Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Luận văn: Lịch sử kiển thức Việt Nam potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (539.08 KB, 26 trang )

GVHD: Trần Đức Quang Lịch sử kiến trúc Việt Nam
Luận văn: Lịch
sử kiển thức
Việt Nam
SVTH: Trương Quang Phương lớp: 08cvhh Trang: 1
GVHD: Trần Đức Quang Lịch sử kiến trúc Việt Nam
MỤC LỤC
Luận văn: Lịch sử kiển thức Việt Nam 1
MỤC LỤC 2
1.Giới thiệu đối tượng nghiên cứu 3
2.Địa điểm 3
3.Niên đại, lịch sử hình thành và phát triển 3
4.Mục đích xây dựng, chức năng sử dụng 4
1.4. Đặc điểm kiến trúc 5
1.4.1. Cách thức tổ chức mặt bằng 5
1.4.2. Cách thức tổ chức mặt đứng 11
1.4.3. Hệ kết cấu 14
1.4.4. Cách thức sử dụng vật liệu 14
1.5. Trang trí, màu sắc 15
Ý nghĩa văn hóa 16
Những truyền thuyết liên hệ đến sự ra đời của công trình 16
Những truyền thuyết liên hệ đến sự liên hệ đến các đối tượng được thờ tự, người xây dựng công
trình 17
SVTH: Trương Quang Phương lớp: 08cvhh Trang: 2
GVHD: Trần Đức Quang Lịch sử kiến trúc Việt Nam
1. Giới thiệu đối tượng nghiên cứu
2. Địa điểm
Chùa Keo thuộc xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Từ thành phố
Nam Định, qua cầu Tân Đệ, rẽ phải, theo đê sông Hồng, đi khoảng 10km là đến
chùa. Nằm ở chân đê sông Hồng giữa vùng đồng bằng, chùa Keo với gác chuông
như một hoa sen vươn lên giữa biển lúa xanh rờn.


3. Niên đại, lịch sử hình thành và phát triển
Căn cứ vào hai tấm bia đá thì chùa Keo ban đầu có tên là Thần Quang và có xuất
xứ liên quan đến chùa Nghiêm Quang do thiền sư Không Lộ làm năm 1061 tại làng
Giao Thủy- Nam Định, văn bia ghi lại như sau: “Nghiêm Quang Tự làm năm Tân
Sửu (1061) đời vua Lý Thánh Tông. Năm 1167 vua Lý Anh Tông ban chiếu sửa
chùa và đổi tên thành Thần Quang Tự”. Mô tả quang cảnh chùa Thần Quang thời
Lý ở ấp Giao Thủy văn bia còn ghi lại: “nơi thờ Phật nước Nam đâu đâu cũng có,
nhưng chỉ có chùa Thần Quang ở vùng Dũng Nhuệ, làng Giao Thủy (tên nôm là
làng Keo) là nơi danh thắng bậc nhất từ Bắc tới Nam:
Phía chu tước (trước) dòng Xà Giang chầu vào bao la vạn khoảnh. Phía huyền vũ
(sau) sông Hoàng Giang vòng lại mênh mông ngàn tầm. Bể Nam Hải uốn quanh
từng khúc phô hình giải lụa xanh lam. Dây rừng cây tua tủa vươn cao như búi tóc
mây sắc lục. Thật là một cõi Tây Trúc trong chốn Tùy Lâm vậy. Nào ngờ, nước
sông lũ lụt tràn đầy, đến nỗi ngôi chùa trôi dạt”.
Nhất định phải có người đại phúc đại đức, kết hợp với đại nhân duyên, đại lực
lượng mới có thể xây dựng lại được.
Căn cứ vào văn bia chùa Keo thì chùa Keo do một vị quan lớn thời Lê- Trịnh
đứng ra khởi công xây dựng lại, đó là quận công Hoàng Nhân Dũng ở làng Tứ
Quán, phủ Hải Thanh. Vì lúc bấy giờ đang có cuộc nội chiến Trịnh- Nguyễn nên
chúa Trịnh chỉ cấp cho nhà chùa 100 cây gỗ lim còn tất cả vật liệu khác đều do
SVTH: Trương Quang Phương lớp: 08cvhh Trang: 3
GVHD: Trần Đức Quang Lịch sử kiến trúc Việt Nam
nhân dân tự đóng góp lên cả. Chính và vậy Hoàng Nhân Dũng đã phải mất 19 năm
ròng đi vận động quyên góp (1611-1630), đến tháng 7/1630 ông đã mời được 42
hiệp thợ và khởi công công trình. Chỉ trong vòng 28 tháng toàn bộ công trình đã
được khánh thành (11/1632). Trải qua gần 400 năm tồn tại, nhưng những công
trình chính của chùa Keo như: tam quan, chùa Phật, gác chuông, v.v… vẫn còn gần
như nguyên vẹn từ thời Lê Trung Hưng đến nay. Nó đã trở thành nét kiến trúc độc
đáo góp phần làm phong phú hơn trong cơ cấu kiến trúc của Việt Nam.
4. Mục đích xây dựng, chức năng sử dụng


Tín ngưỡng và nghi lễ tế thần trong lễ hội chùa Keo
Mỗi ngôi chùa được xây dựng nên đều có những mục đích khác nhau, nhưng
tất cả đều có đặc điểm chung đó là nơi để thờ tự và đưa con người trở về nơi thanh
tịnh nhất của cuộc sống trần tục. Mọi người đến với chùa không có một chút gì
ngăn cách về tinh thần, bắt đầu từ thể thức và mực thước của kiến trúc gợi nên vẻ
đẹp uyên nhã, khơi dậy những tình cảm vuông tròn như trong nếp nghĩ và sự cầu
mong của người nông dân Việt Nam là luôn luôn được mưa thuận gió hòa, là cuộc
sống sinh sôi nảy nở mẹ tròn con vuông, là sự sinh tồn lấy lẽ bao dung và đùm bọc
SVTH: Trương Quang Phương lớp: 08cvhh Trang: 4
GVHD: Trần Đức Quang Lịch sử kiến trúc Việt Nam
làm thước đo chân lý. Bên cạnh đó chùa keo được xây dựng cũng là để mọi người
có một chốn thiền bao la trong suy tưởng cốt tìm đến trí và tuệ để giải thoát cuộc
đời bể khổ của con người mà họ phải gánh chịu trong đời thường.
Hơn nữa chùa được xây dựng nên cũng là để tạo ra những truyền thống văn
hóa của người việt với những hội hè, đình đám…và các nghi lễ, là nơi hội tụ nên
các giá trị văn hóa cho tỉnh thái bình nói riêng và cho nền văn hóa việt nam nói
chung.
1.4. Đặc điểm kiến trúc
1.4.1. Cách thức tổ chức mặt bằng
Quần thể kiến trúc chùa keo được thiết kế theo kiểu “ Nội công ngoại quốc". đi
qua một sân lát đá, tam quan ngoại, hồ sen, tam quan nội với bộ cánh cửa chạm
rồng chầu (thế kỷ 16). Sau đó là chùa thờ Phật, gồm ba ngôi nhà nối vào nhau.
Trong cùng là tòa gác chuông, nhà tổ và khu tăng xá. Toàn cảnh chùa Keo xây
dựng thời đó gồm 21 công trình với 157 gian.
SVTH: Trương Quang Phương lớp: 08cvhh Trang: 5
GVHD: Trần Đức Quang Lịch sử kiến trúc Việt Nam
SVTH: Trương Quang Phương lớp: 08cvhh Trang: 6
GVHD: Trần Đức Quang Lịch sử kiến trúc Việt Nam
Hiện nay chùa Keo còn 17 công trình với 128 gian. Đó là các công trình kiến

trúc chính như: chùa Phật, điện Thánh, gác chuông, hành lang và khu tăng xá,
vườn tháp Chùa xây dựng trên một vùng đất rộng 100.000 mét vuông, dài từ chân
đê đến con ngòi của thôn Bồng Tiên, gồm nhiều cụm kiến trúc xếp theo một trục
dài cao thấp khác nhau, kiến tạo nhiều lớp nhiều tầng. Vào chùa qua Tam quan
ngoài, Tam quan trong gồm 3 lối đi, nhưng nó không thuần túy chỉ là cái cửa ra
vào, mà nhiều tam quan còn là những kiệt tác kiến trúc. Hệ thống tam quan chùa
Keo được chia thành hai hệ thống: Tam quan ngoại và tam quan nội. Từ mặt đê
theo bậc tam cấp đi xuống, qua một khoảng sân rộng sẽ đến Tam Quan Ngoại. Đây
là một ngôi nhà ba gian không có tường bao, không có cửa. Toàn bộ hệ thống công
trình được nâng đỡ bởi 4 hàng cột gỗ lim vững chắc, nó tạo nên một không gian
SVTH: Trương Quang Phương lớp: 08cvhh Trang: 7
GVHD: Trần Đức Quang Lịch sử kiến trúc Việt Nam
mở, thoáng mát để du khách nghỉ chân trước khi vào lễ chùa. Quần thể kiến trúc
bên trong chùa được thiết kế theo kiểu “nội nhị công, ngoại nhất quốc”.Khu thờ
Phật có 3 tòa nhà: tòa Ông Hộ và tòa Tam Bảo nối với nhau qua tòa Ông Muống
thành chữ công (I) thứ nhất (theo chữ Hán).Khu đền Thánh có 3 tòa: tòa Thiêu
Hương và tòa Thượng Điện nối với nhau qua tòa Phụ Quốc tạo thành chữa Công
(I) thứ hai.Hai dãy hành lang mỗi bên 33 gian nối qua hai tòa tả vu, hữu vu – gác
chuông và Tam Quan Nội thành ô chữ Quốc bao bọc bên ngoài. Mỗi chữ Công thờ
một thân chủ, chữ Công phía trước thờ Phật, chữ Công phía sau thờ Thiền sư
Dương Không Lộ. Đó cũng là lối kiến trúc “Tiền Phật hậu Thánh”.Trong khu thờ
Phật thì tòa Ông Hộ có 7 gian với tổng chiều dài 24m, rộng 6m. Người Hy Lạp xưa
khi xây dựng các ngôi đền từ quan niệm các vị thần không tách biệt với đời đã lựa
chọn độ hài hòa, có tỷ lệ không to quá, không nhỏ quá, giữ được nét thăng bằng
giữa tính uy nghi và sự gần gũi. Mọi người đến với chùa không có một chút gì
ngăn cách về tinh thần, bắt đầu từ thể thức và mực thước của kiến trúc gợi nên vẻ
đẹp uyên nhã, khơi dậy những tình cảm vuông tròn như trong nếp nghĩ và sự cầu
mong của người nông dân Việt Nam là luôn luôn được mưa thuận gió hòa, là cuộc
sống sinh sôi nảy nở mẹ tròn con vuông, là sự sinh tồn lấy lẽ bao dung và đùm bọc
chùa Keo đã mạnh dạn sử dụng mặt nước rộng ở cả 3 mặt trước và hai bên để thế

chùa vừa mở rộng, vừa vươn cao trong ảo giác để hình bóng dáng chùa lẩn dần vào
chiều sâu mặt nước, khiến cái ranh giới cụ thể nhằm đáp ứng tinh thần kín như văn
bia Thần Quang Tự đã ghi: "Ngăn che khách trụ ghé nhòm" được xóa mờ với cảm
giác bao la trong tâm tưởng khi muốn vươn tới chốn thiền. Ngoài cái sâu lắng
trong tình cảm thẩm mỹ thì thực tại mặt nước soi bóng những hàng cây cổ thụ, bên
nếp chùa có dáng thuyền rồng có những đường cong bờ nóc, như mãi lưu lại những
vầng trăng khuyết là một thực tại cảnh quan như một nhà thơ về thăm chùa đã
viết:"Rõ là cảnh đấy, người đây Chùa Keo ơi nước non nào nên duyên"Cũng giống
như các chùa làng khác, bên ngoài là chữ Quốc, bao bọc bởi hai dãy hành lang bên
SVTH: Trương Quang Phương lớp: 08cvhh Trang: 8
GVHD: Trần Đức Quang Lịch sử kiến trúc Việt Nam
tả, bên hữu gồm 42 gian, phía nước là hai cổng vào tòa nhà Hộ, phía sau là nhà thờ
Tổ và gác chuông. Bên trong là chữ Công, nhưng là chữ Công kép vì chùa thờ tiền
Phật hậu Thánh. Cụm kiến trúc chữ Công phía trước là nơi thờ Phật còn cụm kiến
trúc chữ Công phía sau là thờ Thánh Không Lộ. Không Lộ là người đã đi tu và
khởi đầu xây dựng chùa từ thời Lý thế kỷ thứ 11. Giữa hai cụm kiến trúc thờ Phật,
thờ Thánh có tòa Giá Roi. Tòa nhà này trang trí không nhiều nhưng có cấu trúc
đơn giản, hợp lý, có độ dựng thẩm mỹ được tính toán từ những hài hòa của tỷ
lệ. làm thước đo chân lý. , trong nguyên tắc bố trí mặt bằng theo nhịp điệu thay đổi
đúng mức, chỗ thì mở ra, chỗ thu hẹp vào rồi lại mở ra, tạo độ sâu trong không
gian ngôi chùa, thu hút sự chú ý đến liên tục, gợi tạo sự phong phú của nội thất.
Mặt bằng bên trong của ngôi chùa vẫn trong khiêm tốn về kích thước. Người Việt
xưa trong những công trình kiến trúc của mình thường không ưa vẻ đồ sộ nhưng
kiến trúc không nghèo nàn, vẫn dẫn ta từ không gian này đến không gian khác. Sự
dãn cách của các công trình đã đạt được mục đích cố tình của nghệ thuật tổ chức
không gian, làm không gian trong chùa không những có nhiều khu mà còn gợi ra
khoảng không gian có nhịp điệu nhạc tính khi thưởng ngoạn.
SVTH: Trương Quang Phương lớp: 08cvhh Trang: 9
GVHD: Trần Đức Quang Lịch sử kiến trúc Việt Nam
SVTH: Trương Quang Phương lớp: 08cvhh Trang: 10

GVHD: Trần Đức Quang Lịch sử kiến trúc Việt Nam
1.4.2. Cách thức tổ chức mặt đứng
Thoạt đầu đứng từ bên ngoài nhìn thì đây là một ngôi nhà ba gian, có hiên có
cửa đàng hoàng, nhưng khi lên hiên thì thấy ngôi nhà này chỉ có ba hàng cột, toàn
bộ cánh cửa, ngưỡng cửa lắp vào hàng cột cái, hàng cột cái này lại chọi thẳng vào
SVTH: Trương Quang Phương lớp: 08cvhh Trang: 11
GVHD: Trần Đức Quang Lịch sử kiến trúc Việt Nam
nóc nhà. Đằng trước và đằng sau chỉ còn một hàng cột, hàng cột này vừa là cột
hiên cũng vừa là cột quân. Vì vậy mà không có long, nhìn phía nào cũng chỉ thấy
cửa, thấy hiên. Đó chính là lối kiến trúc theo thuyết “sắc sắc không không” của đạo
Phật.
Khu thờ Phật có 3 tòa nhà: tòa Ông Hộ và tòa Tam Bảo nối với nhau qua tòa
Ông Muống thành chữ công (I) thứ nhất (theo chữ Hán).Khu đền Thánh có 3 tòa:
tòa Thiêu Hương và tòa Thượng Điện nối với nhau qua tòa Phụ Quốc tạo thành
chữa Công (I) thứ hai. từ mặt nền lên đến bờ nóc cao hơn 11m, được cấu trúc 3
tầng mái tạo dáng hài hòa to đẹp. Khung chịu lực chính là 4 cột lớn cao 5m, đường
kính 0,6m đặt trên 4 tảng đá lớn chạm cánh sen thắt cổ đồng. Mỗi góc dựng một
cột góc và hai cột hiên, liên kết bằng hệ thống xà ngang, xà nách, kẻ góc tạo thành
khung gánh lực vững chắc. Mỗi tầng trên thu lại so với tầng dưới là 0,4m. Liên kết
với tầng dưới qua hệ xà dầm. Riêng tầng 3 thu lại nhỏ hơn, không có cột thông
xuống thềm tầng dưới. Các dàn đấu ăn mộng thước thợ với dầm tầng hai. Mộng
đấu định vị mặt bằng tầng 3 tải trọng bộ mái tầng này. Mái tầng 3 khác với mái 2
tầng dưới, mái được làm dốc hơn, chiều dài phía trên của mái ngắn hơn chiều dốc.
SVTH: Trương Quang Phương lớp: 08cvhh Trang: 12
GVHD: Trần Đức Quang Lịch sử kiến trúc Việt Nam


Mặt cắt gác chuông chùa keo
SVTH: Trương Quang Phương lớp: 08cvhh Trang: 13
GVHD: Trần Đức Quang Lịch sử kiến trúc Việt Nam

Từ trên cao nhìn xuống, gác chuông chùa Keo trông giống như mái nhà
Rông của đồng bào dân tộc Tây Nguyên. Cấu trúc các tầng nhẹ nhàng, khỏe đẹp.
Dưới hệ thống tàu mái của mỗi tầng xếp 84 cánh rui bay thành 3 tầng, 28 cum lớn
liên kết với nhau bằng những thanh xà mảnh như dàn cánh tay đỡ mái. Hệ thống
dàn rui bay này được được đặt trên dàn đấu củng đối trọng vào bên trong qua 3
hàng tay đòn thẳng gối tựa xà lách. Ba quả chuông đồng nặng gần 2 tấn treo chính
tâm gác chuông cùng sức nặng của dàn mái tạo lực trọng trường kéo các mộng
luôn gắn kết chặt với nhau tạo thế vững chắc cho gác chuông.Nhờ tỉ lệ giữa các
tầng cân đối, độ thu trả vừa phải giữa các tầng hiên, tầng mái, cự ly giãn cách giữa
các cột chuẩn xác khỏe về lực, đẹp về dáng.
1.4.3. Hệ kết cấu
Đây là một ngôi nhà ba gian không có tường bao,. Toàn bộ hệ thống công trình
được nâng đỡ bởi 4 hàng cột gỗ lim vững chắc, nó tạo nên một có ba hàng cột, toàn
bộ cánh cửa, ngưỡng cửa lắp vào hàng cột cái, hàng cột cái này lại chọi thẳng vào
nóc nhà. Đằng trước và đằng sau chỉ còn một hàng cột, hàng cột này vừa là cột
hiên cũng vừa là cột quân. Vì vậy mà không có long, nhìn phía nào cũng chỉ thấy
cửa, thấy hiên. Đó chính là lối kiến trúc theo thuyết “sắc sắc không không” của đạo
Phật, không gian mở.
1.4.4. Cách thức sử dụng vật liệu
Được xây dựng dưới thời kì phát triển cực thịnh của Phật giáo (thời Lý –
Trần), chùa Keo Thái Bình được đánh giá là “một kiệt tác nghệ thuật bằng gỗ, tiêu
biểu cho kiến trúc cổ Việt Nam thế kỉ XVII. Bởi toàn bộ công trình đa phần đều
được sử dụng bằng gỗ lim, bên cạnh đó cũng được sử dụng thêm vật liệu bằng cát,
vữa và gạch, dùng để xây các khu nhà ở và tường bao, nền nhà…nói chung là tất
cả những vật liệu này đều được sử dụng một các triệt để và tận dụng hết, dưới bàn
SVTH: Trương Quang Phương lớp: 08cvhh Trang: 14
GVHD: Trần Đức Quang Lịch sử kiến trúc Việt Nam
tay và con mắt thẩm mỹ của các nhà kiến trúc, điêu khắc thì những vật liệu ấy đã
tạo nên một chùa keo rất độc đáo và tiêu biểu.
1.5. Trang trí, màu sắc

Chùa keo là một ngôi chùa độc đáo nên được trang trí và phối màu rất công
phu, mỗi nơi trong chùa lại được trang trí theo một kiểu riêng,từ đó đã tạo nên sự
khác lại của ngôi chùa này với tất cả những ngôi chùa khác. Đặc biệt bộ cánh cửa
gian giữa Tam Quan, khi khép lại tạo thành một bức phù điêu hoàn chỉnh, chạm đề
tài “lưỡng long mẫu tử chầu nguyệt”. Chính giữa hai cánh cửa chạm một mặt
nguyệt lớn, mỗi bên cánh cửa chạm một con rồng mẹ và một con rồng con, phía
góc dưới chạm con nghê con tất cả đều đang hướng về mặt nguyệt.
Bên cạnh đó Sự hài hòa còn được người nghệ nhân thể hiện ở chỗ: trên phiếm
gỗ lim với độ chạm sâu không quá 3cm mà người nghệ nhân vẫn thể hiện rất chuẩn
xác luật xa gần, tối sáng của nghệ thuật chạm trổ truyền thống. Thân rồng khúc ẩn
khúc hiện, bầy rồng con xa con gần, quyện lấy nhau. Rồng mẹ đầu tóc dữ dội, thân
uốn nhiều lần, rồng con dáng vẻ thảnh thơi núp sau bóng mẹ. Toàn bộ môi, râu,
bờm rồng dường như bốc lửa. Mây ám thân rồng, chỗ bốc lên thành mây lửa, chỗ
chúc xuống thành rừng giáo mác, thân rồng chìm trong biển lửa cháy rực. Đường
chạm sắc sảo, nét khắc tinh vi, bố cục chặt chẽ khiến các con linh vật vốn không có
thật trở nên sống động lạ thường.
Trong khu thờ phật thì hệ thống chắn gió chỗ chạm rồng quỳ, chỗ chạm long
ẩn, long ám, long quần. Rồng bay trên mây, rồng vui cùng nghê sấu. Nhiều tấm
chắn gió chạm hoa văn sóng nước cuốn thành hoa dây, song cuốn thành hoa cúc,
hoa sen, thành hình con Dơi theo kiểu “Ngũ phúc lâm môn” cách điệu. Các đầu dư
bẩy, kẻ đều chạm rồng, những đầu rồng to khỏe, mắt tròn trợn ngược, nanh sắc như
mác, miệng ngậm viên ngọc, râu bện vào nhau, tóc bờm vút về sau như thế rồng
bay. So với những con rồng thời Nguyễn thì những con rồng thời Lê Trung Hưng
SVTH: Trương Quang Phương lớp: 08cvhh Trang: 15
GVHD: Trần Đức Quang Lịch sử kiến trúc Việt Nam
lúc bấy giờ không có độ mềm mại, tinh xảo bằng. Nhưng nó cũng đã thể hiện được
nét tư duy rất độc đáo của các nhà kiến trúc xưa. Và đi tiếp đến đèn thờ thánh, ta
thấy trên bờ nóc chỗ trổ chìm, chỗ đắp nổi hoa chanh, bờ cánh chỗ tỉa chỗ thủng
đường dây hoa thị. Xô hồi kìm nóc khá đẹp. Ngạc long ôm bờ nóc, râu bờm dựng
đứng, nanh nhọn, mắt tròn, đuôi cuộn ngược.

Trong khu đền Thánh, các tảng đá kê chân cột đều chạm cánh sen. Các đầu
củng, chắn phong đều được chạm trổ hết sức công phu. Trên các chắn phong rồng
mẹ dắt díu đàn con vui đùa với thú. Thú cưỡi lưng rồng, thú túm râu rồng, thú đu
trên chum mây lửa.
Đặc biệt, ở đây tất cả các bẩy, kẻ đều có con sơn chống đỡ hai đầu. 42 con
sơn ngoại chạm 42 con rồng với các dáng vẻ khác nhau, chỗ này rồng cuộn 4 vòng,
5 vòng quanh con sơn, chỗ kia rồng tì ngực vào cột dồn hết sức dơ đầu đỡ kẻ. 42
con sơn nội nhỏ hơn nhưng chạm trổ công phu hơn, cái thì chạm rồng bốc lửa đưa
đầu đội bẩy, cái lại chạm rồng đang khom lưng uốn mình cõng đấu hoặc chạm
nghê thần cõng kẻ, đội hoành, đạp đấu với đường chạm nét rất sắc sảo, tinh vi.
Ý nghĩa văn hóa
Những truyền thuyết liên hệ đến sự ra đời của công trình
Chùa Keo được xây dựng theo phong cách kiến trúc thời Lê, nhờ sự vận
động của bà Lại Thị Ngọc, vợ Tuần Thọ Hầu Hoàng Nhân Dũng, và Đông
Cung Vương phi Trịnh Thị Ngọc Thọ.Nhưng lịch sử của ngôi chùa thì có bề
dày đến hơn chín thế kỷ. Theo sách Không Lộ Thiền sư ký ngữ lục, năm 1061,
Không Lộ dựng chùa Nghiêm Quang tại làng Giao Thủy (tên nôm là làng Keo)
bên hữu ngạn sông Hồng. Sau khi Thiền sư Không Lộ qua đời, chùa Nghiêm
Quang được đổi tên là Thần Quang Tự. Theo thời gian, nước sông Hồng xói
mòn dần nền chùa và đến năm 1611, một trận lũ lớn đã cuốn trôi cả làng mạc
lẫn ngôi chùa. Dân làng Keo phải bỏ quê cha đất tổ ra đi: một nửa dời về đông
SVTH: Trương Quang Phương lớp: 08cvhh Trang: 16
GVHD: Trần Đức Quang Lịch sử kiến trúc Việt Nam
nam hữu ngạn sông Hồng, về sau dựng nên chùa Keo - Hành Thiện (nay thuộc
tỉnh Nam Định); một nửa vượt sông đến định cư ở phía đông bắc tả ngạn sông
Hồng, về sau dựng nên chùa Keo - Thái Bình này.
Những truyền thuyết liên hệ đến sự liên hệ đến các đối tượng được
thờ tự, người xây dựng công trình
Ở nước ta có không ít ngôi chùa thờ Thần ngay trong điện thờ Phật theo kiểu
"tiền Phật hậu Thần" như chùa Láng, chùa Thầy, chùa Trăm Gian… đặc biệt khi

những vị thần ấy được tôn làm Thánh thì lễ hội càng trọng thể và hoành tráng hơn.
Chùa keo cũng là một ngôi chùa theo kiểu "tiền Phật hậu Thần" - thờ Thiền sư
Không Lộ
Cuộc đời ông là một bí mật còn truyền lại muôn đời sau. Khi viên tịch,
Thiền sư được đưa xá lợi về thờ ở chùa Nghiêm Quang, sau đổi thành chùa Thần
Quang Tự (chùa Keo ở Vũ Thư - Thái Bình).
Theo Ông Tô Văn Thiện, Viện nghiên cứu Phật giáo Việt Nam cho biết: Theo
sách Trùng san Thần Quang Tự Phật tổ bản hành thiền uyển ngữ lục tập yếu, Thiền
sư Không Lộ đời thứ 9 Thiền phái Vô Ngôn Thông. Sư họ Dương, không biết tên
thật là gì quê ở làng Hải Thanh. Gia đình thiền sư vốn làm nghề chài lưới, đến đời
sư nặng khối tình nhân thế, ông bỏ đi theo đạo phật.
Từ một ngư phủ ông theo Thiền sư Lôi Hà Trạch xuất gia cùng làm bạn với
các thiền sư Giác Hải và Từ Đạo Hạnh. Cũng theo truyền thuyết còn lưu lại trong
dân gian, con đường tu của Thiền sư cũng gian nan lắm. Phong cách sư thoát tục,
ăn mặc thế nào xong thôi, không vướng mắc vật chất thường tình.
Sư tập trung cho việc thiền định. Trải bao năm tu hành, ăn cây mặc cỏ quên
cả thân mình ông đã đắc đạo. Dân gian thành kính, tôn sùng những vị đại sư thời
ấy. Với họ có một pháp thuật huyền bí, hoá giải được mọi tai ương. Sau khi các đại
SVTH: Trương Quang Phương lớp: 08cvhh Trang: 17
GVHD: Trần Đức Quang Lịch sử kiến trúc Việt Nam
sư này cùng phò giúp Lý Công Uẩn lên ngôi vua với những bài kệ (sấm ký) thì
thân thế của thiền sư càng thêm thần kỳ.
Tương truyền, sau khi đắc đạo sư có thể bay lên không trung, hoặc đi trên mặt
nước giống như Sư tổ Đạt Ma. Thiền sư đi vào rừng sâu, núi cao cọp thấy cũng
phải cúi đầu, rông gặp cũng phải nép phục. Những pháp thuật của Thiền sư không
thể đo định được. Chẳng thế mà, như một người nhìn thấy trước tương lai, Thiền
sư cùng với các Thiền sư khác đã nhìn nhận về sự ra đời của vương triều nhà Lý.
ông cũng là biểu tượng cho sự giác ngộ.
Trong một lần gặp Đại đức Thích Thanh Trung ông cất giọng đọc một bài kệ
của Thiền sư để khẳng định sự toả sáng giác ngộ (sự chứng ngộ - theo ngôn từ nhà

Phật). Bằng giọng sang sảng Đại đức cất giọng đọc:
"Trạch đắc long xà địa khả cư
Dã tình chung nhật lạc vô dư
Hữu thời trực thường cô phong đỉnh
Trường khiều nhất thanh hàn thái hư".
Sau này nhà văn Ngô Tất Tố đã dịch bài kệ này như sau:
"Lựa nơi rồng rắn đất ưu người
Cả buổi tình quê những mảnh vui
Có lúc thẳng lên đầu núi thẳm
Một hơi sáo miệng, lạnh bầu trời".
Tôi là người ngoại đạo nên không thể hiểu tư tưởng của Thiền sư. Đại đức cắt
nghĩa bài kệ là con đường tu của vị Thiền sư, đạt đến đỉnh núi của sự giác ngộ.
Ngàn năm sau, đọc bài kệ cảm khái của Thiền sư Không Lộ tăng giới vẫn còn cảm
khái. Vượt thẳng lên đỉnh núi cao cô quạnh Thiền sư là biểu tượng sự chứng ngộ,
chân lý giải thoát, đỉnh cao của giác ngộ.
SVTH: Trương Quang Phương lớp: 08cvhh Trang: 18
GVHD: Trần Đức Quang Lịch sử kiến trúc Việt Nam
Chứng ngộ thiền là sự chứng ngộ nội tâm mình, người tu thiền phải tự tin ở
chính mình, tự đốt đuốc soi lối tìm đường mà đi và kiên định con đường mình đã
chọn để tìm ra chân lý, đạt đến giác ngộ.
Từ chứng ngộ được Phật tính mà người tu thiền phải vượt qua để đạt đến ngã
không, nhân không, vật không. Khi đã đến đỉnh cao của sự chứng ngộ thì cái bản
thể nhỏ bé của mình đã hoà đồng vào vạn vật, trở thành một tế bào của vũ trụ
"Từ trên đỉnh cô phong giữa cõi thái hư âm u, lạnh lẽo ấy Thiền sư đã cất tiếng kêu
ngân dài trong trạng thái sảng khoái, tâm chứng ngộ Phật pháp giữa hư không
mênh mông, tịch mịch ấy đã vang vọng, sưởi nồng biết bao sinh linh của mọi vật
và con người hiệu hữu tạm thời ở cõi vô thường này", ông Tô Văn Thiện khẳng
định.
Sử sách còn ghi lại, ngày 3 tháng 6 năm Hộ Trường Khánh thứ 10 (1119) đời
Lý Nhân Tông, Thiền sư Không Lộ viên tịch.

Theo các sư tăng thời nay, khi ấy môn đồ của Thiền sư đã làm lễ hoả táng,
thu xá lợi Phật, xây tháp thờ ở trước chùa Nghiêm Quang là nơi sư trụ trì. Tuy
nhiên, cũng có một truyền thuyết dân gian còn được lưu lại nơi chùa Keo (Vũ Thư
- Thái Bình) kể rằng trước khi viên tịch, Ngài hóa thành khúc gỗ trầm hương, lấy
áo đắp lên và khúc gỗ biến thành tượng. Thánh tượng ngày nay còn lưu giữ trong
hậu cung quanh năm khóa kín cửa. Cứ 12 năm một lần, làng Keo lại cử ra một
người hội chủ và bốn viên chấp sự để làm lễ trang hoàng tượng Thánh.
Những người này phải ăn chay, mặc quần áo mới, họ rước thánh tượng từ
cấm cung ra rồi dùng nước dừa pha tinh bưởi để tắm và tô son lại cho tượng
Thánh. Công việc này phải làm theo một nghi thức được quy định rất nghiêm ngặt,
những người chấp sự phải tuyệt đối giữ kín những gì đã thấy trong khi trang hoàng
tượng Thánh.
Theo sách Không Lộ Thiền sư ký ngữ lục, năm 1061, Không Lộ dựng chùa
Nghiêm Quang tại làng Giao Thủy (tên nôm là làng Keo) bên hữu ngạn sông
SVTH: Trương Quang Phương lớp: 08cvhh Trang: 19
GVHD: Trần Đức Quang Lịch sử kiến trúc Việt Nam
Hồng. Sau khi Thiền sư Không Lộ qua đời, chùa Nghiêm Quang được đổi tên là
Thần Quang Tự.
Đứng soi mình xuống hồ nước phẳng lặng giữa một không gian thoáng đãng,
chùa Keo không chỉ lưu giữ nhiều di vật quý giá mà còn chứa đựng những điều
huyền bí gắn liền với cuộc đời Thiền sư Không Lộ. Nơi đây, vẫn còn những đồ thờ
quý giá tương truyền là đồ dùng của Thiền sư như một bộ tràng hạt bằng ngà, một
bình vôi to và ba vỏ ốc lóng lánh như dát vàng mà người ta kể lại rằng chính do
Không Lộ nhặt được thuở còn làm nghề đánh cá và giữ làm chén uống nước trong
những năm tháng tu hành. Ngàn năm đã trôi qua, dấu tích của Thiền sư Không Lộ
vẫn còn lưu lại tại ngôi chùa khi xưa sư trụ trì.
Nhiều vị cao tăng ngày nay khẳng định, Thiền sư đã để lại cho hậu thế một
tấm lòng bao dung vị tha, dùng ngôn ngữ của bậc giác ngộ để chuyển hoá tâm thức
chúng sinh.
1.5.1. Ý nghĩa của các hình thức kiến trúc trang trí…

Chùa keo Thái Bình mặc dầu có tới hai tam quan: tam quan ngoại và tam quan
nội, nhưng kiến trúc các tam quan này chỉ được thiết kế theo dạng thông thường
còn các họa tiết chạm rồng chỉ nhìn thấy trên các thành phần kiến trúc gỗ, bộ đôi
cánh cửa thì hoàn toàn để trơn, không có chạm khắc.
Có thể nói, bộ cửa gỗ chạm rồng của chùa Keo Thái Bình đã ghi nhận một dấu
tích nghệ thuật đặc sắc của thời Lê Trung Hưng. Mỗi cánh cửa cao 2m, rộng 2,6m,
dài 1,2m với bốn dìa cánh không chạm hoa văn, coi như làm khung cho cả bức
chạm công phu. Trung tâm của bức chạm này là một đôi rồng, mà khi khép hai
cánh cửa lại, thì chúng cùng chầu vào một mặt trời ở giữa. Hình tượng rồng với
khuôn mặt dữ tợn, dáng dấp khỏe mạnh, uy nghiêm không được bố cục tách biệt
mà lẩn dưới làn văn mây, quyện với các hình mây đao cách điệu từ râu và bờm
rồng, khiến con vật linh thiêng như lúc ẩn lúc hiện trong những nhịp sóng mây
chuyển động. Dưới chân đôi rồng lớn có đôi lân và những hạt ngọc tròn; đối xứng
SVTH: Trương Quang Phương lớp: 08cvhh Trang: 20
GVHD: Trần Đức Quang Lịch sử kiến trúc Việt Nam
hai phía bên trên của bộ cửa còn có đôi rồng nhỏ hơn với thế cuộn mình khá phức
tạp, được chạm tương đối biệt lập, như thể chúng được tạo ra để lấp vào chỗ trống.
Nhưng nhìn kỹ, đôi rồng này đã khiến cho đôi rồng lớn cuộn thành một hình lá đề
lớn chính giữa khuông cửa, phù hợp với tinh thần Phật giáo của ngôi chùa và đồng
thời bức chạm như đã được mở ra những tầng không gian xa gần, cao thấp. Có lẽ
do sự độc đáo duy nhất của bộ của này, nên trong lần trùng tu trong những năm
đầu thế kỷ XX, bộ cửa chùa Keo Thái Bình đã được mang về bảo tàng Mỹ thuật để
bảo quản, còn bộ cửa hiện tại đang dựng ở chùa là một bản sao gần đúng.
Sự xuất hiện của hình tượng rồng ở bộ đôi cánh cửa tam quan không đơn thuần là
để kiến tạo một vẻ đẹp trong kiến trúc mà chúng còn mang một ý nghĩa khác đó là
chứng tỏ đặc ân của ngôi chùa thờ vị thánh có ơn với vua. Bởi lẽ chỉ có những di
tích liên quan đến vua và hoàng tộc thì hình tượng rồng mới được đặt ở một vị trí
quan trọng như vậy. Hơn nữa, mảng chạm rồng trên bộ cửa chùa Keo lại là mảng
chạm lớn nhất trong số những di vật lịch sử còn để lại đến ngày nay. Nếu so sánh
nó với các bộ cửa như chùa Phổ Minh, đền nhà Trần ở cửa cung Trùng Hoa, thì

thấy về kích thước, qui mô và mức độ chạm khắc tinh xảo của bộ cửa Tam quan
chùa Keo có thể được xem là một kiệt tác. Nó cũng đã có những sự kế thừa nhất
định từ bộ cửa chùa Phổ Minh như là lối cuộn hai hình tượng con rồng trung tâm
vào với dạng thức lá đề. Cho dù kế thừa, nhưng cái ý muốn của các nghệ nhân là
tìm đến một sự hòa hợp cho toàn bộ bức chạm đã khiến hệ thống mây đao mác trở
thành nét chính để tăng thêm cho tính chất siêu thực và uy quyền của các con vật
linh được thể hiện ở đây.
Xét riêng về hình tượng rồng, sự biến chuyển của các cấu trúc hình sin kiểu rồng
thời Lý-Trần sang lối cấu trúc tự do hơn thời Lê Trung Hưng đã tạo nên cho biểu
tượng này những dạng thức, ý nghĩa khác. Bờm và râu rồng cũng theo đó mà
không còn giữ điệp khúc dạng hình sin với mục đích tạo nên sự chuyển động thoăn
thoắt, mà thay vào đó là sự hóa mây, hóa đao mác, khiến con rồng thế kỷ XVII tĩnh
SVTH: Trương Quang Phương lớp: 08cvhh Trang: 21
GVHD: Trần Đức Quang Lịch sử kiến trúc Việt Nam
tại hơn nhưng cũng đầy tính thị uy hơn được bộc lộ ra. Thêm vào, giai đoạn này sự
phát triển của đình làng đã khiến cho biểu tượng rồng không còn có nghĩa thuần
túy là tượng trưng cho vua nữa. Nó có thể tượng trưng cho một thế lực phong kiến
nói chung.
Trở lại với hình tượng rồng trên bộ cửa gỗ tam quan chùa Keo, ta cũng có thể
làm sự so sánh đối chiếu với một dạng thức tam quan khác có cùng niên đại thế kỷ
XVII, như tam quan đình So. Cũng là rồng chạm mảng lớn ở tam quan, nhưng rõ
ràng đã có sự “kính nhi viễn chi” khi mảng chạm này chỉ được đặt ở khuông trên
của đôi cánh cửa gỗ, mà không phải chính cánh cửa gỗ được chạm rồng. Điều này
đã cho thấy ý nghĩa rất khác biệt, một đằng là biểu tượng rồng biểu tượng vua
được thể hiện ra ngay chính diện, còn một đằng cũng có thể là biểu tượng rồng -
vua - triều đình hoặc biểu tượng cho nguồn cội được đặt cao hẳn lên, như một sự
tôn kính cần thiết tuân theo các thể thức, nguyên tắc Nho giáo của xã hội phong
kiến xưa kia.
Cuối cùng, với tất cả những lý do này, nên không chỉ bộ đôi cánh cửa tam
quan, mà một số chạm khắc trên các thành phần kiến trúc khác của chùa Keo, hình

tượng rồng cũng được sử dụng khá đa dạng. Trên và dưới mảng cửa con tiện, của
hậu cung thờ thánh Không Lộ, những mảng chạm khắc rồng cũng kiến tạo nên
những vẻ đẹp của khu thờ. Trên hầu hết những con sơn, cột chống của các tòa: Giá
Roi, Phục Quốc, Thiêu Hương, Thượng Điện, con rồng được thể hiện với những
dáng dấp khác nhau: con bay lên, con chúi đầu xuống, có những con đang vờn mây
hay cuốn tròn mình… Những con sơn nội lại được chạm hình con nghê và hoa lá
cách điệu. Kỹ thuật chạm thường là chạm nông, nhấn vào các chi tiết. Các con sơn
cột chống này mặc dầu vốn được dựng với mục đích gia cố sức chịu lực cho các
đầu bẩy, nhưng nay đồng thời lại phục vụ cho mục đích làm đẹp kiến tạo nên vẻ
sinh động, khác biệt cho những công trình kiến trúc ở khu thờ Thánh, so với khu
thờ Phật chùa Keo. ở chi tiết này, thì người ta có thể thấy sự tương đồng trong việc
SVTH: Trương Quang Phương lớp: 08cvhh Trang: 22
GVHD: Trần Đức Quang Lịch sử kiến trúc Việt Nam
trang trí giữa hai ngôi chùa Keo Thái Bình, và Keo Hành Thiện.
Có thể nói kiến trúc tam quan chùa Keo Thái Bình là một trong những thức
kiến trúc đặc sắc cho loại hình này vào thế kỷ XVII, và nó cũng là tiền đề cho sự
phát triển vào cuối thế kỷ XVIII. Kiểu thức ba hàng cột này đã được giản lược
thêm chỉ còn một hàng cột như kiến trúc đặc sắc của tam quan chùa Kim Liên sau
này. Những tam quan như vậy đã tạo nên nét đẹp độc đáo cho nghệ thuật Việt.
Chúng còn đồng thời ứng với triết học Phật giáo về tam quan là ba cửa giải thoát.
Bước qua tam quan, vào với thế giới của đạo Phật, chúng sinh vô hình như được
thoát khỏi phiền não, tiến nhập vào chốn thanh tịnh, an nhiên tự tại, để có thể hiểu
thêm về ý nghĩa của chốn bỉ ngạn để đạt đạo quả Niết bàn.
1.5.2. Ý nghĩa của công trình đối với cộng đồng và khu vực
Trong kho tàng kiến trúc Việt Nam, có không biết bao nhiêu di tích văn hóa,
có không ít những kiến trúc độc đáo và tiêu biểu, nhưng chúng ta cũng không thể
không nhắc tới kiến trúc chùa keo thái bình. Một kiến trúc đã có từ lâu đời, tồn tại
và phát triển gần 400 năm nay cùng với sự phát triển của xã hội và con người.
Ngày từ khi ra đời chùa keo đã mang một giá trị, một ý nghĩa to lớn đối với cộng
đồng và khu vực nơi đây. Nó không chỉ mang vai trò là nơi thờ cúng, là nơi để con

người trở về với nơi thanh tịnh nhất của cuộc sống, là nơi để mọi người theo những
phật giáo có khả năng học phật giáo và truyền bá đạo phật, là nơi sinh hoạt văn hóa
văn văn nghệ…mà nó còn có một ý nghĩa vô vùng to lớn đó chính là góp phần làm
phong phú nền văn hóa của khu vực này , cũng như nó có thể làm đa dạng được
bản sắc văn hóa của địa phương bởi hàng năm nó thu hút hàng trăm lượt khách du
lịch trong và ngoài nước tụ họp về nơi đây. Từ đó có thể quảng bá hình ảnh của
kiến trúc việt nam cho bạn bè trong khu vực và trên thế giới biết đến.
2. Công trình tương tự ở trong nước hoặc các quốc gia ở khu vực
Chùa keo Hành thiện( nam định) cũng là một trong những ngôi chùa rất nổi
tiếng, về niên đại hình thành thì chùa keo hành thiện chỉ ra đời sau chùa keo thái
SVTH: Trương Quang Phương lớp: 08cvhh Trang: 23
GVHD: Trần Đức Quang Lịch sử kiến trúc Việt Nam
bình một thời gian và điểm tương đồng giữa hai ngôi chùa này đó là cùng thờ phật
và thiền sư không lộ…chùa keo thái bình và chùa keo hành thiện cùng có kiến trúc
chùa gần như là giống nhau, chẳng hạn như cùng có tam quan nội, tam quan ngoại
và gác chuông… vật liệu xây dựng chủ yếu là gỗ. tuy nhiên cũng có một số điểm
khác biệt trong cách trang trí, kiến trúc chạm khắc… và có những nét độc đáo
riêng biệt trong mỗi ngôi chùa. Chùa Hành thiện Phía trước chùa có hồ bán nguyệt
nước trong xanh, soi bóng tháp chuông mái cong uy nghiêm, thơ mộng. Từ đây
nhìn vào, chúng ta sẽ thấy trước mắt là cả một khu kiến trúc cổ to lớn, bề thế với
13 toà rộng gồm 121 gian nối tiếp nhau soi bóng xuống mặt hồ lung linh huyền
diệu và trước của tam quan ngoại có đôi voi cá bằng đá được chạm khắc rất tinh
xảo, với những đường nét tinh tế và dưới đôi chân voi là hình bông hoa. gác
chuông trước cửa chùa là hình ảnh kết hợp hài hoà của kiến trúc tam quan nội 5
gian, làm theo kiểu chồng diêm, cao 7m50. Dáng vẻ thanh thoát với mái cong, bờ
cánh kẻ bảy uốn lượn. Phía dưới là 8 đại trụ và 16 cột quân được đặt trên đá tảng
chạm khắc hoa văn cánh hoa sen nở. Đứng ở hai cửa tả, hữu của tam quan nhìn
vào, khách tham quan vãn cảnh sẽ thấy toàn cảnh kiến trúc của chùa keo Hành
Thiện. Hai bên đường kiệu lát gạch, kề liền hai dãy hành lang, mỗi dãy gồm 40
gian bề thế.

Nhưng trong khi đó chùa keo thái bình lại có 17 tòa với 128 gian trên diện tích
5,8ha. Chùa có kiến trúc cao rộng chứ không thấp, tối như nhiều chùa cổ khác. Vì
thế những tòa chính điện to bằng cỡ những tòa đại đình. Chùa có hai tam quan, bên
ngoài là một tòa kiểu chữ nhất mái cong không xây tường bao. Tam quan nội có vẻ
đẹp bình dị, lại gần thì rất xinh xắn do tỉ lệ cân đối. Cánh cửa tam quan nội. Đây có
lẽ là cánh cửa đẹp nhất trong số các cánh cửa kiến trúc cổ Việt Nam. Bởi nó được
chạm khắc rấtt công phu và tỉ mỉ, Chủ đề chính chỉ là hai con rồng nhưng những
trang trí lửa hóa long, sóng nước và vân mây sinh động làm cho tấm gỗ như gấm.
và Gác chuông chùa Keo được xem như điểm nhấn của quần thể, đóng lại không
SVTH: Trương Quang Phương lớp: 08cvhh Trang: 24
GVHD: Trần Đức Quang Lịch sử kiến trúc Việt Nam
gian chung. Những kết cấu gỗ chồng rường dưới mái có ảnh hưởng của kiến trúc
Trung Quốc, Nhật Bản, nhưng ở đây các đầu dư thưa hơn, tạo thành các cụm. Độ
cong của mái đao vẫn là kiểu Việt Nam, cong nhờ tầu mái và ở phần giữa vẫn dốc
đều chứ không cong toàn bộ như hai nước kia. Những đầu dư vươn ra cũng tranh
thủ uốn cong, làm cho các góc giao nhau như bông hoa nở. Chùa Bối Khê cũng có
gian hậu cung kết cấu mái chồng rường giống thế này. Nhưng gác chuông chùa
Keo với độ cao của nó thì chưa có chùa nào gây ấn tượng bằng. Thêm nữa, trang
trí chạm khắc gỗ rất hoa mỹ mà không sơn phết khiến kiến trúc này tựa như một
công trình điêu khắc từ một khối thô mộc - những ai hâm mộ kiến trúc thô mộc và
biểu hiện sẽ kết loại này
Còn chùa Keo Hành Thiện mặc dầu có tới hai tam quan: tam quan ngoại và
tam quan nội, nhưng kiến trúc các tam quan này chỉ được thiết kế theo dạng thông
thường còn các họa tiết chạm rồng chỉ nhìn thấy trên các thành phần kiến trúc gỗ,
bộ đôi cánh cửa thì hoàn toàn để trơn, không có chạm khắc…Trên đây chỉ là một
vài nét cơ bản tôi đưa ra để chỉ ra sự khác biệt và tương đồng và khác biệt giữa
kiến trúc chùa keo thái bình và chùa keo hành thiện (nam định).
3. Đánh giá khẳng định giá trị của công trình nghiên cứu
Chùa keo không chỉ là một bức tranh sinh động, một kiến trúc độc đáo tiêu
biểu cho lịch sử văn hóa Việt Nam trong suốt 4 thế kỷ qua, từ thế kỷ 17 đến 20 mà

còn là nơi gặp gỡ giữa kiến trúc Trung Hoa và kiến trúc Việt Nam. Nó là một trong
10 kiến trúc cổ nhất Việt Nam và là một trong 3 ngôi chùa đặc biệt, lưu giữ khá
đầy đủ những di vật cổ, trong đó có hàng trăm pho tượng cổ thời Lê như tượng
Tuyết Sơn, La Hán, Quan Âm Bồ Tát và nhiều bức trạm, bức khắc Hơn nữa nó
còn được trang trí và họa tiết rất công phu với sự khéo léo của không ít những nhà
điêu khắc thời đó, nên chùa keo còn mang một giá trị to lớn về mặt thẩm mỹ… Tất
cả những điều đó đã tạo nên , làm nên một chùa keo rất độc đáo và đặc sắc trong
nền văn hóa kiến trúc Việt Nam thời đó. Và Với vẻ đẹp về mặt kiến trúc, sự linh
SVTH: Trương Quang Phương lớp: 08cvhh Trang: 25

×