Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

DE TAI LY 9 2009.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.93 KB, 15 trang )

I/ LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Thế giới trong những năm đầu thế kỷ XXI với sự phát triển mạnh mẽ, sâu
sắc trong rất nhiều lónh vực. Sự phát triển mạnh mẽ trên vừa tạo ra những tiền
đề, những khả năng để nhân loại vững tin bước vào tương lai, nhưng đồng thời
nhân loại cũng đã và đang gặp phải những thách thức mới trong các vấn đề
kinh tế, xã hội …
Sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước mở cửa để hội nhập
với cộng đồng thế giới trong nền kinh tế cạnh tranh quyết liệt đòi hỏi công tác
giáo dục nước ta phải có sự đổi mới sâu sắc và toàn diện nhằm đào tạo thế hệ
trẻ thành những người vừa tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, vừa giữ
gìn và phát huy được bản sắc dân tộc, vừa có khả năng sáng tạo, có tình cảm và
thái độ của con người mới xã hội chủ nghóa.
Thời đại cách mạng khoa học công nghệ ngày nay đang làm thay đổi
nhanh chóng và sâu sắc đến đời sống kinh tế và tinh thần của xã hội. Khoa học
trở thành một lực lượng sản xuất trực tiếp, là động lực cơ bản của sự phát triển
kinh tế, xã hội. Vì vậy, giáo dục và đào tạo trở thành nhân tố quyết đònh vò thế
của mỗi quốc gia trên trường quốc tế và sự thành đạt của mỗi con người trong
cuộc sống.
Vật Lý là môn khoa học thực nghiệm. Mọi vấn đề đều bắt nguồn từ cái
có thực nên mọi tư duy đều xây dựng trên thực tế và khái quát ở mức độ cao
hơn. Chính vì vậy mà vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào để mọi tiết học, mỗi
kiến thức Vật Lý mới đều được các em tiếp nhận một cách tự nhiên, hứng thú
và sáng tạo? Nhận thức được tầm quan trọng của việc đổi mới phương pháp dạy
học đối với việc nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo lớp công dân Việt
Nam trong xã hội hiện đại và qua gần bốn năm áp dụng phương pháp mới trong
dạy học Vật lý 9, tôi mạnh dạn đưa ra những suy nghó và hiểu biết của mình để
viết giải pháp “Nâng cao chất lượng bộ môn Vật Lý lớp 9 ở trường THCS Bến
Củi”.
II/ ĐỐI TƯNG NGHIÊN CỨU:
Trang 1
A. MỞ ĐẦU


Trong quá trình thực hiện giải pháp này, tôi tập trung nghiên cứu việc tổ
chức dạy học nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh. Giải pháp được
nghiên cứu đối với học sinh lớp 9A, 9B trường THCS Bến Củi.
III/ PHẠM VI NGHIÊN CỨU :
Giải pháp nghiên cứu chủ yếu ở chương “Điện Học” đối với học sinh lớp
9A, 9B trường THCS Bến Củi.
IV/ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU :
Nghiên cứu tài liệu: Tìm đọc các tài liệu về đổi mới phương pháp dạy
học, tài liệu chuyên môn qua đó chắt lọc các nội dung phù hợp với thực tế ở
trường mình để vận dụng vào tiết dạy.
Vận dụng: Soạn giảng và dạy theo phương pháp mới. Rút kinh nghiệm
từng tiết dạy, điều chỉnh cho phù hợp với đối tượng nghiên cứu .
Phương pháp điều tra: Tìm hiểu chất lượng bộ môn ở năm học trước,
khảo sát chất lượng đầu năm, thông qua giảng dạy thực tế theo dõi, kiểm tra sự
tiến bộ của học sinh.
So sánh, đối chiếu kết quả học tập của học sinh qua từng thời điểm.
Trang 2
I/ CƠ SỚ LÍ LUẬN:
Thực hiện Nghò Quyết 40 / QH10 của Quốc Hội, Chỉ thò số 14 / 2001 /
CT-TTg của Thủ Tướng Chính Phủ về đổi mới chương trình giáo dục phổ thông
nhằm vươn tới, đuổi kòp và hòa nhập với xu thế phát triển giáo dục trên thế
giới.
Theo Nghò Quyết Hội Nghò lần thứ II của BCHTW khoá 8 về những giải
pháp chủ yếu trong giáo dục và đào tạo đã chỉ rõ: “Đổi mới mạnh mẽ phương
pháp giáo dục – đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành
nếp tư duy sáng tạo của người học, từng bước áp dụng các phương pháp tiên
tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời
gian tự học, tự nghiên cứu của học sinh”.
Luật Giáo dục 2005 (Điều 5) qui đònh: “ phương pháp Giáo dục phải phát
huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng

cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý
chí vươn lên”.
Dựa vào chủ trương của Đảng và nhà nước về giáo dục: xây dựng trường
học thân thiện, học sinh tích cực.
Dựa vào lí luận kiểu dạy học “Hướng tập trung vào học sinh trên cơ sở
hoạt động của học sinh”. Những đổi mới đồng bộ về giáo dục THCS theo tư
tưởng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh đã đặt ra những yêu cầu bức
thiết về đổi mới phương pháp dạy học.
II/ CƠ SỞ THỰC TIỄN:
Vật lý là một môn học còn rất mới đối với học sinh cấp 2. Những kiến
thức Vật lý có nhiều ứng dụng trong thực tế đời sống, kó thuật, gần gũi với kinh
nghiệm hiểu biết của học sinh. Tuy nhiên, do học sinh chưa quen với lối tự làm
Trang 3
B. NỘI DUNG
việc, tự học, nên các em thường tìm hiểu nội dung bài học một cách qua loa, sơ
sài, chưa có phương pháp học một cách khoa học, tích cực.
Nội dung chương trình Vật lý 9 tương đối nặng. Ở lớp 6 và 7 mức độ kiến
thức chỉ là khảo sát đònh tính các sự vật hiện tượng, chương trình vật lý 9 đòi
hỏi khả năng tư duy của học sinh cao hơn, tạo điều kiện phát triển các năng lực
lên một mức cao hơn và đặt ra những yêu cầu cao hơn đối với học sinh.
Căn cứù vào mục tiêu, nhiệm vụ dạy học bộ môn, căn cứ vào nội dung
chương trình Vật lý 9 và chất lượng thực tế của học sinh ở trường THCS Bến
Củi, tôi thấy việc tìm ra các giải pháp để nâng cao chất lượng bộ môn là yêu
cầu cần thiết.
III/ NỘI DUNG VẤN ĐỀ:
1. Thực trạng bộ môn :
Năm học 2008 – 2009 tôi được phân công giảng day môn Vật lý lớp 9A, 9B.
Qua việc tìm hiểu giáo viên bộ môn đã dạy lớp 8, giáo viên chủ nhiệm và
kết quả kháo sát chất lượng đầu năm, tôi nhận thấy:
Lớp TSHS Giỏi Khá TB Yếu Kém

9A 26 1 2 13 8 2
9B 26 2 3 14 6 1
Bến Củi là đòa phương vùng sâu, đa số học sinh là con nông dân và công
nhân cạo mủ. Ngoài giờ học, các em còn phụ giúp cha mẹ nên quỹ thời gian
học tập ít. Đa số học sinh chưa có phương pháp học tập đúng đắn, không chuẩn
bò trước bài mới, ít tìm tòi, suy luận và thường thì thầy cô viết bảng bao nhiêu
về nhà học bấy nhiêu.
Nhiều học sinh nhút nhát, thụ động. Các thao tác thực hành, thí nghiệm
chậm.
Kó năng làm bài tập rất hạn chế, tính toán chậm do phần bài tập đònh lượng
chỉ mới có từ chương trình Vật lý lớp 8 và tiết bài tập rất ít (6 tiết).
2. Vấn đề đặt ra :
Từ thực tế nêu trên, tôi nghó bản thân mỗi giáo viên phải có một đònh hướng
tư duy hoạt động của mình, nhất là trong việc thực hiện phương pháp dạy học
đúng đắn và tiến bộ. Điều quan trọng là phải lựa chọn phương pháp dạy học
phù hợp với từng bài giảng, từng đối tượng học sinh theo hướng tích cực nhất.
Học sinh càng được làm việc nhiều trong giờ học để tự chiếm lónh tiếp thu kiến
thức, kó năng là càng đạt yêu cầu. Muốn vậy, giáo viên phải nắm bắt trình độ,
Trang 4
tâm lí của học sinh, yêu cầu bài dạy và kó năng tổ chức lớp học để thiết kế, sắp
đặt diễn biến giờ dạy hợp lí. Giáo viên phải xác đònh mục tiêu bài dạy thật chắc
chắn mới có cơ hội gợi mở, dẫn dắt học sinh tìm tòi, trao đổi, đặt ra nhiều tình
huống khác nhau để lí giải phân tích trước khi đi đến kết luận. Tùy theo trình độ
học sinh , tùy theo tính chất của từng bài mà xác đònh phương pháp dạy học chứ
không máy móc theo một mô hình nhất đònh nào.
Dạy học sáng tạo, phát huy tiềm năng sáng tạo của học sinh là một vấn đề
chiến lược của Giáo dục và là một đòi hỏi bức bách đối với nhà trường hiện
nay.
Đối với học sinh yếu, kém thì làm sao tổ chức cho các em làm việc tích cực
hơn? Đây là thực tế chung của học sinh vùng nông thôn, giáo viên không thể

thực hiện như đối với học sinh ở thò trấn, thò xã được. Giáo viên cần tổ chức để
học sinh làm việc theo những điều mà thầy cô yêu cầu, nên giao việc vừa sức,
gợi ý từng bước và có cách động viên, khuyến khích, tạo tình cảm thân thiện…
để tránh gây ra hiện tượng ngán học bộ môn.
3. Các giải pháp thực hiện :
a/ Tăng cường tính tích cực chủ động của học sinh trong học tập, rèn luyện
tư duy sáng tạo cho học sinh :
p dụng phương pháp dạy học tích cực và khai thác các khía cạnh của
các phương pháp dạy học truyền thống nhằm phát huy tối đa tính tích cực, chủ
động và sáng tạo của học sinh trong quá trình học tập, nâng cao được chất
lượng dạy học.Tuy nhiên vấn đề cốt lõi là làm thế nào để tăng cường được tính
tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh trong quá trình học tập? Điều quan
trọng trong dạy học là tùy thuộc vào nội dung và điều kiện dạy học, giáo viên
cần áp dụng những phương pháp và kó thuật dạy học thích hợp để làm chuyển
biến học sinh từ trạng thái thụ động trong học tập sang trạng thái chủ động tích
cực trong học tập.
Bằng nghệ thuật sư phạm của mình, giáo viên cần tạo ra các nhu cầu về
tâm lí và xã hội đối với việc học cho học sinh, cần liên hệ các nội dung học tại
lớp với những hoạt động hàng ngày để học sinh cảm thấy cần thiết và có hứng
thú tham gia tích cực vào quá trình tìm tòi, lónh hội kiến thức và vận dụng vào
thực tế.
Vật lý là môn học có nhiều ứng dụng trong sản xuất, đời sống và là thành
tựu của ngành công nghệ thông tin nên giáo viên có nhiều cơ hội để gây hứng
Trang 5
thú cho học sinh trong quá trình tìm hiểu, khám phá ra những điều mới mẻ xung
quanh, tạo ra nhu cầu và hứng thú học tập cho học sinh.
Ví dụ:
 Khi dạy các bài tìm hiểu về sự phụ thuộc của điện trở vào dây dẫn, thay
vì giáo viên thông báo cho học sinh nghe về điện trở phụ thuộc vào chiều dài,
tiết diện và vật liệu làm dây dẫn rồi ghi chép thụ động, thì ta cho học sinh thử

nêu dự đoán và dự kiến cách làm thí nghiệm kiểm tra. Thông qua các thí
nghiệm, học sinh sẽ rút ra sự phụ thuộc đó và có hiểu biết tại sao người ta
thường dùng dây đồng làm lõi dây dẫn điện, hoặc ở các đường dây chính phải
dùng dây có tiết diện đủ lớn …
 Ở bài “Biến trở – Điện trở dùng trong kó thuật”: giáo viên cho học sinh
quan sát vật thật để nêu cấu tạo và hoạt động của biến trở; quan sát mạch điện
ở hộp angten, hộp số quạt … để thấy các điện trở dùng trong kó thuật…
 Ở bài “Điện năng – Công của dòng điện”: giáo viên có thể chia lớp thành
các nhóm, thảo luận trao đổi để tìm hiểu xem các dụng cụ điện khi hoạt động
biến đổi điện năng thành những dạng năng lượng nào? Phần năng lượng nào
được biến đổi từ điện năng là có ích, là vô ích? Sau đó các tổ tự trình bày trước
lớp và trao đổi , thống nhất kết quả.
Với những phương pháp như vậy, giáo viên chỉ đóng vai trò là người
hướng dẫn, gợi ý, còn học sinh chủ động học tập trong quá trình học tập của
mình.
Phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh, rèn luyện tư duy sáng tạo
trong giờ học thể hiện ở chỗ:
- Kích thích được óc tò mò khoa học, ham hiểu biết của các em bằng
cách tạo ra những tình huống có vấn đề. Đó là những câu hỏi thú vò
gây hứng thú học tập, tạo nhu cầu nhận thức cho học sinh.
- Giáo viên không thuyết trình liên miên mà dành “đất” cho hoạt động
độc lập cho học sinh bằng cách tăng cường vấn đáp tìm tòi, tạo ra các
cuộc tranh luận, thảo luận, chuyển dần từ kiểu dạy học truyền thụ
kiến thức sang dạy học giải quyết vấn đề.
- Đối với môn Vật lý thì có thể nói “Trăm nghe không bằng một thấy,
trăm thấy không bằng một làm”. Nếu không có sự trải nghiệm nhất
đònh trong thực tế thì lónh hội kiến thức không thể sâu sắc và bền chặt
được. Hơn nữa sự hiểu biết Vật lý không thể đạt được đơn thuần bằng
suy diễn lôgic. Chỉ có những quan sát và thực nghiệm mới cho phép
Trang 6

kiểm tra được sự đúng đắn của một nhận đònh về thế giới vì vậy giáo
viên cần tạo điều kiện cho học sinh tự chiếm lónh kiến thức thông qua
hoạt động thực nghiệm và cao hơn nữa cho học sinh tập dượt giải
quyết vấn đề vật lý trong thực tế.
- Phối hợp chặt chẽ những nổ lực cá nhân trong tự học với việc học tập
hợp tác trong nhóm.
- Sử dụng các thiết bò, phương tiện dạy học theo hướng phát huy tính
tích cực học tập của học sinh .
Ví dụ:
 Ở bài “Sự phụ thuộc của cường độ dòng điện vào hiệu điện thế giữa
hai đầu dây dẫn”, giáo viên đặt câu hỏi mở “Từ kết quả thí nghiệm, hãy xét
mối quan hệ giữa cường độ dòng điện chạy qua đoạn mạch và hiệu điện thế đặt
vào hai đầu đoạn mạch đó?”. Ở câu hỏi này, đòi hỏi học sinh tư duy tìm ra sự
phụ thuộc tỉ lệ thuận và có khả năng bộc lộ sai sót cho rằng U phụ thuộc vào I.
Thông qua đó giáo viên phân tích điều chỉnh nhận xét của học sinh giúp các em
hiểu đúng bản chất của sự phụ thuộc đó.
 Ở bài “Điện trở của dây dẫn – Đònh luật Ôm” : “Nếu sử dụng cùng một
hiệu điện thế đặt vào hai đầu các dây dẫn khác nhau thì cường độ dòng điện
qua chúng có như nhau không?”. Qua việc phân tích kết quả thí nghiệm, học
sinh biết được khái niệm và ý nghóa điện trở của dây dẫn.
 Ở bài “Đoạn mạch song song”, học sinh được chia thành nhóm để làm
thí nghiệm kiểm tra công thức tính điện trở tương đương của đoạn mạch. Qua đó
tạo hứng thú học tập bộ môn và khắc sâu kiến thức cho học sinh.
 Ở bài “Sử dụng an toàn và tiết kiệm điện”, giáo viên có thể đặt câu hỏi:
“Theo em, chúng ta có thể dùng những biện pháp nào để sử dụng tiết kiệm
điện năng tiêu thụ trong gia đình?”. Như vậy, trước hết là gợi lên cho các em
một vấn đề quan trọng là phải tiết kiệm điện năng trong gia đình. Từ đó mỗi
học sinh đều phải suy nghó, liên hệ lại những biện pháp mà gia đình thường áp
dụng để tiết kiệm điện năng, và cũng có thể ở gia đình chưa hề đề cập đến vấn
đề này thì các em phải suy nghó để tìm ra các giải pháp. Các em sẽ trả lời theo

những ý tưởng khác nhau, sau đó sẽ chờ đợi giáo viên giải đáp tổng kết để rõ
được những kiến thức mới quan trọng và rất cần thiết trong cuộc sống hằng
ngày. Như vậy sẽ kích thích được tính tích cực và sự hứng thú của học sinh trong
học tập.
b. Rèn luyện kó năng tự học cho học sinh :
Trang 7
Chương trình vật lý mới đòi hỏi mỗi học sinh có một thái độ học tập đúng
đắn và một phương pháp học tập khoa học thì hiệu quả tiết học càng cao.
Ngay từ tiết học đầu tiên, giáo viên cần tập cho các em thói quen cần thiết
trong học tập như:
- Chuẩn bò tốt bài học ở nhà, tập trả lời các câu hỏi theo sách giáo khoa.
- Mạnh dạn đưa ra những suy nghó, ý kiến của mình khi thảo luận, trao
đổi cùng các bạn.
- Làm đầy đủ các bài tập do giáo viên giao về nhà.
- Tham gia các thí nghiệm thực hành trên lớp với ý thức tự giác, kó luật.
- Chú ý nghe giảng, ghi chép các nội dung quan trọng của bài học.
- Làm sổ tay Vật Lý …
Muốn vậy, giáo viên phải có kế hoạch cụ thể cho mỗi bài giảng, giao việc
vừa sức, dành thời gian thỏa đáng cho bước hướng dẫn về nhà.
Qua tìm hiểu thực tế, tôi thấy khâu chuẩn bò ở nhà của học sinh thường bò
coi nhẹ, giáo viên không hướng dẫn cụ thể cho học sinh, chỉ dặn dò qua loa “Về
học bài và làm bài tập số 1,2,…”, nên việc chuẩn bò của học sinh ở nhà thường
không ăn khớp hoặc không liên quan gì đến hoạt động của thầy và trò trên lớp.
Do đó, tôi nghó ngay từ bước dặn dò, học sinh cần được hướng dẫn vào quỹ đạo
cần thiết. Điều này không hề mâu thuẩn gì với xu hướng bộc lộ của học sinh
nếu giáo viên biết khêu gợi đúng hướng.
Ví dụ:
 Để chuẩn bò dạy bài “Công suất điện”, ở bước hướng dẫn về nhà của
tiết trước bao gồm:
- Ôn tập đònh luật Ôm trong đoạn mạch nối tiếp và đoạn mạch song để

vận dụng thành thạo vào giải bài tập.
- Làm bài tập 11.1 – 11.4 (SBT).
- Giáo viên hướng dẫn học sinh làm bài tập 11.4.
- Chuẩn bò trước bài “Công suất điện”:
+ Tìm hiểu số vôn, số Oát ghi trên vỏ bao bì các đồ dùng điện , thiết
bò điện có ở gia đình.
+ Các số ghi đó có ý nghóa gì? Tại sao phải ghi các số đó trên mỗi
dụng cụ điện? học sinh soạn các câu trả lời vào vở bài tập dựa vào
các câu hỏi C có trong SGK
Trang 8
 Để chuẩn bò bài “Điện năng – Công của dòng điện”, sau khi dặn học
sinh các nội dung cần học ở bài trước, làm bài tập củng cố, áp dụng, phần
chuẩn bò bài mới gồm:
+ Tìm 3 đồ dùng điện mà khi hoạt động thì dòng điện đã thực hiện công,
3 đồ dùng điện khi hoạt động dòng điện cung cấp nhiệt lượng. Những biểu hiện
của mỗi dụng cụ đó ?
+ Ôn tập công thức tính hiệu suất, công thức tính công suất đã học ở lớp 8.
+ Số đếm công tơ điện ở nhà em đo đại lượng điện nào? Trong tháng 10
gia đình em sử dụng bao nhiêu số đếm (theo hóa đơn tiền điện)?
c. Rèn kó năng giải bài tập Vật lý cho học sinh :
Bài tập chương “Điện học” rất đa dạng, nhiều thể loại nên phương pháp
giải cũng rất phong phú. Việc rèn luyện cho học sinh biết cách giải bài tập một
cách khoa học, đảm bảo kết quả chính xác là một việc rất cần thiết. Nó không
những giúp học sinh nắm vững kiến thức mà còn rèn luyện kó năng suy luận
lôgic, làm việc khoa học có kế hoạch.Do đó ngay từ bài học đầu tiên giáo viên
cần hướng dẫn học sinh biết các bước cơ bản khi làm bài tập, tập cho các em
cách lập luận có căn cứ, sử dụng đúng ngôn từ vật lý.
 Dạng bài tập đònh tính hay bài tập câu hỏi: Việc luyện tập, đào sâu
kiến thức và mở rộng kiến thức của học sinh về một vấn đề nào đó cần được
bắt đầu từ bài tập đònh tính. Đây là loại bài tập có khả năng trau dồi kiến thức

và tạo hứng thú học tập cho học sinh. Để giải quyết được bài tập đònh tính đòi
hỏi học sinh phải phân tích được bản chất của hiện tượng vật lý.
Bài tập đònh tính đơn giản, thường dùng để củng cố, khắc sâu khái niệm,
đònh luật… Ví dụ:
 Với 3 dây dẫn có chiều dài như nhau, tiết diện như nhau, ở cùng điều
kiện. Dây thứ nhất bằng bạc có điện trở R
1
, dây thứ hai bằng đồng có điện trở
R
2
, dây thứ ba bằng nhôm có điện trở R
3
. hãy so sánh các điện trở của chúng?
(Muốn so sánh điện trở của các dây dẫn cùng chiều dài, tiết điện thì dựa vào
yếu tố điện trở suất  do
ρ
nhôm
>
ρ
đồng
>
ρ
bạc
nên R
3
> R
2
> R
1
).

 “Nếu hiệu điện thế U đặt vào hai đầu bóng đèn tăng liên tục, thì cường
độ dòng điện I qua bóng đèn đó cũng tăng liên tục”. Nói như vậy có hoàn toàn
đúng không? . Với câu hỏi này học sinh dễ nhầm lẫn khi vận dụng đònh luật Ôm
là I tỉ lệ thuận vối U, mà học sinh ít chú ý tới hiệu điện thế đònh mức và cường
độ dòng điện đònh mức của đèn – nếu vượt quá giới hạn đònh mức thì đèn có
thể bò hỏng  như thế dòng điện không tăng liên tục.
Trang 9
Đối với bài tập đònh tính phức tạp thì việc giải bài tập này là giải một
chuỗi các câu hỏi đònh tính. Những câu hỏi này đòi hỏi học sinh phải dựa vào
việc vận dụng một đònh luật vật lý , một tính chất vật lý nào đó.Ví dụ:
 Có hai dây dẫn một bằng đồng một bằng nhôm cùng chiều dài, cùng
tiết diện. Nếu mắc hai dây đó nối tiếp vào mạch điện thì khi có dòng điện đi
qua, nhiệt lượng tỏa ra ở dây nào lớn hơn?
-> Giáo viên cần đưa ra một số câu hỏi gợi ý phân tích giúp các em yếu,
trung bình có thể tìm ra cách giải , sau đó giáo viên đưa ra câu hỏi tổng hợp
(Cùng l,s  R phụ thuộc
ρ
. Do
ρ
nhôm
>
ρ
đồng
nên R
nhôm
> R
đồng
; mắc nối tiếp
thì I qua hai dây như nhau; vận dụng công thức Q = I
2

Rt  cùng I, t nên Q tỏa
ra ở dây nhôm lớn hơn).
 Dạng bài tập tính toán:
Để làm tốt loại bài tập này, giáo viên cần hướng dẫn học sinh đọc kó đề,
tìm hiểu ý nghóa thuật ngữ mới (nếu có), nắm vững các dữ kiện đâu là ẩn số
phải tìm; phân tích bắt đầu bằng việc tìm một đònh luật, qui tắc diễn đạt bằng
một công thức có chứa đại lượng cần tìm và một đại lượng khác chưa biết, tìm
mối liên hệ giữa những đại lượng chưa biết này với đại lượng đã biết trong bài,
nghóa là ta phân tích một bài toán phức tạp thành nhiều bài toán đơn giản hơn.
Trong tiết bài tập, giáo viên phải lựa chọn bài tập đi từ dễ đến khó, từ
đơn giản đến phức tạp và học sinh nắm được các loại bài tập điển hình. Mỗi bài
tập phải là một mắc xích trong hệ thống bài tập, đóng góp một phần nào đó
trong củng cố hoàn thiện và mở rộng kiến thức. Các bài tập đã lựa chọn có thể
sử dụng ở các khâu khác nhau của quá trình dạy học: nêu vấn đề, hình thành
kiến thức mới, củng cố, hệ thống hóa kiến thức …
d. Kết hợp hài hòa các phương pháp dạy học trong bài dạy:
Trong dạy học Vật lý, giáo viên cần áp dụng nhiều phương pháp dạy học
khác nhau để đạt được các mục tiêu mà chương trình đặt ra. Tùy theo nội dung
bài học, đặc điểm vềø trình độ và năng lực nhận thức của học sinh, tùy theo điều
kiện về cơ sở vật chất và thiết bò dạy học mà giáo viên vận dụng, phối hợp các
biện pháp, các phương pháp dạy học khác nhau để đạt được mục tiêu ở mức cao
nhất.
Để kích thích và duy trì hứng thú nổ lực của học sinh, giáo viên phải
chuẩn bò tạo ra những tình huống học tập nêu vấn đề. Giáo viên cần lựa chọn
hình thức hoạt động thích hợp cho học sinh , hướng dẫn giúp đỡ tạo điều kiện
cho các em thực hiện thành công những hoạt động đó.Thực tiễn cho thấy không
Trang 10
một chiến lược dạy học nào là vạn năng có thể áp dụng cho mọi môn học, bài
học, cho mọi học sinh để đạt được mục tiêu mong muốn. Giáo viên cần phải
biết nhiều chiến lược dạy học và áp dụng đúng lúc, đúng đối tượng thì mới đem

lại hiệu quả.
Trong quá trình dạy học, có nhiều yếu tố xuất hiện không lường trứơc
được. Tuy vậy, người giáo viên có kinh nghiệm có thể dự đoán trước được đa số
các tình huống phổ biến có thể gặp. Bởi vậy, việc chuẩn bò một kế hoạch tỉ mỉ,
chu đáo luôn giúp giáo viên thể hiện được mục tiêu dạy học. Nếu chuẩn bò cẩn
thận thì có thể hạn chế được những tình huống bất ngờ gây ra sự lúng túng của
giáo viên hoặc có thể giải quyết một cách thận trọng, tránh những sai lầm đáng
tiếc. Như vậy, có thể nói chuẩn bò kỹ một kế hoạch dạy học là một điều kiện cơ
bản đảm bảo cho sự thành công của việc dạy học. Cần lưu ý rằng: theo cách
dạy học bằng hoạt động, giáo viên sẽ nói ít mà chú ý lắng nghe ý kiến của học
sinh để có sự hướng dẫn và điều chỉnh kòp thời. Bởi vậy trong giáo án nên ghi
những dự kiến tình huống, dự kiến về suy nghó, hành động của học sinh.
Để tổ chức cho học sinh làm việc trên lớp một cách chủ động, tích cực,
đúng hướng, giáo viên cần xây dựng một hệ thống câu hỏi, hướng dẫn học sinh
quan sát hiện tượng, phân tích kết quả thí nghiệm, vận dụng các kiến thức có
liên quan….để đi đến tri thức mới. Vai trò tổ chức của giáo viên thể hiện chủ
yếu qua hệ thống câu hỏi này. Các câu hỏi được sắp xếp thành hệ thống khái
quát đến cụ thể, từ khó đến dễ. Cách làm như vậy nhằm phát huy năng lực của
mọi đối tượng học sinh: Học sinh khá, giỏi trả lời các câu hỏi chung, khái quát;
học sinh trung bình, yếu trả lời các câu hỏi cụ thể, chi tiết. Các câu hỏi phải
được chuẩn bò trước, kể cả hệ thống câu hỏi gợi ý chi tiết. Câu hỏi phải được
diễn đạt rõ ràng, ngắn gọn.
Sử dụng các câu hỏi phù hợp với trình độ học sinh. Một trong những biện
pháp tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh là đặt câu hỏi mở (nhiều
phương án trả lời). Câu hỏi mở phù hợp với trình độ học sinh thường làm không
khí lớp học sôi động và gây nhiều tình huống bất ngờ đối với giáo viên. Xử lí
các tình huống dạy học trên lớp thể hiện trình độ và nghệ thuật của giáo viên.
Thực tế sử dụng câu hỏi mở cho thấy các phương án học sinh đưa ra có thể
ngoài dự kiến của giáo viên. Do đó, khi thiết kế bài dạy, giáo viên nên dự kiến
trước các phương án trả lời của học sinh và cách xử lí các tình huống đó để

hướng học sinh đến điều đã dự kiến, trên cơ sở đó chỉnh lại câu hỏi cho phù hợp
với trình độ thực tế của học sinh lớp mình dạy. Nếu học sinh không nghó ra được
Trang 11
câu trả lời thì cần chuẩn bò những câu hỏi phụ dễ hơn dẫn dắt học sinh đi đến
câu trả lời cần thiết. Những câu trả lời ngoài dự kiến, giáo viên nên ghi lại để
làm tư liệu giảng dạy cho lần sau.
Trong quá trình xử lí thông tin, giáo viên cần tạo điều kiện để nhiều học
sinh được trình bày những điều mình làm, mình quan sát , thường xuyên gọi
học sinh yếu, qua đó tập các em mạnh dạn đề xuất ý kiến, không ỷ lại vào bạn
bè và chú ý vào công việc hơn. Để tiết kiệm thời gian cần đặt câu hỏi rõ ràng,
không nhắc lại những điều học sinh đã nói, yêu cầu học sinh nhận xét, bổ sung
câu trả lời của bạn. Giáo viên phải biết khơi dậy những kiến thức có sẵn trong
mỗi học sinh và sử dụng có hiệu quả các phương tiện, thiết bò dạy học trong
mỗi giờ học. Bài học được tổ chức thành một chuỗi hoạt động tranh luận của
học sinh thông qua các câu hỏi, bài tập phù hợp. Dựa trên các ý kiến của học
sinh, giáo viên phân tích và thống nhất kiến thức.
Khi học sinh hoạt động nhóm, giáo viên quan sát, theo dõi và kòp thời giúp
đỡ các nhóm giải quyết vấn đề, trực tiếp giải đáp khi có ý kiến thắc mắc của
nhóm; phát hiện các nhóm hoạt động chưa có hiệu quả để kòp thời uốn nắn và
điều chỉnh; động viên, khuyến khích và khen ngợi nhằm tạo không khí phấn
khởi giúp học sinh tự tin trong học tập; xây dựng mối quan hệ thân thiện, hợp
tác giữa thầy – trò, trò – trò trong môi trường học tập an toàn.
Như vậy, giáo viên phải đồng thời là người tổ chức, ngưới cố vấn, người
hướng dẫn giúp học sinh trở thành người khám phá và nghiên cứu.
4. Kết quả :
Phải khẳng đònh đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính
tích cực của học sinh đã tạo ra môi trường học tập sôi động. Nó thúc đẩy con
người linh hoạt, sáng tạo trong việc giải quyết và khám phá cái mới. Đây không
phải là nhận thức một chiều nên việc nắm kiến thức của học sinh được diễn ra
theo khả năng biểu lộ tính tích cực của trí tuệ và lòng ham hiểu biết của học

sinh.
Sau một học kì với sự nổ lực không ngừng của bản thân, từng bước áp
dụng các giải pháp đã đưa ra, tôi thấy học sinh có chuyển biến rõ rệt. Nếu trong
các bài học đầu tiên giáo viên còn mất nhiều thời gian để phân tích, hướng dẫn
nên thường hay bò cháy giáo án thì các bài học sau tiết học sôi nổi hơn, giờ học
các em thấy thoải mái hơn, mạnh dạn đề xuất ý kiến của mình, chủ động tìm
hiểu bài, thao tác thí nghiệm thành thạo, lập luận có căn cứ khoa học và vận
dụng tốt vào thực tiễn.
Trang 12
Kết quả cuối học kì I năm học 2007 - 2008 là 50 / 68 học sinh đạt trung
bình trở lên (73, 5%), năm học 2008 - 2009 là 42 / 52 học sinh đạt trung bình
trở lên ( 80,8 %).
Kết quả cụ thể:
Thời
điểm
Lớp TSHS Giỏi Khá TB Yếu Kém
Giữa
HKI
9A 26 2 (7,7%) 3(11,5%) 13(50,0%) 7(26,9%) 1(3,8%)
9B 26 3(11,5%) 4(15,4%) 14(53,9%) 5(19,2%) 0
HKI 9A 26 3(11,5%) 6(23,1%) 11(42,3%) 6(23,1%) 0
9B 26 5(19,2%) 9(34,6%) 8(30,8%) 4(15,4%) 0
1. Bài học kinh nghiệm :
Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học là yêu cầu cấp thiết để góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục. Song một chủ trương dù tiến bộ đến đâu thì khi đi
vào thực tế cũng vấp phải những khó khăn. Không ai phủ nhận tính tích cực của
yêu cầu đổi mới, nhưng biến nó thành hiện thực thì không phải là chuyện dễ
hoàn thành trong một sớm một chiều.
Trước những khó khăn của thực tiễn giáo dục, chúng ta phải đổi mới
phương pháp dạy học dần dần, phải chấp nhận một giải pháp quá độ mang tính

cải tiến với phương châm đổi mới là dạy học tạo điều kiện để học sinh “suy
nghó nhiều hơn, làm việc nhiều hơn, thảo luận nhiều hơn”. Và nhân tố quyết
đònh trong công việc đổi mới này là đội ngũ giáo viên chúng ta.
Trang 13
C. KẾT LUẬN
Mỗi giáo viên phải có kế hoạch đổi mới, chòu khó tìm tòi học tập, mạnh
dạn thực hiện đổi mới từ những kinh nghiệm tốt của bản thân và đồng nghiệp,
đổi mới từ một bài đến nhiều bài, khó một năm để dễ dàng trong nhiều năm
sau.
Qua nhiều năm thực hiện giảng dạy theo phương pháp mới, nhờ sự nổ lực
của bản thân giáo viên, nhiều học sinh học tập tốt hơn, và có kết quả cao hơn.
Giải pháp nói chung có tính chất khả thi. Tuy vậy, còn một số khó khăn khi
giảng dạy như sau:
- Cơ sở vật chất còn rất thiếu thốn, nhiều dụng cụ thí nghiệm thiếu chính
xác chưa đáp ứng được việc thay đổi hình thức dạy học cho từng học sinh hoặc
nhóm học sinh. Khi chuyển tiết từ lớp này sang lớp khác giáo viên phải chuyển
dụng cụ thí nghiệm, hoặc tháo – lắp lại cái mới…mất nhiều thời gian.
- Cả thầy và trò còn bò ảnh hưởng thói quen dạy học truyền thống như
thầy thì sợ “cháy” giáo án, sợ không “trung thành” với sách giáo khoa, không
an tâm khi học sinh im lặng làm việc trong một thời gian, đôi khi còn ham giảng
giải; học sinh ít tìm hiểu các tài liệu tham khảo khác sách giáo khoa; còn một
số em chưa tích cực tự học.
- Trình độ học sinh không đồng đều trong một lớp. Do đó cũng dễ dẫn đến
học sinh khá – giỏi làm việc nhiều, còn các em yếu thì thụ động, trông chờ kết
quả của bạn.
2. Hướng phổ biến, áp dụng đề tài:
Các giải pháp mà tôi nêu ra đây chỉ là một phần nhỏ trong phương pháp
dạy học bộ môn Vật lý. Để giảng dạy thành công mỗi giáo viên cần kết hợp
nhiều phương pháp khác nhau sao cho phù hợp với đối tượng mà mình đang dạy
nhưng vẫn đảm bảo mục tiêu chung là phát huy tính tích cực của học sinh.

Giải pháp này áp dụng trong suốt năm học này và cả cho những năm học
tiếp theo, và có thể áp dụng cho các trường có cùng đối tượng.
3. Hướng nghiên cứu tiếp đề tài:
Sau nhiều năm giảng dạy, chắc hẳn chúng ta sẽ có nhiều kinh nghiệm
khác để duy trì và phát huy những hiệu quả đạt được. Bản thân tôi cần không
ngừng học tập và tìm hiểu để từng bước nâng cao chất lượng dạy học, tích cực
nghiên cứu các phương pháp đặc thù của bộ môn nhằm áp dụng thành công vào
bài dạy của mình.
Trong năm học sau, nếu tiếp tục dạy Vật lý 9, tôi sẽ cố gắng nghiên cứu
giải pháp hình thành và phát triển kỹ năng làm bài tập Vật lý cho học sinh. Dù
Trang 14
cố gắng nhiều nhưng giải pháp này chắc chắn còn nhiều thiếu sót, rất mong
được sự đóng góp của hội đồng khao học để bài viết tốt hơn.
Người thực hiện
NGUYỄN THỊ DIỄM THÚY
Trang 15

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×