B
R
O
M
?
?
?
Bạn có biết
gì về Brom
không?
Tên gọI Brom bắt nguồn từ chữ Bromos,tiếng Hi lạp có nghĩa là “hôi,thốI”.Brom
được tìm ra 1 cách ngẫu nhiên vào năm 1862 bởI Antoine Jerome Balard (1802-
1867) -trợ lí của 1 trường trung cấp dược, ở thành phố Montpellier nước Pháp.
Trong quá trình điều chế các muối kết tinh luôn còn lại lượng dung dịch không
kết tinh được gọi là nước cái.Balard cho nước clo vào dung dịch nước cái , ông
thấy dung dịch phân thành hai lớp,lớp trên có màu nâu đỏ,lớp dưới khi cho tinh bột
vào thì có màu xanh nước biển.Thời đó Iốt đã được tìm ra và Balard hiểu ngay rằng
lớp dướI có chứa Iot. Ông nghiên cứu tính chất của lớp trên và nhận thấy rằng nó nó
có tính chất tương tự như Clo và Iot
Trong báo cáo gửi viện Hàn Lâm Khoa hoc Pari năm1826 vớI đầu đề”Thông
báo về một chất đạt biệt có chứa trong nước biển”,Balard đề nghị đặt tên cho chất
mới này là Murie, theo tiếng Hi lạp có nghĩa là nước mặn.Uỷ ban thẩm định kết
quả nghiên cứu của Balard do viện Hàn Lâm Khoa học Pari cử ra,trong đó có Nhà
Hoá học nổI tiếng J.L.Gay-Lussac đã xác nhận nghiên cứu của Balard và đề nghị
đặt tên cho nguyên tố mới là Brom.
BROM:
(L. Bromum), Br. Nguyên tố hoá học nhóm VIIA, chu kì 4
bảng tuần hoàn các nguyên tố hoá học, số thứ tự 35, nguyên
tử khối 79,904; thuộc họ halogen. Có hai đồng vị bền:
79
Br
và
81
Br. Do nhà hoá học Pháp Bala (A. J. Balard; 1802 - 76)
phát hiện (1826). Chất lỏng nặng, màu đỏ nâu, bốc khói
trong không khí, có mùi hắc khó chịu, rất độc; khối lượng
riêng 3,1 g/cm
3
; t
nc
= –7,25
o
C; t
s
= 59,82
o
C. Tan trong
nước: 1 l nước ở 25
o
C có thể hoà tan 33,6 g Br. Là chất oxi
hoá mạnh. Tác dụng với hầu hết các nguyên tố trừ oxi, nitơ,
cacbon, nhưng phản ứng xảy ra kém mãnh liệt hơn clo. Trữ
lượng khoảng 1,6.10
–4
% khối lượng vỏ Trái Đất, chủ yếu có
trong nước biển.
BROMAT:
(A. bromate), muối của axit bromic (HBrO
3
), vd. NaBrO
3
,
KBrO
3
. Bền ở nhiệt độ thường, bị phân huỷ ở nhiệt độ cao. Có
tính oxi hoá mạnh. Dễ gây nổ khi trộn với các chất dễ cháy như
photpho, lưu huỳnh, than. Điều chế bằng cách cho brom (Br
2
) tác
dụng với dung dịch kiềm nóng hoặc điện phân dung dịch bromua
nóng. Các muối kali và natri bromat được sử dụng trong hoá học
phân tích
ETIDIUM BROMUA:Chất thường dùng để nhuộm ADN. Dựa theo
đặc tính ADN kết hợp với EB sẽ phát huỳnh quang dưới tia tử ngoại,
EB bám rất chặt vào ADN bằng cách chen giữa các cặp bazơ của
phân tử ADN và làm ADN tháo xoắn khi có nhiều EB.
BROMUA:
(Ph. bromure, A. bromide), muối của axit bromhiđric (HBr),
vd. NaBr, KBr, CaBr
2
. Đa số các bromua dễ tan trong nước; ít
tan là AgBr, HgBr, HgBr
2
, PbBr
2
. Bạc bromua là chất nhạy
quang được dùng trong kĩ nghệ phim ảnh, giấy ảnh. Một số
bromua được dùng làm dược phẩm, vd. NaBr, KBr được dùng
để điều chế thuốc ho.
BẠC BROMUA :(A. silver bromide AgBr). Tinh thể hình
lập phương màu vàng nhạt, biến thành màu xám khi tiếp xúc
với ánh sáng; khối lượng riêng 6,453 g/cm
3
(ở 25
o
C); t
nc
=
424
o
C; t
s
= 1.505
o
C. Rất nhạy với ánh sáng, tia X hoặc tia
phóng xạ. Hầu như không tan trong nước (1,65.10
–6
% ở 25
o
C) và trong các axit loãng; ít tan trong dung dịch NH
3
(0,4%
trong dung dịch NH
3
10% ở 20
o
C). Điều chế từ dung dịch
muối bromua của kim loại kiềm. Dùng tráng lớp trên phim
ảnh, giấy ảnh, chất xúc tác khi điều chế axit béo.Hợp chất hữu
cơ chứa Br được dùng làm thuốc trừ sâu
BAN BROM :
Gây thương tổn da ở mặt, lưng do mẫn cảm hay nhiễm độc vì
dùng brom dài ngày (uống thuốc ho, thuốc an thần có chứa brom).
Có thể gặp ba dạng thương tổn chính: dạng trứng cá, dạng bọng
nước và dạng sần sùi. BB dạng trứng cá với mụn mủ giống trứng
cá sần ở mặt, ở lưng và có màu đỏ sẫm hơn; có thể to, cứng hơn
và xuất hiện đột ngột hơn; có thể kết hợp với dạng thương tổn
khác. BB dạng bọng nước thường kết hợp với dạng thương tổn
khác (hồng ban, u…) và có tính đa dạng. BB dạng sần sùi với u
mềm, đỏ hoặc hơi tím, bề mặt gồ ghề, trơn hoặc có vảy viền rõ, có
mụn mủ; thường gặp ở trẻ sơ sinh hoặc trẻ em. Chẩn đoán: thử
nghiệm nước tiểu tìm brom. Điều trị: ngừng dùng các loại thuốc
và thức ăn có brom
TÌNH HÌNH SỬ DỤNG –KINH DOANH BROM
Có điểm nóng chảy 7,2oC và điểm sôi là 58,78oC, brom là
nguyên tố á kim duy nhất ở thể lỏng tại nhiệt độ thường. Nguồn
brom trong nước biển rất dồi dào, tồn tại dưới dạng natri
bromua. Tuy vậy, hầu hết brom được sản xuất phục vụ kinh
doanh đều có nguồn gốc từ nước biển giàu brom ở vùng Bắc Mỹ
hoặc "Biển chết ". Mặc dù các nhà sản xuất brom đã bị mất thị
trường chủ yếu vì lượng chì sử dụng pha vào xăng bị giảm
mạnh mà trong đó cũng có chất chống nổ chứa brom, nhưng
mức tăng trưởng trong ngành vẫn được duy trì nhờ vào các ứng
dụng khác như dùng làm chất chống cháy cho chất dẻo và các
hóa chất xử lý nước.
Nhờ có đặc tính dễ tham gia phản ứng hóa học, brom chỉ tồn tại
trong thiên nhiên dưới dạng hợp chất, như natri bromua. Nước
biển có hàm lượng brom khoảng 65 phần triệu, trong khi ở vùng
nước biển độ mặn cao, con số đó có thể lên tới 10.000 phần
triệu.
Hiện nay, sản lượng brom toàn cầu hàng năm đạt 500.000 tấn với trị
giá khoảng 800 triệu USD.
Gần một nửa sản lượng đó là từ Mỹ và 1/3 được sản xuất từ "Biển
chết" tại Ixraen. Công suất lắp đặt sản xuất brom vào khoảng gần
700.000 tấn/năm. Công nghệ sản xuất gồm có giai đoạn đun nóng
nước biển lên 90
o
C rồi xử lý với clo để oxy hóa ion brom thành brom
nguyên tố sau đó tách nó ra khỏi nước biển nhờ các công nghệ thích
hợp. Ba công ty lớn chiếm hơn 80% tổng lượng brom toàn cầu là;
Great Lakes Chemical Group (Mỹ), Albemarle Corp (Mỹ) và DSBG
(Ixraen). Great Lakes Chemical Group có 3 cơ sở hoạt động tại
Arkansas với tổng công suất 152.000 tấn/năm. Albemarle Corp có
tổng công suất 140.000 tấn/năm, còn DSBG đã mở rộng công suất từ
200.000 tấn lên 250.000 tấn/năm. Công ty Tokyo Soda của Nhật Bản
cũng sản xuất được 20.000 tấn/năm brom từ nước biển.
Brom và các dẫn xuất của brom có nhiều ứng dụng, chủ yếu trong các
lĩnh vực sau;
1. Chống cháy: Chất chống cháy brom hóa ( BFR) được dùng làm chất
ngăn hoặc làm chậm quá trình phát lửa cho chất dẻo. Chất BFR được sử
dụng rộng rãi nhất từ trước tới nay là tetra bromo bisphenol - A (TBBPA ).
2. Nông nghiệp: Các hợp chất brom hữu cơ được sử dụng làm thuốc trừ
sinh vật hại, diệt sâu bọ, cỏ dại và các loài gặm nhấm.
3. Phụ gia dầu mỏ: brom được dùng làm phụ gia xăng dầu. Tuy nhiên
do việc dùng chì trong xăng chạy động cơ ít đi nên trong 25 năm trở lại đây,
lượng brom sử dụng giảm dần.
4. Khử trùng: Brom được dùng làm chất khử trùng bể bơi mái che có
hiệu quả hơn so với các thuốc khử trùng khác. Việc sử dụng natri bromua
có triển vọng phát triển và xâm lấn thị phần của clo trong việc xử lý nước.
5. Hóa chất dùng để khoan dầu; Các hợp chất bromua dạng lỏng được
sử dụng làm dung dịch khoan ở những giếng khoan sâu và có áp suất cao.
Các lĩnh vực sử dụng khác của brom là dược phẩm, sản xuất thuốc
nhuộm và mực in, thuốc hiện hình trong nghề ảnh và hàng loạt ứng dụng
khác.
Nói chung trong vài năm tới ngành sản xuất brom dự đoán sẽ có mức
tăng trưởng từ 3-5%.
NGỘ ĐỘC BROM:
Trạng thái bệnh lí do brom gây ra: hơi brom với nồng độ
thấp trong không khí gây kích ứng niêm mạc, làm chảy
nước mắt, ho, chóng mặt, đau đầu, chảy máu mũi; với nồng
độ cao gây viêm khí quản, có thể làm ngạt thở, gây tím tái
và chết; brom lỏng dính vào da gây bỏng, loét. Khi có triệu
chứng ngộ độc, lập tức phải rửa mắt, mũi, súc miệng bằng
dung dịch natri hiđrocacbonat loãng 1%, uống sữa nóng, cà
phê nóng. Rửa chỗ bỏng trên da nhiều lần bằng nước, rồi
bằng dung dịch natri hiđrocacbonat 2%. Khi làm việc với
brom, phải tiến hành trong tủ hút, đeo kính và găng tay cao
su (nồng độ giới hạn cho phép của hơi brom trong không
khí là 0,002 mg/l không khí).
AXIT BROMHIĐRIC: (A. hydrobromic acid-HBr)
Là dung dịch hiđro bromua (HBr) trong nước. Ở
điều kiện thường, Axit Bromhiđric là chất khí không
màu, t
nc
= –88
o
C, t
s
= –66,7
o
C. Dung dịch nước có
46,7% HBr là hỗn hợp khí (t
s
= 124
o
C). Là một axit
mạnh, bốc khói ngoài không khí. Muối của nó là các
bromua (NaBr, AgBr ). Điều chế bằng cách thuỷ
phân muối bromua của photpho hoặc cho brom tác
dụng trực tiếp với photpho và nước.
BROM TỪ MUỐI BIỂN PHÁ HUỶ TẦNG ÔZÔN
Người ta thường hay nói về hiện tượng lớp ozon ở tầng bình
lưu bị phá huỷ nhưng ở tầng khí quyển thạp hơn - tầng đối lưu
- cũng xảy ra hiện tượng này vào mùa xuân ở các vùng cực
của trái đất.
Đây là một hiện tượng tự nhiên do dư lượng các oxyt halogen
(chủ yếu là BrO) tăng lên. Nhờ có cơ chế xúc tác mà BrO phá
huỷ được ozon. Tuy nhiên trước đây người ta chưa biết BrO từ
đâu tới và quá trình đó xảy ra vào lúc nào.
Mới đây, nhờ các vệ tinh nghiên cứu, hai nhà vật lý người
Đức ở trường đại học Heidelberg đã phát hiện ra rằng, nồng
độ tăng cao của BrO ở tầng đối lưu phụ thuộc vào vị trí địa lý
và các mùa trong năm. Họ cho biết nồng độ cao của BrO ở
tầng đối lưu xảy ra gần các vùng băng trên biển và hiện tượng
này chỉ kéo dài từ một đến ba ngày. Nguyên nhân chủ yếu là
do Brôm thoát ra từ nước biển một cách tự nhiên chứ không
phải chỉ do sự phân huỷ của các hợp chất hữu cơ chứa brom
Ở trường đại học Califonia (Mỹ) cũng có một nghiên cứu
liên quan tới hiện tượng phá huỷ lớp ozon của trái đất. Các
nhà khoa học cho biết một số loại cây (loài Brassica) có khả
năng hấp thụ ion brom từ đất và tạo metylbromua rồi thải
chất này ra ngoài khí quyển. Con người cũng sản xuất
metylbromua dùng làm chất hun khói diệt côn trùng. Như
vậy có hai nguồn tạo ra metylbromua, từ con người và thiên
nhiên. Metylbromua có khả năng phá huỷ ozon ở tầng bình
lưu cho nên người ta đã hạn chế việc sử dụng nó làm chất
hun khói. Tuy nhiên ion brom lại luôn có khắp nơi trong đất
và ở đâu có các loại thực vật bậc cao (như brassica) thì đất
lại là nguồn tạo ra metylbromua
.
.
AXIT BROMIC-HBrO
3
AXIT NIPOBROMO-HBrO
AXIT PEBROMIC-HBrO
4
CLO TÁC DỤNG VỚI BROM
ĐIỀU CHẾ BROM TỨ SUNFORIC
NƯỚC CLO TÁC DỤNG VỚI NATRI BROMUA
MỘT SỐ ỨNG DỤNG KHÁC CỦA BROM
SẢN XUẤT DƯỢC PHẨM
SẢN XUẤT NƯỚC SƠN
SẢN XUẤT ÔTÔ
ẢNH HƯỞNG CỦA BROM