huyết khối tĩnh mạch sâu và cũng không may là nó thường xuyên
"yên lặng". Các yếu tố nguy cơ là một nghẽn mạch phổi trước, một phẫu thuật mới (hoặc sau đẻ),
nằm bất động lâu, béo bệu quá, viêm tắc tĩnh mạch và sử dụng estrogen ngoại lai.
Nghẽn mạch phổi luôn luôn phải được cân nhắc trong chẩn đoán phân biệt của đau ngực cấp tính
vì có tỷ lệ tử vong cao và thường khó chẩn đoán. Ngoài bệnh sử, đầu mối tốt nhất của chẩn đoán
là giảm PAO2 (áp lực oxy động mạch), ĐTĐ và phim X- quang lồng ngực đôi khi cũng giúp cho
chẩn đoán, nhưng thường là bình thường hoặc không đặc hiệu. Nhấp nháy đồ thông khí- tưới
máu phổi có tính gợi ý cao, có thể được cân nhắc chẩn đoán trong các bệnh cảnh lâm sàng thích

hợp. Chụp mạch phổi là "chuẩn vàng". Vận động sớm sau chấn thương, bị bệnh hoặc sau phẫu
thuật là phương pháp dự phòng tốt nhất. Khi có mặt các yếu tố rủi ro, cần luôn luôn giữ sự nghi
ngờ.
Cơ - xương
Sự đụng giập thành ngực, một gẫy xương sườn, gây xương đòn, hoặc đốt sống, viêm sụn xương
sườn viêm khớp ức đòn hoặc viêm khớp vai hoặc viêm bao hoạt dịch, tất cả đều có thể gây ra
đau ngực. Lịch sử bệnh, cùng với tǎng cảm giác đau tại chỗ khi thǎm khám thường cung cấp
những dữ liệu chẩn đoán có giá trị nhất. Bệnh liên đĩa cột sống hoặc bệnh diện khớp của các đốt
sống cổ và ngực có thể gây đau ngực theo rễ thần kinh. Đau ngực do các bệnh diện khớp của các
đốt sống cổ thường có thể tái hiện được bằng cách nén vào các khớp bệnh lý.
Viêm xương sườn sun là một nguyên nhân thường gặp của đau ngực. Nó là viêm nhẹ khớp xương
ức với xương sườn. Mọt cách điển hình là nhiều khớp ức - sườn bị viêm. Bệnh nhân cảm thấy
đau ngực và đau tǎng lên khi vận động (hoặc đôi khi là lúc thở). Thǎm khám thực thể có thể chẩn
đoán được. ấn mạnh vào khớp viêm làm cho bệnh nhân đau rất nhiều. Viêm xương sườn-sụn
điển hình kéo dài 3-6 tuần. Các thuốc chống viêm không phải loại steroid như aspirin, ibuprofen,
hoặc naproxen thường làm giảm đau có ý nghĩa.
Da và mô mềm
Viêm hoặc kích thích các mô mềm thường biểu hiện như "đau ngực". Các loại u nang ở da, viêm
hạch nách, đau do viêm vú, bệnh nang xơ và apxe vú đều là các chẩn đoán có thể. Vì vậy, sự
thǎm khám cẩn thẩn vùng nách, ngực, cổ và vùng ngực nông thường sẽ xác định được nguyên
nhân của đau ngực không điển hình.
Bệnh zona (Herpes zoster) là đặc biệt khó khǎn cho chẩn đoán khì nó biểu hiện như đau ngực do
rễ thần kinh thí dụ tiền triệu của zona mắc ở rễ thần kinh cổ dưới sẽ gây đau ngực và cánh tay
trái. Đau do zona thường nặng và có phát ban 3-4 ngày trước. Vì vậy, đã có trên 1 bệnh nhân
được điều trị để "/oại trừ nhồi máu cơ tim", chỉ vì có sự phát triển muộn hơn của ban mọng nước
đặc trưng.
Bệnh đường tiêu hóa
Co thắt thực quản, viêm thực quản, thoát vị hoành, vỡ thực quản, loét miệng nối, viêm dạ dày và
viêm tuỵ, tất cả đều có thể gây đau ngực, giống với đau tim . Đau đường tiêu hóa thường liên
quan tới thời gian hoặc nội dung của bữa ǎn và được giảm nhẹ bằng cho thuốc chống đầy hơi

hoặc kháng acid. Cũng thường có sự nhầm lẫn cho các nhà lâm sàng là đau do co thắt thực quản
có thể điều trị bằng nitroglycerin như với cơn đau thắt ngực.
Tạng ở ổ bụng bị vỡ (loét miệng nối) hoặc viêm cơ hoành có thể gây đau ngực. Nguyên nhân
khác là khí bị giữ lại ở chỗ gấp nếp tại vùng lách của đại tràng (hội chứng nếp gấp vùng lách).
Các nguyên nhân khác
Đau ngực có thể bị gây ra do cấu trúc trung thất giãn rộng (khối u) viêm hoặc thủng. Đau trung
thất thường liên tục và có thể thay đổi theo nhịp thở. Lịch sử bệnh và phim X- quang vùng ngực
là phương tiện chẩn đoán sàng lọc hữu hiệu nhất.
Chính sự lo lắng có thể lại là vấn đề đầu tiên khi có đau ngực. Khi bệnh nhân có lo lắng quá
nhiều thì các triệu chứng nhẹ về cơ bắp hoặc tiêu hóa có thể được coi là nặng, trong khi đối với
nhiều người khác thì lại chỉ là bình thường.
tiếp CậN với BệNH NHÂN ĐAU NGựC
Đến khám ban đầu
Vì tốc độ của điều trị là quyết định chính của sự sống sót trong nhồi máu cơ tim cho nên sự tiếp
cận thật nhanh chóng với việc chǎm sóc y tế là cốt yếu cho bệnh nhân bị đau ngực. ở các vùng
trung tâm, nơi có các dịch vụ cấp cứu và các chương trình chǎm sóc tim mạch phát triển, các số
liệu cho thấy sự can thiệp rất sớm trong đau ngực do tim đã cải thiện rất mạnh tỷ lệ sống sót. Nếu
bệnh nhân đau ngực không có thầy thuốc riêng, hoặc thầy thuốc riêng của họ lại vắng mặt, họ
thường đến khoa cấp cứu để khám.
Xứ Lý QUA ĐIệN THOạI
Nhiều bệnh nhân đau ngực gọi điện đến nhà hoặc phòng khám bệnh của thầy thuốc riêng hoặc
dịch vụ tư vấn. Họ muốn nói chuyện với bác sĩ để tái đảm bảo và cho lời khuyên. Các cuộc gọi
điện thoại về đau ngực đã thử thách kỹ nǎng quản lý qua điện thoại của thầy thuốc gia đình. Lý
do hiện tại để gọi dây nói (thí dụ là stress ) có thể là hoàn toàn khác với lý do phát biểu đầu tiên
của "đau ngực". Chúng ta đã nhìn thấy và nghe thấy một bệnh nhân có đau ngực vào ngày kỷ
niệm cơn đau tim của "Cậu Bill ". Các điểm nổi bật của bệnh sử và các yếu tố nguy cơ có thể thu
được một cách ngắn gọn qua điện thoại. Phần lớn các bệnh nhân đau ngực cuối cùng cũng tới
bác sĩ khám; mục đích của cuộc gọi điện thoại bất chợt không phải để có một chẩn đoán đặc hiệu
mà là để xác định một kế hoạch quản lý (như bệnh nhân có cần phải được khám khẩn cấp
không).

Vì cuộc gọi dây nói cho bác sĩ thường trước tiên phải qua một người trực điện thoại, rồi đến y tá,
cho nên điều quan trọng là cần có một thủ tục rõ ràng để giải quyết cho những bệnh nhân này.
Thí dụ một thầy thuốc gia đình cần định rõ cuộc gọi điện vì đau ngực nào là nên trực tiếp, như
"bất kỳ một đau ngực liên tiếp nào không phải do chấn thương và kéo dài trên 10 phút ở người
trên 35tuổi".
Như vậy, cán bộ phòng khám nên hỏi bệnh nhân về ý nghĩa khẩn cấp của họ và nên chuyển ngay
cho bác sĩ. Sau giờ làm việc, bác sĩ có thể nhận được sự tiếp xúc trực tiếp hoặc qua dịch vụ tư
vấn như thí dụ sau đây về cuộc gọi điện vào 9 giờ tối ngày thứ bảy.
Trường hợp 1: cuộc gọi điện
Cô May D, 27 tuổi, gọi điện vì có đau ngực ở vùng giữa xương ức và lo lắng đến bệnh tim. Cô
mô tả là đau âm ỷ, chuyển thành nhói đau khi vận động cánh tay hoặc khi thở sâu. Cô đã sút 11
kg trong nǎm ngoái do chương trình ǎn uống và tập luyện. Về việc hỏi thêm, cô nói rằng bố
chồng của cô đã có đột quị cách đây 4 tuần và 6 tháng trước đây bà thím đã bị chết vì ung thư
phổi. Bố của cô có cao huyết áp chưa điều trị.
Thảo luận
Để ra quyết định trong cuộc nói chuyện điện thoại này, thầy thuốc thừa nhận xác suất thấy về
bệnh phổi và tim nghiêm trọng ở phụ nữ trẻ. Đau tǎng lên khi cử động tay làm nghĩ tới nguyên
nhân có thể là do cơ xương. Vài câu hói phụ xác nhận rằng bệnh nhân không có bất kỳ một triệu
chứng toàn thân nào, và ngoài chứng đau, bệnh nhân cảm thấy dễ chịu. Sau khi đã chẩn đoán
phân loại là đau ngực do cơ xương, thầy thuốc kết luận rằng vấn đề khẩn cấp nhất cho người gọi
điện này là sự lo lắng về ý nghĩa của triệu chứng đau ngực trên cơ sở những vấn đề sức khỏe của
gia đình cô trong thời gian mới đây. Vì thế, thầy thuốc khuyên cô D trên điện thoại là hãy sắp
xếp đến phòng khám sớm, nhưng không thǎm bệnh nhân vào tối nay.
Lịch sử
Khi có được lịch sử của bệnh nhân đau ngực, câu hỏi trước tiên là về đau. Vì cảm giác đau có ý
nghĩa khác nhau đối với từng người cho nên tốt hơn cả là để bệnh nhân mô tả cái đau của họ
bằng chính từ ngữ của họ. Đau có thể được mô tả là đau nhức, bỏng rát, đau nhói, đau như dao
đâm, như kim châm, như bị nén chặt, hoặc nặng.
Bonica phần biệt 3 loại đau ngực: đau nội tạng đau sâu không phải nội tạng và đau lan tỏa.
Đau ngực kiểu phủ tạng (trung ương) thường là không khu trú, không dễ dàng xác định vị trí, âm

ỷ, nhức nhối và lan tỏa. Thường đi kèm với buồn nôn, nôn và rối loạn thực vật như ra mồ hôi, hạ
huyết áp và nhịp tim chậm. Khi có đau kiểu phủ tạng xuất hiện, thì cơ tim, khí quản và phế quản,
màng ngoài tim, động mạch phổi hoặc động mạch chủ cũng góp phần tham gia, gần như theo thứ
tự thường gặp đó.
Đau ngực sâu không phải nội tạng: được mô tả như đau âm ỷ, vị trí rõ ràng và thường lan ra
thành ngực từ một cấu trúc ở sâu. Nó thường đi kèm với hoạt động phản xạ cơ và sự tǎng hoạt
tính của hệ giao cảm. Cảm giác đau này đến từ một nguồn trong lồng ngực như màng phổi, thần
kinh hoặc phẫu thuật chỉnh hình.
Đau lan tỏa được mô tả là ít khu trú và thường kèm với đau cơ và tǎng nhạy cảm đau.
Các tính chất khác của đau cần phải nhận thấy rõ là vị trí, cường độ, sự thay đổi theo thời gian và
các triệu chứng đi kèm với cảm giác đau. Đau có thể khu trú ở bất kỳ chồ nào trong ngực và có
thể lantỏa ra tay, cổ, hàm, mặt, bụng, hoặc đến một nơi khác ở ngực. Cường độ đau thường được
cho điểm trên thang từ 1 đến 10. Cần ghi nhận các sự việc làm tǎng nhanh như gắng sức, động
tác thân và cánh tay hoặc stress xúc cảm, cũng như các biện pháp làm dịu như thay đổi tư thế, ợ,
hoặc dùng thuốc. Các triệu chứng phối hợp như thở nông, ho, buồn nôn cần được xác định. Tiếp
theo là hỏi về các yếu tố nguy cơ như hút thuốc (yếu tố nguy cơ cho đau thắt ngực, nhồi máu cơ
tim , tràn khí màng phổi tự phát và loét miệng nối) và các chấn thương. Tuổi cao và nam giới là
các yếu tố nguy cơ của đau thắt ngực và nhồi máu cơ tim, cũng như là đái tháo đường, béo bệu,
tǎng huyết áp, lối sống tĩnh tại và tǎng cholesterol máu. Phẫu thuật mới, bất động kéo dài, béo
bệu, giãn tĩnh mạch và đang dùng estrogen, tất cả đều có thể làm tǎng nguy cơ của nghẽn mạch
phổi.
Khám thực thể
Thǎm khám cần được hướng dẫn bởi lịch sử bệnh. Đương nhiên là tim, phổi, lồng ngực cần được
kiểm tra tỷ mỷ ở bất kỳ bệnh nhân nào có đau ngực. Trong đa số các trường hợp cũng cần khám
cả bụng và cổ. Trường hợp dưới đây minh hoạ tầm quan trọng của một sự thǎm khám thích hợp
để đánh giá lâm sàng của đau ngực.
Trường hợp 2: chẩn đoán sót
Một cầu thủ bóng rổ 22 tuổi bị ngã trong một cuộc thi đấu và phát triển đau ngực trái phía trước.
Anh được đưa đến phòng cấp cứu và được bác sĩ trực thǎm khám. Bệnh nhân có khó khǎn khi
thở. Khám tim, phổi: bình thường. Các cơ ở thành ngực trên hơi có nhạy cảm đau, nhưng không

tương xứng với đau dữ dội của bệnh nhân.
Điện tâm đồ, X- quang ngực và thǎm khám toàn diện lúc vào đều bình thường. Lúc này, bức sỹ
đến điều trị đánh giá bệnh nhân và khi khám vùng cổ, đã gây lại cảm giác đau cho bệnh nhân khi
sờ nắn diện khớp bên trái của đốt sống cổ 5 và 6, ngửa cổ và quay đầu.
Bàn luận
Đây là đau ngực lan tỏa. Cầu thủ bóng rổ đã bị "vẹo cổ" trong cuộc chơi. Bác sĩ trực đã lo nghĩ
đến các bệnh nặng, đưa ra các chẩn đoán quá sớm mà không thǎm khám cẩn thận. Ông ta cũng
đã không chú ý đầy đủ đến tuổi và hoàn cảnh xẩy ra cơn đau của người bệnh để đánh giá những
sác xuất chẩn đoán ở người trẻ.
Phòng xét nghiệm
Phần lớn các thầy thuốc gia đình có trang bị phòng xét nghiệm để giúp cho việc chẩn đoán và
điều trị cấp cứu đau ngực. Ghi ĐTĐ là có ích khi nghi là đau thắt ngực, nhồi máu cơ tim, viêm
màng ngoài tim hoặc nghẽn mạch phổi, X- quang có thể có những thông tin hữu ích trong trường
hợp có gãy xương sườn, xương bả vai, xương đòn và cột sống hoặc bệnh đốt sống, nhưng không
có giá trị trong đau phần mềm. X- quang vùng ngực thường có giá trị chẩn đoán trong tràn khí
màng phổi và viêm phổi và có thể có những thông tin giá trị về cấu trúc vùng trung thất hoặc
nghi nghẽn mạch phổi. Các xét nghiệm đơn giản như đếm số lượng hồng- bạch cầu, phân, có thể
cung cấp các dấu hiệu về nhiễm trùng hoặc chảy máu đường tiêu hóa, là những bệnh có thể phối
hợp với các vấn đề gây ra đau ngực.
Phế dung ký và đo oxy- máu qua mạch đập sẽ cho các thông tin về các vấn đề hô hấp, tim mạch,
là những rối loạn có thể gây ra đau ngực. Nhiều thầy thuốc gia đình hiện nay đã làm các nghiệm
pháp stress bằng gắng sức trong đánh giá đau ngực hoặc rối loạn mạch vành.
Khi quản lý những bệnh nhân đau ngực, điều quan trọng đối với thầy thuốc và phòng quản lý
nhân sự là cần biết nơi chốn và thứ tự vận hành của các trang thiết bị hồi sức. Điều đó cũng
giống như sự hiểu biết về hồi sức tim phổi cơ sở, cần thiết cho việc đánh giá định kỳ.
Giao tiếp với bệnh nhân
Vì đau ngực gây ra nhiều sự lo lắng cho nên thầy thuốc cần giải thích cho người bệnh trực tiếp
hoặc qua điện thoại về sự chẩn đoán hoặc các chẩn đoán có thể có. Các từ chuyên môn hoặc kỹ
thuật cần tránh hoặc giải thích một cách cặn kẽ. Thầy thuốc cần phải được bảo đảm rõ ràng và
chắc chắn rằng người bệnh đã thực sự hiểu được vấn đề. Khi bệnh nhân đang ở nơi làm việc, có

thể giải thích bằng vẽ các hình đơn giản hoặc sử dụng tài liệu phát tay. Thêm nữa, thầy thuốc cần
có các mô hình giải phẫu để giải thích cho bệnh nhân.
KếT LUậN
Trong bài giới thiệu ngắn này về đau ngực, tác giả không có ý định giới thiệu các máy móc kỹ
thuật cao, tinh vi hiện đang là một phần của các phương tiện chẩn đoán. Sự có ích của những
nghiệm pháp này như máy theo dõi Holter, chẩn đoán hình ảnh cơ tim, thông tim chỉ hạn chế cho
một số tương đối ít bệnh nhân có đau ngực trong chǎm sóc sức khỏe ban đầu, vì phần lớn không
có bệnh đe dọa đến cuộc sống. Nhiều kỹ thuật tinh vi đã không sẵn có cho thầy thuốc gia đình, là
những người làm việc ở ngoại ô, tỉnh nhỏ, hoặc nông thôn. Các phương pháp kinh điển, việc
thǎm khám thực thể và một số các phương tiện khác (đặc biệt là điện tim, X- quang lồng ngực và
các nghiệm pháp thông thường) cũng thường là đủ để chẩn đoán phần lớn các trường hợp đau
ngực.

×