Bài số 30. Thúc Sinh từ biệt Thúy Kiều
Bài số 31. Kim Trọng trở lại vườn Thúy
Bài số 32. Anh hùng tiếng đã gọi rằng
Bài số 33. Độc Tiểu Thanh kí
Bài số 34. Thăng Long thành hoài cổ
Phần thứ ba. VĂN HỌC NƯỚC NGOÀI - LÝ LUẬN VĂN HỌC
Bài số 35. Sử thi Hi Lạp
Bài số 36. Uylitxơ trở về
Bài số 37. Sử thi Ấn Độ
Bài số 38. Rama buộc tội
Bài số 39. Thơ Đường
Bài số 40. Hoàng Hạc lâu Tống mạnh hạo nhiên chi quảng lăng
Bài số 41. Thu hứng
Bài số 42. Hoàng lạc Lâu
Bài số 43. Tì Bà Hành
Bài số 44. Tam quốc diễn nghĩa
Bài số 45. Người lái buôn thành Vơnidơ
Bài số 46. Văn học là gì
Bài số 47. Nhà văn và quá trình sáng tạo
Bài ca người thợ mộc
Anh là thợ mộc Thanh Hoa,
Làm cầu, làm quán, làm nhà khéo thay!
Lựa cột anh dựng đòn tay,
Bào trơn đóng bén nó ngay một bề.
Bốn cửa anh chạm bốn dê
Bốn con dê đực chầu về tổ tông,
Bốn cửa anh chạm bồn rồng,
Trên thì rồng ấp, dưới thì rồng leo.
Bốn cửa anh chạm bốn mèo,
Con thì bắt chuột, con leo xà nhà.
Bốn cửa anh chạm bồn gà,
Đêm thì nó gáy, ngày ra ăn vườn.
Bốn cửa anh chạm bốn lươn,
Con thì thắt khúc, con trườn bò ra.
Bốn cửa anh chạm bốn hoa,
Trên là hoa sói, dưới là hoa sen.
Bốn cửa anh chạm bốn đèn,
Một đèn dệt cửi, một đèn quay tơ.
Một đèn đọc sách ngâm thơ,
Một đèn anh để đợi chờ nàng đây.
Lời bình
Tục ngữ có câu: "Thợ mộc xứ Thanh ở quanh Kinh kì", hoặc: "Thợ mộc xứ Thanh ở
quanh Thuận Quảng". Thợ mộc dù
giỏi đến đâu cũng chỉ được gọi là phó cả. Thợ mộc làm cung điện vua chúa mới được gọi là
thợ cả. Xây dựng cung điện thời
Lê - Thịnh, thời N guyễn sau này, phần lớn là thợ mộc Thanh Hoá. Câu đầu của bài ca dao
này có dị bản ghi là "Anh làm thợ
mộc Thanh Hoa". Theo ý chúng tôi là “Anh là thợ mộc Thanh Hoa”; một chữ là biết mấy tự
hào khi chàng trai xưng danh với
cô gái. Không phải thợ mộc tầm thường mà là thợ mộc Thanh Hoa xây dựng cung điện đấy
nhé! Hai chữ "khéo thay" cũng là
lời tự khen, khoe tài của anh: "Làm cầu, làm quán, làm nhà khéo thay"! Có tài thực mà
khoe khoang thì cũng chẳng hay ho
gì! Ở đây, chàng thợ mộc Thanh Hoa khoe tài là để tỏ tình với cô gái mà anh đang yêu, nên
rất dễ thương, được chúng ta
đồng tình.
Câu 3,4 chỉ theo đà mà nói, chứ có tài cán gì ở cái việc "bào trơn, đóng bén" Từ câu thứ
năm trở đi, bằng biện pháp liệt
kê, chàng thợ mộc khoe tài chạm trổ của anh. Năm bức chạm con vật: dê, rồng, mèo, gà,
lươn. Hai bức chạm cảnh: hoa và
đèn. Có bức chạm tứ linh: rồng, nhưng đã được cách điệu dân gian hoá, bình dị hoá.
"Trên thì rồng ấp, dưới thì rồng leo"
Con lươn có gì đáng chạm? Với tài nghệ điêu luyện, bức chạm lươn vô cùng sống động,
tuyệt khéo:
"Bốn cửa anh chạm bốn lươn
Con thì thắt khúc, con trườn bò ra".
Nghệ thuật cổ phương Đông lấy cái cân xứng làm thành một tiêu trí của cái đẹp. Hội hoạ,
chạm trổ, kiến trúc, thơ văn
hay miêu tả cảnh vật qua bộ tứ bình: tùng, cúc, trúc, mai; xuân, hạ, thu, đông; ngư tiều,
canh, mục nghệ sĩ lấy cái đối xứng,
cái hài hoà làm trọng. Trong bài ca dao này, các tiểu đối đã làm rõ vẻ đẹp bức chạm đầy mĩ
thuật của chàng thợ mộc:
- Trên thì rồng ấp // dưới thì rồng leo.
- Con thì bắt chuột // con leo xà nhà.
- Đêm thì nó gáy // ngày ra ăn vườn.
- Con thì thắt khúc // con trườn bò ra.
- Trên là hoa sói // dưới là hoa sen.
- v.v
Cái hồn của bức chạm 5 con vật được thể hiện ở trạng thái động: " Chầu về tổ tông",
"rồng ấp rồng leo", "bắt chuột leo
xà nhà", "gáy ra ăn vườn", "thắt khúc trườn bò ra".
Tất cả các bức chạm đều cho thấy anh thợ mộc là con một người rất tài hoa.
Anh còn là một chàng trai đa tình. Làm nghề thợ mộc dù giỏi đến mấy cũng thuộc vị thế
tầm thường qua sự xếp đặt 4 lớp
người trong xã hội phong kiến. Bức chạm hoa - hoa sói , hoa sen - là một ngầm ý: khoe tâm
hồn thanh cao. Chàng trai đang
tỏ tình không phải là loại người vai u thịt bắp đâu nhé! Bức chạm đèn mới thật kì diệu. Hai
ngọn đèn cho người khéo tay hay
lam hay làm - chính là cô gái - để dệt vải, để quay tơ. Đèn thứ ba, để cho ai, "đọc sách ngâm
thơ"? Một con người nho nhã
đang tỏ tình với nàng. Ngọn đèn thứ tư là ngọn đèn hạnh phúc:
"Một đèn anh để đợi chờ nàng đây".
Có thể nói bức chạm đèn rất đẹp, đẹp về mặt mĩ thuật, đẹp ở tâm tình chàng thợ "mộc",
đó là một con người luôn luôn
hướng về một cuộc sống lao động, êm đềm hạnh phúc của lứa đôi trong mỗi gia đình Việt
Nam.
Cấu trúc bài ca dao cân xứng, hài hoà. Giọng điệu hồn nhiên tự tin và chân thành. Chàng
thợ mộc Thanh Hoa là một chàng
trai tài hoa và đa tình: Anh là một con người dễ mến dễ thương.
Tát nước đầu đình
Hôm qua tát nước đầu đình,
Bỏ quên cái áo trên cành hoa sen.
Em được thì cho anh xin,
Hay là em để làm tin trong nhà.
Áo anh sứt chỉ đường tà,
Vợ anh chưa có, mẹ già chưa khâu.
Áo anh sứt chỉ đã lâu,
Mai mượn cô ấy về khâu cho cùng.
Khâu rồi anh sẽ trả công,
Đến khi lấy chồng anh sẽ giúp cho.
Giúp cho một thúng sôi vò,
Một con lợn béo, một vò rượu tăm.
Giúp cho đôi chiếu em nằm,
Đôi chăn em đắp, đôi trằm em đeo.
Giúp cho quan tám tiền cheo,
Quan năm tiền cưới lại đèo buồng cau.
Lời bình
"Tát nước đầu đình" là bài ca dao tỏ tình của anh trai cày với cô gái thôn nữ. Đã có bài
"Mận hỏi Đào" Cũng có cảnh thổ
lộ tình yêu một cách mộc mạc:
"Gặp đây anh lắm cổ tay,
Anh hỏi câu này, có lấy anh không?"
Bài ca dao "Tát nước đầu đình" cho thấy, anh trai cày này dễ thương hơn. Gặp cô thôn nữ
chắc anh đã "phải lòng" rồi, anh
lấy cớ "mất áo" để bắt chuyện. Sen làm gì có cành, đó chỉ là cách nói cho đậm đà. Cô gái bị
buộc vào một cảnh ngộ "khó
xử":
"Em được thì cho anh xin
Hay là em để làm tin trong nhà"
Chiếc áo đã trở thành "cái cầu" thương nhớ! Thật là hồn nhiên, tự nhiên. Cô thôn nữ chắc
là đã "Lắng nghe lời nói như ru -
Chiều thu dễ khiến nét thu ngại ngùng" (K iều). Bỏ đi sao đành, khi nghe chàng thổ lộ gia
cảnh:
"Áo anh rứt chỉ đường tà,
Vợ anh chưa có, mẹ già chưa khâu"
Cái áo đã đi trọn một vòng đời khi anh nói: "Mai mượn cô ấy về khâu cho cùng". Anh
đang chăn đơn gối chiếc, thiếu kẻ
sửa túi nâng khăn. Anh chỉ có mẹ già, "mẹ già bằng ba lần cửa", "mẹ già như chuối ba
hương - như xôi nếp mật như đường
mía lau" (ca dao).
Cảnh ngộ ấy, ai nghe mà chẳng động lòng. Từ chỗ gọi bằng "em", chàng trai cày chuyển
sang gọi bóng gió: "cô ấy".
Chàng trai nói về chuyện "trả công", nói về chuyện "giúp cho". Rất hậu hĩnh: "một thúng
xôi vò", "một con lợn béo", "một vò
rượu tăm". Cũng với lời nói, đến đây, khoé mắt, đôi mày, nụ cười, mái tóc như đều biết
nói, cùng tham dự vào cuộc tỏ
tình. Mỗi lúc một hé lộ, cánh cửa tâm tình mở rộng dần ra. Từ "một" đã thành "đôi" rồi:
"Giúp em đôi chiếu em nằm
Đôi chăn em đắp, đôi trằm em đeo"
Bài ca dao, "bức thông điệp của tình yêu" đã thấm sâu vào tâm hồn người thiếu nữ khi
bên tai nàng một tiếng nói chân tình
vang ngân:
"Giúp cho quan tám tiền cheo,
Quan năm tiền cưới, lại đèo buồng cau".
Các điệp từ, điệp ngữ: "giúp cho giúp cho " tạo nên ngữ điệu nồng nàn, ý vị, thiết tha,
thể hiện một cách chân thành
nỗi ước mơ nên vợ nên chồng mà chàng trai cày đang hướng tới.
Cho chim khoe giọng hót. Anh thợ mộc Thanh Hoa khoe tài. Chàng trai cày nói chuyện
bỏ quên cái áo "sứt chỉ đường tà"
v.v… Trai gái làng xưa đã tỏ tình, đã giao duyên đậm đà như vậy.
Lao động, hạnh phúc lứa đôi, cuộc sống êm đềm hạnh phúc "chồng cày, vợ cấy, con trâu
đi bừa", là ước mong, khát vọng
muôn đời của họ. Chân thành, tế nhị của chàng trai trong tỏ tình, trong giao tiếp là một
nét rất đẹp trong tâm hồn để ta
trân trọng.
Khái quát về văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX
Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX tồn tại và phát triển trong lòng xã hội
và văn hoá phong kiến được gọi
là Văn học trung đại Việt Nam.
I. Các giai đoạn phát triển
1. Giai đoạn từ thế kỷ X đến thế kỷ XV
- 3 cuộc kháng chiến vĩ đại: thời Lý đánh bại giặc Tống; thời Trần ba lần đánh thắng giặc
Nguyên - Mông; thời Lê đánh
đuổi quân "cuồng Minh" tàn bạo.
- Chịu ảnh hưởng tư tưởng của đạo Phật, đạo Nho và đạo Lão; sâu sắc nhất và bao trùm
nhất là đạo Nho.
- Văn học Hán Nôm thấm nhuần tư tưởng yêu nước và tinh thần dân tộc, ý chí chống
xâm lăng. Tác giả tiêu biểu nhất: Lý
Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông.
2. Giai đoạn từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XVIII
- Chế độ phong kiến khủng hoảng. Nội chiến Nam - Bắc triều; Trịnh - Nguyễn phân
tranh. Khởi nghĩa nông dân nổi lên
như vũ bão.
- Văn thơ chữ Nôm phát triển mạnh. Cảm hứng nhân đạo dào dạt nói lên nỗi đau thương
của con người, biểu lộ tấm lòng
thương dân lo đời.
Tác giả tiêu biểu nhất là Nguyễn Bỉnh Khiêm, Đào Duy Từ
3. Giai đoạn từ nửa sau thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX
Chế độ phong kiến Việt Nam (cả Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài) khủng hoảng trầm trọng
và sụp đổ. Khởi nghĩa nông dân
Tây Sơn quét sạch thù trong giặc ngoài. Gia Long thiết lập triều Nguyễn. Nước ta rơi vào
hiểm hoạ xâm lăng của thực dân
Pháp.
- Thiên chúa giáo được truyền vào nước ta. Chữ quốc ngữ xuất hiện.
- Văn học viết Hán, Nôm phát triển rực rỡ. Chủ nghĩa nhân đạo thấm đẫm văn chương.
"Chinh phụ ngâm", "Cung oán
ngâm khúc","Truyện kiều" là những áng thơ kiệt tác. Tên tuổi những nữ sĩ Đoàn Thị
Điểm, Hồ Xuân Hương, Bà Huyện
Thanh Quan sáng chói cùng với N guyễn Du, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát
4. Giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX.
- Thực dân Pháp xâm lăng, rồi thống trị nước ta. Phong trào yêu nước chống Pháp.
- Bắt đầu có văn thơ viết bằng chữ quốc ngữ. Giai đoạn cuối cùng của văn học chữ Nôm.
Nguyễn Đình C hiểu, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương là những nhà thơ tiểu biểu nhất
giai đoạn này.
II. Mấy đặc điểm lớn về nội dung
1. Cảm hứng yêu nước.
2. Cảm hứng nhân đạo.
III. Mấy đặc điểm lớn về hình thức
1. Yếu tố Hán và yêu cầu dân tộc hoá hình thức văn học.
2. Tính quy phạm và việc phá vỡ tình quy phạm.
3. Phạm vi và quy mô kết tinh nghệ thuật của văn học.
Ngôn Hoài
Không Lộ Thiền sư
Trạch đắc long xà địa khả cư,
Dã tình chung nhật lạc vô dư.
Hữu thì trực thượng cô phong đính,
Trưởng khiếu nhất thanh hàn thái hư.
Tỏ lòng
Kiều đất long xà chọn được nơi
Tình quê nào chán suốt ngày vui.
Có khi đỉnh núi trèo lên thẳng
Một tiếng kêu vang lanh cả trời.
Phan Võ dịch
I. Tác giả
Không Lộ Thiền sư (?- 1119) là Phật danh, họ Dương, quê ở Nam Định, vùng biển. Đức
trọng tài cao, tên tuổi gắn liền
với nhiều giai thoại nhà chùa và hai bài tứ tuyệt: "Ngôn hoài", "Ngư nhàn".
II. Chủ đề
"Ngôn hoài"- giãi bày nỗi lòng của vị Thiền sư - thi sĩ - tình yêu đời chan hoà với tình
yêu quê hương, yêu thiên nhiên tạo
vật.
III. Phân tích
Hai câu đầu nói lên niềm vui dào dạt "suốt ngày vui", đó là "dã tình", là mối tình quê
nhà, đồng ruộng, núi rừng. Vui vì
chọn được "kiểu đất long xà" rất đẹp, rất thích để làm nhà. Niềm vui ấy bình dị như mọi
người. Không Lộ tuy là một vị Thiền
sư nhưng không thoát tục, vui niềm vui bình dị, yêu tình yêu quê hương.
Hai câu 3, 4 thể hiện khí phách và sự chan hoà của nhà thơ giữa thiên nhiên cao rộng,
trèo thẳng lên đỉnh núi cao rồi kêu
lên một tiếng thật to và dài trấn động cả bầu trời, vũ trụ. Chữ dùng thật hay, biểu lộ một chí
khí. Một tâm thế hào hùng, kỳ lạ :
"Hữu thì trực thượng cô phong đính,
Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư"
IV. Đọc thêm
Ngư nhàn
Vạn lý thanh giang, vạn lý thiên.
Nhất thôn tang giá, nhất thôn yên.
Ngư ông thụy trước vô nhân hoán,
Quá ngọ tinh lai tuyết mãn thuyền.
Không Lộ Thiền sư
Cảnh thanh nhàn của ngư ông
Mây xanh nước biếc muôn trùng,
Dâu chen khói toả một vùng thôn quê.
Ô ng chài giấc ngủ đang mê,
Quá trưa tỉnh dậy tuyết che đầy thuyền.
Đinh Văn Chấp dịch
(Tạp chí Nam Phong 1927)
Tụng giá hoàn kinh sư
Trần Quang Khải
Doạt sóc Chương Dương độ
Cầm Hồ Hàm Tử quan
Thái bình tu trí lực
Vạn cổ thử giang sơn
Phò giá về kinh
Chương Dương cướp giáo giặc,
Hàm tử bắt quân thù
Thái Bình nên gắng sức
Non nước ấy nghìn thu
Trần Kim Trọng dịch
(Việt Nam sử lược)
I. Tác giả
Trần Quang Khải (1241 - 1294) là thượng tướng, có công lớn trong cuộc kháng chiến
(lần thứ 2 và lần thứ 3) đánh thắng
giặc Nguyên – Mông. Học rộng, giỏi thơ văn, có tài thao lược và ngoại giao. Ông có tập
thơ "Lạc đạo", nổi tiếng nhất là bài
thơ "Tụng giá hoàn kinh sư"
II. Xuất xứ chủ đề
1. Tháng 4/1285, Trần Nhật Duật chém đầu Toạ Đô tại Hàm Tử quan. Tháng 6/1285,
Trần Quang Khải đại phá giặc
Nguyên Mông tại Chương Dương độ, tiến lên giải phóng Thăng Long. Bài thơ "Tụng giá
hoàn kinh sư "được viết sau chiến
thắng Chương Dương độ.
2. Bài thơ biểu lộ niềm tự hào, niềm vui thắng trận và nói lên khát vọng đem tài trí xây
dựng đất nước thanh bình
bền vững muôn đời.
III. Phân tích
Bài thơ được viết theo thể thơ ngũ ngôn tứ tuyệt. Hai câu đầu bình đối như hai trang kí
sự chiến trường. Vị ngữ "đoạt
sóc" (cướp giáo) và "cầm Hồ" (bắt giặc Mông Cổ) được đặt ở đầu câu, thể hiện hai thế
đánh, hai cú đánh liên tiếp giáng
xuống đầu giặc với sức mạnh "Sát Thát" của tướng sĩ thời Trần. Chương Dương độ và Hàm
Tử quan, hai địa danh, hai chiến
công đã được ghi vào sử sách và thơ ca dân tộc trở nên trường tồn, chói lọi:
"Đoạt sóc Chương Dương độ
Cầm Hồ Hàm Tử quan "
Câu thơ như một bản tin chiến sự, có một sức nén và vang xa, dạt dào tự hào. Phải là
người tham dự, chỉ huy trận đánh
mới viết hàm súc và đĩnh đạc, hào hùng như vậy.
Hai câu cuối, một ý thơ mới xuất hiện. Trong khói lửa chiến trường, trong niềm vui chiến
thắng giải phóng kinh thành Thăng
Long trên đống tro tàn do lũ giặc gây ra, nhà thơ nghĩ đến nhiệm vụ mới:
"Thái bình tu trí lực
Vạn cổ thử giang san”
Trước mắt mọi người, từ vua tôi, tướng sĩ đến trăm họ, toàn dân, ai ai cũng phải đem tài
trí sức lực, của cải (trí lực) để xây
dựng giang san đất nước bền vững trong thanh bình đến muôn đời. Nhãn quan chính trị của
Trần Quang Khải vô cùng sáng
suốt. Câu thơ trên có ý nghĩa thời sự đối với chúng ta hiện nay.
Tóm lại, "Tụng giá hoàn kinh sư" là bài thơ kiệt tác. Bản dịch của tác giả Trần Trọng
Kim rất đặc sắc.
Thuật Hoài
Hoành sóc giang sơn cáp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu.
Phạm Ngũ Lão
Tỏ lòng
Múa giáo non sông trải mấy thâu,
Ba quân hùng khí át sao Ngưu
Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu.
Trần Trọng Kim dịch.
(Việt Nam sử lược)
I. Tác giả
Phạm Ngũ Lão (1255-1320) quê ở làng Phù Ủng, Hải Dương. Là danh tướng thời Trần
trăm trận trăm thắng, văn võ toàn
tài. Còn lưu lại hai bài thơ "Thuật Hoài" và "Vân thượng tướng quốc công Hưng Đạo Đại
Vương".
II. Chủ đề
Bài thơ "Thuật Hoài" nói lên chí khí và khát vọng công danh anh hùng của đấng nam nhi
trong thời loạn- khi Tổ
Quốc bị xâm lăng.
III. Lời bình
Cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ thơ đanh thép hùng hồn. Trong đạo quân mạnh như hổ báo,
chí khí lẫm liệt làm át, làm mờ cả
sao Ngưu trên bầu trời, thì người chiến sĩ thời Trần đã cầm ngang ngọn giáo để bảo vệ giang
sơn. Ngọn giáo ấy mang tầm vóc
kì vĩ đo bằng kích thước non sông. Hình tượng người anh hùng "Sát Thát" được thể hiện
bằng ngôn ngữ tráng lệ, kì vĩ khác
nào người anh hùng thần thoại, người dũng sĩ trong sử thi xa xưa?
Người anh hùng thuở "Bình N guyên" nung nấu trong lòng, cháy bỏng tâm hồn niềm
khao khát: đánh giặc lập công để đền
ơn vua báo nợ nước. Mang nặng nợ công danh cũng là khát vọng anh hùng cao đẹp. Tự tin
và tự hào khi nhà thơ khẳng định.
"Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu"
Bài thơ là khúc tráng ca của người anh hùng Phạm Ngũ Lão trăm trận trăm thắng. Cùng
với "Hịch tướng sĩ " (Trần Quốc
Tuấn), "Tụng giá hoàn kinh sư" (Trần Quang Khải) bài thơ "Thuật hoài" của Phạm Ngũ
Lão sáng ngời Hào khí Đông - Á.
Bạch Đằng giang phú
I. Tác giả
Trương Hán Siêu (?-1354), tự là Thăng Phủ, quê ở N inh Bình. Vốn là môn khách của
Hưng Đạo Vương. Dưới triều Trần
Anh Tông, Trần Dụ Tông, ông làm quan to trong triều. Lúc mất được truy tặng Thái bảo,
được thờ ở Văn Miếu.
Là bậc danh sĩ tài cao học rộng. Hiện còn để lại 4 bài thơ, 3 bài văn, nổi tiếng nhất là
"Bạch Đằng giang phú".
II. "Phú" là gì?
"Phú" nghĩa đen là bày tỏ, miêu tả, là thể văn xuôi có vần dùng để tả cảnh vật, phong tục,
tính tình. Phú được chia làm hai
loại:
1. Phú cổ thể gọi là Phú lưu thuỷ, như một bài ca, hoặc một bài văn xuôi dài mà có vần.
2. Phú Đường luật là thể phú được đặt ra từ đời Đường vừa có vần vừa có đối, có luật
bằng trắc nghiêm nhặt.
Bố cục một bài phú gồm có 6 phần: 1, Lung; 2, Biện nguyên; 3, Thích thực; 4, Phu diễn; 5,
Nghị luận; 6, Kết.
Cách đặt câu trong một bài phú gồm có các kiểu sau: Câu tứ tự, câu bát tự, câu song quan,
câu cách cú, câu gối hạc.
Có hay chữ (tài giỏi), có tài hoa mới viết được phú. Cần hiểu thi pháp về phú mới cảm nhận
được cái hay của văn chương,
tư tưởng của phú và văn tế
III. Chủ đề
"Bạch Đằng giang phú" đã ca ngợi sông Bạch Đằng hùng vĩ từng ghi bao chiến công
oanh liệt của tổ tiên, biểu lộ niềm tự
hào về đất nước ta có "đất hiểm" có lắm anh hùng hào kiệt, để đánh giặc ngoại xâm, bảo vệ
nền độc lập thanh bình bền vững.
IV. Những nét lớn cần biết
1. "Bạch Đằng giang phú" được viết theo thể phú lưu thuỷ, có vần, tác giả sử dụng phép
đối nhiều chỗ. "Bài ca cuối bài
phú" là một sự sáng tạo. Nhân vật "khách" là nhân vật trữ tình - chính là nhà thơ.
2. Đoạn tả cảnh sắc Bạch Đằng giang hùng vĩ tráng lệ bằng cảm hứng thiên nhiên chan
hoà với cảm hứng lịch sử là
đoạn hay nhất:
"Bát ngát sóng kình muôn dặm
Thướt tha đuôi trĩ một mầu
Nước trời: một sắc
Phong cảnh: ba thu
Bờ lau san sát
Bến lách đìu hiu
Sông chìm giáo gẫy
Gò đầy xương khô "
3. Bô lão xuất hiện cuộc đối thoại giữa "khách" và "bô lão" làm cho giọng điệu bài phú
từ cảm xúc trữ tình chuyển thành
anh hùng ca. Nhà thơ tái hiện lại cảnh tượng chiến trường một thời oanh liệt - trận thuỷ
chiến trên sông Bạch Đằng:
"Đây là chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã.
Cũng là bãi đất xưa thuở trước Ngô chúa phá Hoàng Thao.
Đương khi ấy
Thuyền bè muôn đội
Tinh kỳ phấp phới.
Tì hổ ba quân.
Giáo gươm sáng chói
Trận đánh thư hùng chửa phân,
Chiến luỹ Bắc, Nam chống đối.
Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ,
Bầu trời đất chừ sắp đổi
( ) Đến nay sông nước tuy chảy hoài
Mà nhục quân thù khôn rửa nổi"
4. Trận thuỷ chiến trên sông Bạch Đằng khác nào trận Xích Bích, trận Hợp Phì trong Bắc
sử. Nhà thơ tự hào khẳng
định và ngợi ca:
"Quả là trời đất cho nơi hiểm trở,
Cũng nhờ nhân tài giữ cuộc điện an
( ) Kìa trận Bạch Đằng mà đại thắng
Bởi Đại Vương coi thế giặc nhan "
5. Bài ca về sông Bạch Đằng
Sông Bạch Đằng hùng vĩ, là mồ chôn quân xâm lược:
"Sông Đằng một giải dài ghê
Sóng hồng cuồn cuộn tuôn về bể Đông."
Bài học giữ nước là bài học "đức cao" đó là lòng yêu nước, tinh thần đại đoàn kết chống
xâm lăng. Ý tưởng sâu sắc, tiến
bộ:
"Giặc tan muôn thuở thanh bình
Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao."
V. Tổng kết
"Bạch Đằng giang phú" là bài ca yêu nước và tự hào dân tộc. Ngôn ngữ tráng lệ. Dòng
sông hùng vĩ, hiểm trở. Dân tộc anh
hùng có nhiều nhân tài hào kiệt. Nhà thơ thể hiện những tư tưởng sâu sắc tiến bộ về vinh và
nhục, thắng và bại, tiêu vong
và trường tồn, đất hiểm và đức cao Đó là bài học lịch sử sáng giá đến muôn đời.
Có những câu văn như một châm ngôn khẳng định một chân lí lịch sử.
"Những người bất nghĩa tiêu vong
N ghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh"
Thơ văn Nguyễn Trãi
I. Cuộc đời Nguyễn Trãi
Nguyễn Trãi (1380-1442) hiệu là Ức Trai, người ở làng Nhị Khê, Thường Tín, Hà Tây.
Là con của Nguyễn Phi Khanh,
cháu ngoại tướng công Trần Nguyên Đán. Đỗ Thái học sinh năm 1400. Năm 1407 giặc
Minh xâm chiếm nước ta, cha bị giặc
bắt đưa về Trung Quốc, Nguyễn Trãi bị giặc giam lỏng tại thành Đông Quang.
- Nguyễn Trãi biệt Đông Quan, trốn vào Lam Sơn dâng "Bình Ngô sách" lên Lê Lợi, trở
thành vị quân sư "viết thư thảo
hịch tài giỏi hơn hết một thời".
- Năm 1428, ông thay lời Lê Lợi thảo "Bình Ngô Đại Cáo" sau đó được cử làm Chánh
chủ khảo khoa thi tiến sĩ đầu tiên
của triều Lê và viết chiếu cầu hiền. Chẳng bao lâu sau, ông bị bọn nịnh thần chèn ép, gièm
pha. Nguyễn Trãi xin về Côn Sơn.
Năm 1440, ông lại được vua vời ra giúp nước.
- Năm 1442 xẩy ra vụ án Lệ Chi Viên, ông bị kết án "tru di tam tộc". Mãi đến năm 1464,
vua Lê Thánh Tông mới minh
oan cho ông và truy tặng ông tước Tán trù bá.
Nguyễn Trãi là người anh hùng thủa"Bình N gô", văn võ toàn tài.
II. Sự nghiệp trước tác của Nguyễn Trãi
1. "Quân trung từ mệnh tập"
- "Bình Ngô Đại Cáo"
"Dư địa chí " "Lam Sơn thực lực"
"Phú núi Chí Linh", "Q uốc âm thi tập", "Ức Trai thi tập",
- v.v
2. Nội dung thơ văn Nguyễn Trãi
a) Tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước và thương dân sâu sắc
- Thương dân, trừng phạt kẻ có tội (điếu phạt) tiêu diệt quân tàn bạo hại nước hại dân (trừ
bạo), đem lại yên vui, hạnh
phúc cho nhân dân (yên dân), đó là việc nhân nghĩa:
"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo"
- Sức mạnh nhân nghĩa là sức mạnh Việt Nam để chiến thắng thù trong giặc ngoài. Đó là
"Đại nghĩa" (nghĩa lớn vì nước vì
dân), là lòng "chí nhân" (thương người vô hạn):
"Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy chí nhân để thay cường bạo"
- Lòng căm thù giặc sôi sục, quyết không đội trời chung với quân "cuồng M inh":
Ngẫm thù lớn há đội trời chung,
Căm giặc nước thề không cùng sống
- Tư tưởng nhân nghĩa của Ức Trai luôn luôn gắn liền với lòng "trung hiếu" và niềm "ưu
ái" (lo nước, thương dân).
"Bui có một lòng trung lẫn hiếu
Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen"
(Thuận hứng - 24)
"Bui một tấc lòng ưu ái cũ,
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều Đông"
(Thuật hứng - 5)
b) Văn thơ Nguyễn Trãi thể hiện tình yêu thắm thiết đối với thiên nhiên, đối với quê
hương, gia đình.
- Yêu thiên nhiên:
+ Yêu cây cỏ hoa lá, trăng nước mây trời, chim muông
"Hái cúc ương lan, hương bén áo
Tìm mai, đạt nguyệt, tuyết xâm khăn"
"Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc
Thuyền chở yên hà nặng vạy then"
"Cò nằm, hạc lẩn nên bầy bạn
Ủ ấp cùng ta làm cái con"
+ Yêu quê hương gia đình:
" Ngỏ cửa nho, chờ khách đến
Trồng cây đức, để con ăn"
"Nợ cũ chước nào báo bổ
Ơn thầy ơn chúa liễn ơn cha"
"Quê cũ nhà ta thiếu của nào
Rau trong nội, cá trong ao"
+ Yêu danh lam thắng cảnh.
"Muôn hàng giáo ngọc tre gài cửa
Bao dải tua châu đá rủ mành"
(Đề chùa Hoa yên, núi Yên Tử)
"Một vùng biếc sẫm gương lồng bóng,
Muôn hộc xanh om tóc mượt màu"
(Vân Đồn)
"K ình ngạc băm vằm non mấy khúc
Giáp gươm chìm gẫy bãi bao tầng"
(Cửa biển Bạch Đằng)
c) Một cuộc đời thanh bạch, một tâm hồn thanh cao.
"Một tầm lòng son ngời lửa luyện.
Mười năm thanh chức ngọc hồ băng"
"Nước biển non xanh thuyền gối bãi
Đêm thanh nguyệt bạc khách lên lầu".
"Say minh nguyệt, chè ba chén
Thú thanh phong, lều một gian "
"Sách một hai phiên làm bậu bạn.
Rượu năm ba chén đổi công danh"
3. Nghệ thuật
- Văn chính luận như "Bình Ngô Đại Cáo" thì hùng hồn, đanh thép, sắc sảo, đúng là tiếng
nói của một dân tộc chiến
thắng, một đất nước có nền văn hiến lâu đời.
- Thơ chữ Hán hàm súc, tinh luyện, thâm trầm. Thơ chữ Nôm bình dị mà tài hoa, thiết tha
đằm thắm. Thơ thất ngôn xen
lục ngôn là một dấu ấn kì lạ của nền thơ chữ Nôm dân tộc.
Nguyễn Trãi là anh hùng dân tộc, nhà văn hoá vĩ đại, là đại thi hào dân tộc. Nguyễn Trãi
còn là ông tiên ở trong lầu ngọc
mà tâm hồn lộng gió thời đại. Cuộc đời và thơ văn Nguyễn Trãi là bài ca yêu nước, tự hào
dân tộc.
Bình Ngô đại cáo
Nguyễn Trãi
I. Xuất xứ.
Năm 1407, giặc Minh xâm lăng nước ta. Năm 1417, tại núi rừng Lam Sơn, Thanh Hoá,
Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa xưng là
Bình Định Vương. Trải qua mười năm kháng chiến vô cùng gian lao và anh dũng, nhân
dân ta quét sạch giặc Minh ra khỏi bờ
cõi. Mùa xuân năm 1428 thay lời Lê Lợi, Nguyễn Trãi thảo "Bình Ngô Đại cáo". Nó là một
luận văn chính trị, quân sự,
đồng thời là áng "thiên cổ hùng văn"
II. Chủ đề
"Bình Ngô đại cáo" khẳng định sức mạnh nhân nghĩa Đại Việt căm thù lên án tội ác ghê
tởm của quân "cuồng Minh", ca
ngợi những chiến công oanh liệt thuở "Bình Ngô", tuyên bố đất nươc Đại Việt bước vào kỷ
nguyên mới độc lập, thái bình bền
vững muôn thuở.
III. Phân tích
1. Đại Việt là một đất nước có truyền thống nhân nghĩa cao đẹp
a) Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn nêu cao ngọn cờ nhân nghĩa, đem "quân điếu phạt" để tiêu
diệt quân cường bạo, vì độc lập
của nước, vì sự yên vui hạnh phúc của nhân dân:
"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo"
b) Nguồn gốc của nhân nghĩa Đại Việt là nền văn hiến lâu đời. Đâu phải "N am man" là
"man di mọi rợ". Như bọn
hoàng đế phương Bắc thường láo xược phán truyền. Trái lại, Đại Việt là một quốc gia "vốn
xưng nền văn hiễn đã lâu". Nền
văn hiến ấp hợp thành bởi các nhân tố:
- Có núi sông bờ cõi "đã chia", đã " định phận tại Thiên thư".
- Có thuần phong mĩ tục.
- Có nền độc lập vững bền: "Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập", "hùng cứ một
phương".
- Lắm nhân tài hào kiệt.
- Có truyền thống anh hùng chống ngoại xâm, có những trang sử vàng chói lọi từng làm
cho "Lưu Cung thất bại", "Triệu
Tiết tiêu vong", "bắt sống Toa Đô", "giết tươi Ô mã".
2. "Bình Ngô đại cáo" là bản cáo trạng đanh thép, đầy căm thù tội ác quân "cuồng
Minh". Tác giả đứng trên
quan điểm nhân nghĩa mà lên án quân xâm lược
- Giặc Minh tàn sát dã man nhân dân ta:
"Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ dưới hầm tai vạ"
- Tàn phá môi trường môi sinh, bóc lột vơ vét thậm tệ:
"Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
Nặng thuế khoá sạch không đầm núi"
- Bắt dân ta xuống bể mò ngọc trai, lên rừng bẫy hươu đen gây ra bao thảm cảnh. Bọn
thái thú, bọn tướng tá Thiên triều
như một lũ quỷ khát máu vô cùng ghê tởm: "Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no
nê chưa chán!".
Tội ác của giặc Minh chồng chất như núi, đầy mưu mô xảo quyệt "dối trời, lừa dân gây
binh, kết oán". Một cách nói thâm
xưng đầy căm thù, ám ảnh:
"Dơ bẩn thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Độc ác thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!
Lẽ nào trời đất dung tha
Ai bảo thần dân chịu được?"
Từ xưa tới nay, chưa có nhà văn nào viết cụ thể mà khái quát tội ác xâm lược đối với
nhân dân ta như Nguyễn Trãi.
3. Nguồn sức mạnh nhân nghĩa Đại Việt
a. Lãnh tụ nghĩa quân là một anh hung xuất chúng:
"Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.
( ) Thế trận xuất kì, lấy yếu chống mạnh,
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều".
b. Sức mạnh của lòng căm thù giặc và tinh thần đại đoàn kết dân tộc để chiến thắng
quân xâm lược:
- “Ngẫm thù lớn há đội trời chung,
Căm giặc nước thề không cùng sống"
- "Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới,
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào".
4. Quá trình phản công và toàn thắng
a. Nguồn gốc của chiến thắng là sức mạnh nhân nghĩa:
"Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,
Lấy trí nhân để thay cường bạo"
b. Trận đầu thắng lớn, giáng sấm sét vào đầu lũ xâm lăng:
"Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay"
c. Giải phóng miền rộng lớn đất nước:
"Thừa thắng ruổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,
Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về".
d. Quân ta càng đánh càng thắng to. Giặc Minh bị giáng những đòn chí mạng! Máu giặc
chảy thành sông thây
chết đầy nội.
"N inh K iều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm
Tụy Động thây chết đầy nội, nhơ để ngàn năm".
e. Viện binh giặc bị tiêu diệt: Liễu Thăng "cụt đầu", bá tước Lương Minh "đại bại từ
vong", thượng thư Lý Khánh cùng
kế tự vẫn, Đô đốc "Thôi Tụ" lê gối dâng tờ tạ tội, thượng thư Hoàng Phúc "trói tay để tự xin
hàng". Cánh quân Vân Nam bị
đánh "vỡ mật", quân Mộc Thạnh "xéo lên nhau để chạy thoát thân". Cảnh tượng chiến
trường vô cùng rùng rợn, thảm đạm:
"Lạng Giang, Lạng Sơn thây chất đầy đường,
Xương Giáng, Bình Than máu hôi đỏ
Suối Lãnh Câu máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc,
Thành Đan Xá thây chất đầy núi cỏ nội đầm đìa máu đen"
f. Giặc Minh bị hoàn toàn thất bại thảm hại. Viện binh "hai đạo tan tành"; Quân giặc các
thành "cởi giáp ra hàng”. Lũ
tướng tá Thiên triều và hàng chục vạn giặc bị bắt làm tù binh, hoặc đầu hàng đã bị tha tội
chết, được đối xử nhân đạo:
"Mã Kì, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến bể mà vẫn hồn bay phách
lạc.
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa về đến nước mà vẫn tim đập chân run.”
- Quá trình phản công là một quá trình vươn dậy của cả dân tộc với sức mạnh vỡ bờ, bất
khả chiến thắng. Ngôn ngữ tráng
lệ, giọng văn mang âm điệu anh hùng ca:
" Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,
Voi uống nước, nước sông cũng cạn,
Đánh một trận, sạch không kình ngạc,
Đánh hai trận, tan tác chim muông "