Tài liệu về Cá Rô phi
Vị trí phân loại: cá rô phi vằn thuộc
Lớp cá xương Actinopterygii
Bộ cá Vược Perciformes
Họ cá Rô phi Cichlidae
Giống cá Rô phi Oreochromis
Loài Rô phi vằn Oreochromis niloticus
Cá Rô phi có trên dưới 80 loài thuộc ba giống (Tilapia;
Sarotherodon và Oreochromis), những loài cá Rô phi đang
nuôi hiện nay hầu hết nằm trong giống Oreochromis. Loài
Rô phi đen và Rô phi vằn là hai loại cá đang được nuôi
trong các thủy vực nước ta, trong đó cá rô phi vằn là dòng
có tốc độ sinh trương cao [50]. Trong khuôn khổ đề tài này,
chúng tôi thử nghiệm trên dòng này. Rô phi vằn có các
dòng khác nhau như: Thái Lan, Đài Loan, GIFT. Dòng
GIFT chọn giống nay đã được đổi tên thành cá NOVIT 4
(Hình 2.3)
Hình 2.3: Cá rô phi vằn Oreochromis niloticus
Đặc điểm phân bố: cá rô phi được nuôi ở nhiều nước trên
thế giới, đặc biệt là các nước nhiệt đới và cận hiệt đới. Ở
Việt Nam cá rô phi được nuôi rộng rãi từ các tỉnh thuộc
đồng bằng Sông Cửu Long đến các tinh phía bắc.Cá rô phi
không những mang lại lợi ích kinh tế góp phần xóa đói
giảm nghèo mà còn mang lại giá trị xuất khẩu cho đất
nước.
Đặc điểm môi trường sống: cá rô phi là loài cá có nguồn
gốc ở vùng nhiệt đới, nên khả năng thích nghi với nhiệt độ
cao tốt hơn nhiệt độ thấp. Nhiệt độ thích hợp cho cá sinh
trưởng, phát triển là 25
o
- 30
o
C, nhiệt độ gây chết từ 10
o
-
12
o
C và trên 40
o
C. Ở nhiệt độ dưới 16
o
C cá rô phi ngừng
ăn.
Cá rô phi là loài cá có nguồn gốc nước ngọt, nhưng chúng
có khả năng sống và phát triển trong môi trường lợ, mặn có
nồng độ muối 35‰. Cá rô phi có thể sống trong môi
trường nước có hàm lượng oxy hòa tan thấp tới 1mg/l.
Nồng độ oxy hòa tan gây chết cho cá rô phi là 0,3-0,1mg/l.
Khả năng chịu Amoniac tới 2,4mg/l. Cá rô phi có khả năng
sống trong môi trường nước có biên độ pH rất rộng 5-11,
nhưng thích hợp nhất là 6,5-8,5.
Đặc điểm dinh dưỡng: rô phi là loài cá ăn tạp, khi còn nhỏ
cá ăn phù du sinh vật là chủ yếu, 20 ngày tuổi (17 -18mm),
cá chuyển dần sang thức ăn như cá trưởng thành. Cá trưởng
thành ăn mùn bã hữu cơ, tảo các loại, ấu trùng, côn trùng,
sinh vật đáy, phù du sinh vật, thực vật thượng đẳng loại
mềm, phân hữu cơ… Ngoài ra, trong ao nuôi có thể cho
thêm thức ăn bổ sung như cám gạo, bột ngô và các phụ
phẩm nông nghiệp khác. Đặc biệt cá rô phi có thể sử dụng
rất hiệu quả thức ăn công nghiệp và thức ăn tự chế biến.
Đây là một đặc điểm giúp cho việc nuôi cá rô phi thâm
canh đạt năng suất cao. Với những đặc điểm ưu việt đó cá
Rô phi được phân bố và ương nuôi khá rộng rãi trong các
vùng miền ở nước ta.
2.2. Dịch bệnh nhiễm khuẩn ở cá rô phi và biện pháp
phòng trị
Rô phi được đánh giá là loài có sức đề kháng cao hơn so
với nhiều loài cá nuôi khác. Tuy nhiên, với mô hình nuôi
thâm canh, dịch bệnh đã gây ra những thiệt hại đáng kể. Ở
Mỹ Streptococcus sp đã làm chết một số lượng lớn cá rô
phi nuôi có trọng lượng đạt từ 150-300g, đây cũng là tác
nhân gây ra thiệt hại lớn cho các cơ sở sản xuất nuôi cá rô
phi quy mô lớn.
Ở Ấn Độ vào tháng 3 năm 1999 cá rô phi nuôi tại hồ Taal
có số lượng cá chết lên đến 95-100%, nguyên nhân được
xác định do vi khuẩn gây ra. Tiếp đó khi nghiên cứu thời
gian cá rô phi mắc bệnh nhận thấy, cá dễ nhiễm bệnh kéo
dài từ tháng 3 đến tháng 6 hàng năm, chịu ảnh hưởng thiệt
hại lớn nhất gặp ở giai đoạn cá giống. Kết quả nghiên cứu
đã xác định được 40 loài vi khuẩn trong đó có 32 loài được
xác định là tác nhân, chúng thuộc giống sau Aeromonas,
Pseudomonas, Flavobacterium, Edwardsiella (Francisco.
M, & ctv, 2003).
Ở Đài Loan bệnh vi khuẩn ảnh hưởng tới năng suất sản
lượng cá rô phi, gây tổn thất lớn về kinh tế được biết đến từ
năm 1992. Một số loài vi khuẩn được nghiên cứu và xác
định là tác nhân gây bệnh cho cá rô phi bao gồm các vi
khuẩn thuộc gram dương là Streptococcus sp (Miyazaki &
ctv, 1984); và vi khuẩn gram âm bao gồm Aeromonas
hydrophyla (Amin & ctv, 1985, Leung & ctv, 1994),
Pseudomonas fluorescens (Miyazaki & ctv, 1984),
Edwardsiella tarda (Plumb & Sanchez, 1983, Kaigge &
ctv, 1986) và Vibrio vulnificus (Kakata & Hattori, 1988) và
PLO (Rickettsia-like microorganism (Chern & Chao,
1994).
Ở Việt Nam, dù chưa xảy ra những trận dịch nghiêm trọng
nhưng cũng đã có những thiệt hại cảnh báo. Vì vậy, một số
điều tra, nghiên cứu đã được tiến hành. Cho đến nay chúng
ta có rất nhiều báo cáo về tác nhân gây bệnh, dấu hiệu bệnh
lý và thời gian xảy ra dịch bệnh. Đã có các báo cáo mô tả
dấu hiệu bệnh lý, tiên đoán các tác nhân gây bệnh (thức ăn,
con giống kém chất lượng, biến động đột ngột môi
trường…), đồng thời cũng đưa ra các biện pháp phòng trị
bệnh cho đối tượng nuôi cá rô phi ở các tỉnh như Hải
Dương, Nghệ An, Nam Định, Ninh Bình, Bắc Ninh, Đồng
Bằng Sông Cửu Long… Tuy nhiên các báo cáo thống kê về
thiệt hại do tác nhân gây bệnh để lại thì còn nhiều hạn chế.
Sau công trình của Bùi Quang Tề, tác giả Đinh thị Thuỷ đã
cùng với đồng nghiệp tiến hành nghiên cứu các bệnh nguy
hiểm thường gặp ở cá rô phi Oreochromis spp nuôi thâm
canh. Đây thực sự là nhu cầu cấp thiết, với mục tiêu: xác
định tác nhân gây bệnh và đề ra biện pháp phòng trừ kịp
thời nhằm giảm thiểu thiệt hại về kinh tế do dịch bệnh gây
ra.
Sau quá trình điều tra, thu mẫu phân lập vi khuẩn và gây
cảm nhiễm ngược, xác định tác nhân gây bệnh cho cá nuôi
ở các tỉnh Tây Ninh, An Giang, Vĩnh Long và Tiền Giang
(trong các năm 2003 - 2005), nhóm tác giả đã đưa ra một số
kết luận sau:
- Thời gian mà cá dễ mắc bệnh là vào mùa mưa (34,8% ở
An Giang; 40% ở Vĩnh Long và 39,4% ở Tây Ninh). Tỷ lệ
thiệt hại từ 7-10%, cá thường mắc bệnh ở giai đoạn 1 - 4
tháng tuổi. Bệnh thường gặp là bệnh xuất huyết, chiếm tỷ lệ
cao (70% ở An Giang và 80% ở Vĩnh Long), riêng ở Tây
Ninh tỷ lệ này thấp hơn (39,4%).
- Trong số các chủng vi khuẩn phân lập được trong năm
2003 tại hai tỉnh An Giang và Vĩnh Long, chủng vi khuẩn
Streptococcus có tần suất cao nhất, chiếm 95 - 100% vào
mùa khô (tháng 1) và giai đoạn giao mùa (tháng 5, tháng
11). Vào thời điểm mùa mưa (tháng 9) và thời điểm giao
mùa (tháng 11) thì chủng Aeromonas hydrophyla có tần
suất xuất hiện cao nhất (100%).
- Hai chủng vi khuẩn Aeromonas hydrophyla và
Streptococcus có tần suất xuất hiện cao nhất trong số 11
chủng vi khuẩn phân lập được trên 280 mẫu cá thu tại hai
tỉnh Tiền Giang và Vĩnh Long.
- Chủng Streptococcus xuất hiện trên cá bệnh trong tất cả
các tháng trong năm 2004, gặp ở mọi lứa tuổi của cá (từ 1 -
5 tháng), không gặp ở cá nhỏ hơn 1 tháng tuổi. Tỷ lệ xuất
hiện cao nhất vào mùa khô.
- Chủng Aeromonas hydrophyla xuất hiện với tần suất cao
vào mùa mưa và gặp nhiều ở cá dưới một tháng tuổi [11].
Trước những thiệt hại do dịch bệnh gây ra, một số biện
pháp phòng trị bệnh nhiễm khuẩn đã được đề xuất. Theo
Bùi Quang Tề, đối với bệnh xuất huyết phòng trị bằng cách
bón vôi ( CaO hoặc CaCO
3
hoặc CaMg(CO
3
)
2
) tùy theo
pH môi trường, liều lượng 1-2 kg/100m
3
, 2-4 lần/tháng. Trị
bệnh dùng Erythromyxin trộn vào thức ăn từ 3-7 ngày,
dùng 2-5g/100kg cá/ngày. Có thể phun xuống ao nồng độ
1-2 ppm, sau đó sang ngày thứ 2 trộn vào thức ăn 4kg/100
kg cá, từ ngày 3-5 giảm còn 1/2. Thuốc KN-04-12 cho ăn
4g/1kg cá/ngày và 3-6 ngày liên tục. Vitamin C phòng
bệnh, liều dùng thường xuyên 20-30 mg/1kg cá/ngày, liên
tục 7-10 ngày.
Đối với bệnh viêm ruột, có thể dùng một số kháng sinh cho
ăn như Erythromyxin hoặc Oxytetramyxin, liều dùng 10 -
12g/100kg cá/ngày đầu, từ ngày thứ 2 - 7 liều bằng 1/2
ngày đầu; hoặc dùng KN-04-12. [14]
Đinh Thị Thủy đưa ra nhiều đề xuất phòng trị hơn nhưng
không thấy đề cập đến thảo dược. Theo đó, có thể sử dụng
Erythromyxin, Penicillin, Ampicillin trong việc trị bệnh do
vi khuẩn streptococcus. Với A. hydrophilla có thể sử dụng
Gentamycin, Neomycin, Oxytetracyline, Trimethoprim-
Sulfamethazol, Kanamycin. Hoặc có thể sử dụng các loại
hóa chất như thuốc tím, iode, D4, BKC trong viêc xử lý
nước để tiêu độc ao nuôi.[11]
Như vậy, bệnh nhiễm khuẩn ở cá Rô phi đã xuất hiện và
gây ra những thiệt hại không nhỏ, đòi hỏi người nuôi phải
nắm vững các biện pháp phòng trị. Trong khi đó, các biện
pháp được đề xuất hầu hết là sử dụng kháng sinh tổng hợp.