Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Phù Phổi Áp Suất Âm ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.56 KB, 4 trang )

Phù Phổi Áp Suất Âm


Trường hợp bệnh lý
Ông X. 35 tuổi không có tiền căn bệnh lý đến khám vì có bướu ở bên
phải sàn miệng.
Bướu lớn dần gây trở ngại khi ăn và nói, được chẩn đoán là nang dưới
lưỡi (u nhái-ranula). Áp huyết 125/85, khám tim mạch, X quang tim phổi,
điện tâm đồ bình thường, được duyệt cho mổ. Bệnh nhân được gây mê, đặt
nội khí quản qua mũi. Cuộc mổ dễ dàng, chẩy máu tối thiểu, lấy ra một nang
3cmx2cmx1.1.2cm, được truyền 550 ml dung dịch đẳng trương trong 60
phút. Sau khi rút ống nội khí quản, bệnh nhân khó thở dữ dội, phổi có ran
ẩm hai bên, nồng độ oxy trong máu 80%, X quang có hình ảnh phù phổi hai
bên, điện tâm đồ bình thường, chẩn đoán phù phổi do áp suất âm vì nghẹt
họng. Bệnh nhân được cho thở dưỡng khí qua mặt nạ, thở khí phế dung
albuterol, tiêm furosemide 20mg TM. Bệnh nhân phục hồi nhanh chóng,
phổi trong, nồng độ oxy 96%, ra viện ngày hôm sau.
Bàn luận:
Bệnh nhân trẻ bị phù phổi cấp sau một cuộc mổ ở vùng hầu họng.
1. Chẩn đoán phù phổi cấp bao giờ cũng cần đề cập trước tiên đến
nguyên nhân tim mạch và quá tải. Trong trường hợp này, bệnh nhân không
có tiền căn tim mạch, không có bằng chứng nhồi máu cơ tim và không được
truyền quá nhiều dịch đối với một người đã nhịn đói từ đêm hôm trước.
Bênh nhân có thể bị viêm phổi hít nhưng trong trường hợp đó sang thương là
thâm nhiễm khu trú ở đáy khác với phù nề mô kẽ hai bên trong phù phổi.
Cũng không có bằng chứng tỏ ra rằng bệnh nhân bị phù phổi vì phản ứng
mẫn cảm hoặc do nguyên nhân thần kinh. Bệnh cảnh và diễn tiến phù hợp
với phù phổi áp suất âm do nghẹt hầu họng.
2. Phù phổi áp suất âm (negative pressure pulmonary edema) xảy ra
trong trường hợp tắc nghẽn đường hô hấp trên. Những người trẻ, khỏe mạnh,
có nguy cơ bị phù phổi áp suất âm cao hơn những người khác. Những


nguyên nhân làm nghẹt đường hô hấp trên sau mổ là co thắt thanh quản,
bệnh nhân cắn ống nội khí quản, hít ngoại vật, giải phẫu hầu họng, đặc biệt
là mổ u bướu có khả năng làm nghẹt đường hô hấp.
3. Bệnh nhân cố gắng hít vào trong khi đường hô hấp bị nghẹt làm
giảm áp suất trong lồng ngực. Một người trẻ khỏe mạnh khi hít sâu tạo ra
một áp suất âm trong lồng ngực trên 100 mm Hg. Áp suất âm cao làm tăng
lượng máu trở về tim bên phải, tăng áp suất tĩnh mạch phổi đồng thời giảm
áp suất trong mô kẽ ngoài mao mạch do đó làm tăng sự cách biệt về áp suất
thủy tĩnh giữa lãnh vực nội mạch và ngoại mạch khiến cho dịch thoát từ mao
mạch vào mô kẽ gây ra phù phổi.
4. Phần nhiều bệnh nhân phục hồi mau chóng sau khi được cho thở
oxy nồng độ cao qua mặt nạ và hít khí phế dung; một ít bệnh nhân cần đặt
nội khí quản và dùng máy thở. Trợ giúp hô hấp một cách không xâm lấn
(noninvasive) như thở áp suất dương (positive pressure ventilation) hoặc
điều trị bằng áp suất dương liên tục (continuous positive airway pressure) tỏ
ra hữu hiệu, giúp cho tránh phải đặt nội khí quản. Hít khí phế dung chất
đồng vận bêta làm giãn phế quản và tăng tái hấp thu dịch trong phế nang vì
tăng vận chuyển cation. Nhiều người vẫn dùng thêm lợi tiểu tuy có ý kiến
trái ngược vì lợi tiểu có thể không cần thiết.
Nói chung phù phổi áp suất âm là một biến chứng lành tính sau giải
phẫu hầu họng, thường phục hồi nhanh chóng trong 12-48 giờ nếu được
nhận biết sớm và trợ giúp hô hấp kịp thời.
Bác sĩ Nguyễn văn Đích

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×