Giang Nam - vùng đất của những mỹ nhân Trung
Hoa
Người Trung Hoa thường nói: “Thượng hữu thiên đàng, hạ hữu Tô Hàng” có
nghĩa là “Trên trời có thiên đàng, dưới đất có Tô Châu và Hàng Châu”.
Rời Thượng Hải, đoàn chúng tôi lên đường tới Giang Nam, vùng đất nổi
tiếng với mỹ nữ của Trung Quốc.
Tô Châu hiện ra xinh đẹp và quyến rũ với những phố cổ mái nâu, tường
trắng, những cây cầu duyên dáng, những tháp chuông chùa thấp thoáng sau
rặng ngân hạnh lấp lánh như dát bạc.
Thành phố Tô Châu, phía Nam tỉnh Giang Tô, cách Thượng Hải khoảng
100km về hướng Tây. Tô Châu nổi tiếng khắp Trung Quốc và thế giới
không chỉ vì những đồ gốm đất nung, ngọc trai nước ngọt, lụa tơ tằm mà còn
vì những mỹ nữ nghiêng nước nghiêng thành. Tây Thi - một trong tứ đại mỹ
nhân Trung Quốc, đã sinh ra và lớn lên ở đây.
Là một thành phố cổ nổi tiếng của Trung Quốc với hơn 2500 năm lịch sử,
căn sứ vào sử tịch còn ghi chép lại thì tại Tô Châu trong khoảng thời gian 10
thế kỷ trước và sau công nguyên, nơi đây đã bắt đầu hình thành nên một
quốc gia chư hầu, được gọi là Câu Ngô, lệ thuộc vương triều nhà Chu, tức là
nước Ngô của thời Đông Chu. Đô thành khi bấy giờ là khu vực làng Mai,
cách phía tây của thành Tô Châu khoảng 15 cây số, còn gọi là khu vực Mai
thôn. Sở dĩ đến ngày nay, thành phố Tô Châu vẫn còn có tên gọi rất đơn giản
là Ngô, bởi vì năm 560 trước công nguyên, vua Ngô dời phiên trấn và đô
thành đến Tô Châu, từ đó mới lấy tên là Ngô.
Chúng tôi được nhìn thấy những cửa số của các ngôi nhà không bao giờ mở.
Người ta kể rằng, gia đình Tô Châu có bao nhiêu con gái thì có bấy nhiêu
cửa sổ. Khi một cô con gái đi lấy chồng thì cửa sổ của cô ấy sẽ vĩnh viễn
không bao giờ mở nữa. Rồi thì khi người mẹ sinh ra một cô con gái, thì
người cha sẽ trồng trước cửa nhà một cây cổ thụ. Và khi cô gái đi lấy chồng,
cây ấy sẽ được đẵn xuống để lấy gỗ làm hòm đựng của hồi môn cho cô gái.
Đến Tô Châu chúng tôi đã có cơ hội tham quan công xưởng dệt với toàn bộ
các công đoạn chế biến, bắt đầu từ nuôi tằm, lấy kén, quay sợi,… và xem
những show trình diễn thời trang lụa tơ tằm.
Hàng Châu - thủ phủ tỉnh Triết Giang, cách Thượng Hải 150km (93.21 mi)
về hướng Nam, cũng là nơi hấp dẫn du khách.
Hàng Châu nằm ở hạ lưu sông Tiền Đường (Tiền Đường Giang, Qiántáng
Jiang), nơi con sông này đổ ra biển, nằm ở đoạn chót phía nam của con kinh
đào thông thương giữa Bắc Kinh và các thành phố thuộc miền Giang Nam,
người trung Quốc gọi là Kinh Hàng Đại Vận Hà. Tên của con kênh này
mang tên Kinh Hàng là do hai chữ Kinh của thành phố Bắc Kinh và chữ
Hàng của thành phố Hàng Châu ghép lại.
Hàng Châu là thủ phủ của tỉnh Chiết Giang, là trung tâm chính trị, kinh tế
và văn hóa của tỉnh Chiết Giang. Hàng Châu là một trong bảy cố đô của
Trung Quốc. Xưa kia Hàng Châu từng là kinh thành của Ngô Việt Vương
Triều (Nước Ngô của vua Phù Sai và Việt Vương Câu Tiễn, từ năm 893 đến
năm 978 sau công nguyên), và cũng là kinh đô của triều Nam Tống (từ năm
1127 đến năm 1279 sau công nguyên). Như vậy Hàng hâu từng là kinh đô
tổng cộng là 237 năm. Hàng Châu được liệt vào hàng thứ ba trong số 10
điểm thắng cảnh lớn đáng viếng của Trung Quốc.
Hàn Châu có cảnh trí thiên nhiên đẹp mắt lại có nhiều di tích văn hóa lâu
đời. Nói đến Hàn Châu, người ta thường nghĩ ngay đến Tây Hồ (Xi Hú).
Thật ra tại Trung Quốc có 36 cái hồ đều mang tên Tây Hồ. Nhưng tây Hồ
Hàn Châu là có tiếng hơn cả. Tây Hồ nằm ở vị trí phía tây trưng tâm thành
phố Hàn Châu, nên có tên như vậy. Tây Hồ có chiều dài 3,3 cây số theo
hướng bắc nam và chiều rộng 2,8 cây số theo hướng đông tây. Diện tích Tây
Hồ khoảng 5,6 kí-lô-mét vuông; chu vi hồ khoảng 15 cây số.Thường người
ta hay nêu 10 cảnh đẹp của Tây Hồ với cái tên bốn chữ, đó cũng là tựa đề
cho 10 bài thơ bất hủ do các tao nhân mặc khách từ xưa đến nay miêu tả nét
đẹp điển hình của các cảnh trí Tây Hồ Hàn Châu. Trong truyện thần thoại
“Bạch Xà Truyện”, Bạch Nương Nương hôi ngộ Hứa Tiên tại Đoạn Kiều,
hay trong truyện “Lương Sơn Bá Chúc Anh Đài”, Lương Sơn Bá
chia tay Chúc Anh Đài tại Trường Kiều đều lấy bối cảnh tại các địa điểm
trong số những cảnh đẹp của Tây Hồ đấy quý vị. Tôi nhớ mang máng dường
như cố học giả Nguyễn Hiến Lê hay cụ Đông Hô Lâm Tấn Phác có đề cập
tập thơ “Hà Tiên Thập Cảnh” tả cảnh Hà Tiên của cụ Mạc Thiên Tứ có tựa
đề na ná như các tựa đề bài thơ tả cảnh Tây Hồ vừa nêu.
Ở Hàng Châu có một món ăn thịt lợn xắt hình vuông từa tựa món thịt kho
Tầu, nhưng không có nhiều nước, khô hơn, màu sắc trông đậm đà hơn, thịt
săn hơn. Người Trung Quốc đặt tên món thịt đó là “thịt Đông Pha” (Đông
Pha Nhục, Dongpo Ròu) để tưởng nhớ cụ Tô, vì cụ thích ăn món này. Người
ta dùng loại thịt heo, loại ba rọi tươi xắt thành miếng to bản, hình chữ nhật,
rồi để vào nồi đất cùng với rượu vàng Thiệu Hưng để làm chất nước để ninh;
đậy nắp cho kín hơi, ninh cho đến khi ráo nước, có màu sắc đỏ au là được.
Đó là món ăn có tiếng, không thể thiếu ở các nhà hàng ở hàng Châu. Theo
thiên hạ đồn rằng, khi xưa lúc cụ Tô giữ chức vụ Thái thú Hàng Châu, cụ đã
lập nhiều thành tích ích nước lợi dân. Vào ngày hoàn thành công cuộc vét
sạch đáy Tây Hồ, dân chúng đua nhau dâng hiến nhiều thịt heo và rượu
Thiệu Hưng (loại rượu màu vàng) để tỏ lòng kính mến, biết ơn công lao của
cụ. Cụ Tô không thể từ chối tấm thạnh tình đó. Cụ bảo gia nhân làm theo lời
hướng dẫn của cụ mà nấu món thịt đó, rồi chia cho dân công giúp việc vét
sạch hồ ăn. Từ đó món thịt đó trở thành món ăn danh tiếng của Hàn Châu.
Hàng Châu còn có miếu thờ tượng Nhạc Phi và Mộ Nhạc Phi. Tại đây có đặt
một bức tượng Nhạc Phi ở thế ngồi trong bộ nhung phục màu tím, tay phải
nắm lại đặt trên đùi phải, tay trái thì đè lên thanh kiếm. Phía trên bức tượng
có có treo tấm biển ghi bốn chữ lớn “Hoàn ngã hà sơn” (Lấy lại phần đất
nước bị mất đi), đó là nét chữ viết của Nhạc Phi đước phóng lớn ra. Bức
tượng này hoàn thành vào năm 1979, bức tượng Nhạc Phi cũ thì bị hủy trong
thời kỳ “Cách Mạng Văn Hóa”trước đó khoảng 10 năm (cuối thập niên 60
thế kỷ 20). Trên tường trong ngôi miếu đó có vẽ những bức họa kể tiểu sử
Nhạc từ thuở bé thơ đến lúc làm tướng. Theo người ta kể lại , sau khi Nhạc
Phi bị xử tử ở đình Phong Ba, một tên ngục tốt (người coi tù) cõng đi, chôn
lén xác ông ở Cửu Khúc Tùng Từ, rồi trồng trên mộ đó hai cây quít để làm
dấu. khi Tống Hiếu Tông lên ngôi, nhà vua giải oan tội mà người ta đã ghép
cho ông, đồng thời cho cải táng hài cốt của ông tại ngôi mộ hiện giờ. Cạnh
mộ nhạc Phi là mộ của con ông tên Nhạc Vân. Hai bên hành lang ở hai phía
nam và bắc khung viên mộ cha con ho Nhạc có dựng các bia đá lưu lại từ
đời Nam Tống, trong đó có bia đá khắc bài từ “Mãn Giang Hồng” của Nhạc
Phi và bia khắc nét chữ do nhạc Phi chép các bài hịch “Tiền Xuất Sư Biểu”
và “Hậu Xuất Sư Biểu” của Khổng minh Gia Các Lượng. Hai bên con
đường dẫn vào mộ có các tượng người bằng đá và các con ngựa bằng đá, nét
điêu khắc thật sắc xảo. Hướng ngược lại còn có bốn bức tượng các gian thần
hãm hại Nhạc Phi: Tần Cối và vợ (Vương Thị), Mặc-kì Tiết (Mòqí Xié),
Trương Tuấn ở thế quỳ gối, tay như bị trói thúc ké phía sau lưng. Người đời
thường rất ghét vợ chồng Tần Cối, bánh củ cải chiên mà thường ta hay gọi
nháy theo tiếng Quảng Đông là bánh chéo quẩy; đúng ra phải đọc là “dầu
cha quẩy” (quỷ chiên dầu) là có ý nói sự tích tượng trưng, đem chiên dầu đôi
vợ chồng Tần Cối.
Chuyện kể về Trung Quốc và những công trình vĩ đại, những vùng đất kỳ
thú, có lẽ là liên miên bất tuyệt. Những gì tôi nói ở đây, chỉ là những ấn
tượng mắt thấy, tai nghe trong một chuyến đi mà thôi.
Blog cua AnhPhuong