Môn 1:
1/ Triết học: Lý
luận về hình thái
KT-XH. Ý nghĩa
phương pháp luận
hình thái KT-XH
Lý luận hình thái
kinh tế – xã hội là
lý luận cơ bản và
giữ một vị trí hết
sức quan trọng của
chủ nghĩa duy vật
lịch sử do K.Marx
xây dựng nên. Lý
luận hình thái kinh
tế - xã hội đã được
thừa nhận là lý
luận khoa học và là
phương pháp luận
cơ bản trong việc
nghiên cứu lĩnh
vực học. Nhờ có lý
luận hính thaí kinh
tế – xã hội, lần đầu
tiên trong lịch sử
xã hội học K. Marx
đã chỉ rõ nguồn
gốc, động lực bên
trong, nội tại của
sự phát triển xã
hội, chỉ rõ được
bản chất của từng
chế độ xã hội. Như
vậy qua lý luận
hình thái kinh tế –
xã hội giúp chúng
ta nghiên cứu một
cách đúng đắn và
khoa học vận hành
của xã hội trong
mỗi giai đoạn nhất
định.
Lý luận
HTKTXH và con
đường đi lên
CNXH ở VN
Lý luận HT
KTXH và vai trò
phương pháp luận
của nó
1.1 Những tiền đề
xuất phát để xây
dựng lý luận
HTKTXH
- Mác đã xem XH là
một thể thống nhất
của những nhân tố
VC và nhân tố YT
tạo thành một hệ
thống tự phát triển.
Theo Mác, XH dưới
bất cứ hình thức nào
cũng là sản phẩm của
sự tác động lẫn nhau
giữa người với
người.
- Quan điểm DV về
XH đã lấy tồn tại XH
để giải thích những
hiện tượng về YT
XH
- Quan niệm duy vật
về XH đã xem xét
XH là một bộ phận
đặc thù của giới tự
nhiên, vận động và
phát triển theo những
quy luật KQ. Tính
đặc thù của XH là có
sự tham gia của con
người có YT. Do đó,
hoạt động của con
người không chỉ tuân
theo quy luật tự
nhiên mà còn tuân
theo quy luật bản
thân.
- Quan niệm duy vật
về XH đã xác định
chủ thể của tiến trình
lịch sử là quần chúng
nhân dân. Vì vậy,
phải xác định một
lực lượng cụ thể nào
đó trong XH là người
quyết định lịch sử,
phải xuất phát từ một
luận điểm DV cho
rằng “sản xuất VC là
cái quyết định sự tồn
tại phát triển của XH.
Lực luợng đó là quần
chúng nhân dân.
Quần chúng nhân
dân là bộ phận có
cùng chung lợi ích
căn bản bao gồm
những thành phần,
tầng lớp liên kế với
nhau thành một tập
thể dưói sự lãnh đạo
của một cá nhân hay
một tổ chứa nào đó
để thực hiện những
vấn đề về KT, chính
trị, Xh trong mỗi giai
đoạn lịch sử.
1.2 Cấu trúc XH -
Phạm trù HT KT-XH
Quan điểm DV của
CN Mác xem XH với
tư cách là một hệ
thống gồm 4 lĩnh vực
sau:
- Lĩnh vực KT của
đời sống XH tức là
quan hệ SX, quan hệ
KT giữ vai trò là
quan hệ ban đầu,
quan hệ cơ bản quyết
định các quan hệ
khác.
- Lĩnh vực XH tức là
qhệ gia đình, tầng
lớp XH, giai cấp, dân
tộc, trong đó quan hệ
giai cấp là quan trọng
nhất, đóng vai trò chi
phối các qhệ khác
trong XH.
- Lĩnh vực chính trị
của đời sống XH tức
là các tổ chức, các
thiết chế quyền lực,
hệ thống pháp luật và
tư tưởng chính trị.
- Lĩnh vực tinh thần
của đời sống chính trị:
đóng góp khoa học
của Mác và Ănghen là
xác định đúng vị trí,
vai trò của các yếu tố
và chỉ ra chiều tác
động qua lại giữa
chúng; những mối liên
hệ bản chất tất yếu
giữa chúng và do đó
làm cho cả hệ thống
XH vận động, biến
đổi. Mỗi lĩnh vực
trong đời sống XH
đều bị chi phối bởi
những yếu tố khác
nhau và được CNDV
lịch sử triển khai, phân
tích bằng hệ thống
những quy luật, những
phạm trù sau:
+ Lĩnh vực KT của
đời sống XH có các
phạm trù như phương
thức SX, LLSX,
QHSX, đặc biệt là quy
luật QHSX phù hợp
với trình độ phát triển
của LLSX. Mối quan
hệ giữa lĩnh vực KT
và lĩnh vực chính trị
được khái quát trong
các phạm trù như cơ
sở hạ tầng, kiến trúc
thượng tầng và nhất là
quy luật CSHT quyết
định KTTT và sự tác
động trở lại của KTTT
đối với CSHT.
+ Lĩnh vực XH có các
phạm trù như giai cấp,
đấu tranh giai cấp, kết
cấu giai cấp và sự
phân chia giai cấp do
địa vị các tập đoàn
1
người trong hệ
thống SX XH quy
định, đến lượt nó
thì giai cấp giữ vị
trí thống trị trong
hệ thống sản xuất
lại quy định chính
trị. Còn đấu tranh
giai cấp trong XH
có giai cấp đối
kháng là một trong
những động lực
phát triển của XH.
+ Lĩnh vực tinh
thần của đời sống
XH được nghiên
cứu trong mối qhệ
giữa tồn tại XH và
YT XH, tính độc
lập tương đối của
YT XH, các cấp
độ, các HT của
YT-XH và vai trò
ngày càng to lớn
của YT XH trong
quá trình phát triển
XH.
Vậy, HT KT-XH là
một phạm trù của
CNDV lịch sử
dùng để chỉ XH
trong từng giai
đoạn phát triển lịch
sử nhất định với
những QHSX của
nó thích ứng với
LLSX ở một trình
độ nhất định và với
một KTTT được
xây dựng dựa trên
những quan hệ đó.
1.3 Phép biện
chứng về sự vận
động phát triển của
các HT KT-XH
1.3.1 Biện chứng
giữa LLSX và
QHSX (thực chất
đây là quy luật
QHSX phù hợp với
trình độ phát triển
của LLSX)
- Sự vận động, phát
triển của LLSX
quyết định và làm
thay đổi QHSX cho
phù hợp với LLSX.
- LLSX quyết định
QHSX nhưng QHSX
lại có tính độc lập
tương đối và tác
động trở lại sự phát
triển của LLSX. Bản
thân QHSX không
thụ động mà có vai
trò tích cực, nó có
thể thúc đẩy hoặc
kìm hãm đối với sự
phát triển của LLSX.
Ta xét 2 trường hợp
+ Nếu QHSX phù
hợp với trình độ phát
triển của LLSX nó sẽ
đóng vai trò thúc đẩy
làm cho LLSX
không ngừng phát
triển. Một QHSX
được coi là phù hợp
với trình độ phát
triển của LLSX là
QHSX phải tạo điều
kiện tối ưu cho việc
sử dụng và kết hợp
giữa TLSX và người
lao động thì QHSX
ấy mới được gọi là
QHSX tiến bộ.
+ QHSX không phù
hợp với trình độ phát
triển của LLSX thì sẽ
kìm hãm, trói buộc
LLSX. Thể hiện ở 2
trường hợp:
TH1: QHSX quá lạc
hậu hơn trình độ phát
triển của LLSX, đây
là trường hợp thường
xảy ra ở các nước tư
bản phát triển. Do
LLSX ở các nước TB
mang tính chất XH
hóa còn QHSX là sở
hữu tư nhân TLSX.
Các nhà KT TB đã
có những điều chỉnh
QHSX bằng cách
điều chỉnh qhệ sở
hữu (bán cổ phần cho
người lao động), qhệ
quản lý (vai trò của
người lao động được
xác nhận), qhệ phân
phối sản phẩm (đời
sống XH được nâng
cao)
. TH2: QHSX tiên
tiến một cách giả tạo,
thường xảy ra ở các
nước nghèo đang
phát triển, chẳng hạn
như Việt Nam.
LLSX quá thấp kém,
QH sở hữu toàn dân,
quan hệ phân phối
bình quân, cơ chế tập
trung quan liêu bao
cấp… làm nền KT
chậm phát triển.
Khắc phục bằng cách
điều chỉnh như giao
ruộng đất cho nông
dân, bán cổ phần cho
người lao động, qhệ
quản lý và qhệ phân
phối cũng phải điều
chỉnh. Có như vậy nó
mới là động lực cho
nền sản xuất phát
triển.
1.3.2 Biện chứng
giữa CSHT và KTTT
- Vai trò của CSHT
quyết định đối với
KTTT thể hiện ở 2
điểm:
+ CSHT nào thì quyết
định KTTT đó và
QHSX nào thống trị sẽ
tạo ra KTTT tương
ứng. Mâu thuẫn trong
lĩnh vực KT quyết
định tính chất đối
kháng trong lĩnh vực
chính trị, tư tưởng.
Mâu thuẫn trong chính
trị, tư tưởng phản ánh
mâu thuẫn trong lĩnh
vực KT. Ví dụ CSHT
của XH VN được đặt
trên QHSX XHCN sẽ
quyết định sinh ra hệ
tư tưởng XHCN và
các thiết chế, tổ chức
XHCN. QHSX nào
thống trị tạo ra KTTT
chính trị tương ứng.
+ Khi CSHT có sự
thay đổi thì nó sẽ
quyết định sự tay đổi
của KTTT. Sự thay
đổi diễn ra trong 2
trườn hợp
. Trong mỗi HT KT-
XH.
. Từ HT KT-XH này
sang HT KT-XH khác.
Ví dụ từ PK sang
TBCN, từ TBCN sang
XHCN thì CSHT thay
đổi đặc trưng nởi
QHSX thống trị.
- Vai trò của KTTT
đối với CSHT: Triết
học Mác đánh giá rất
cao vai trò của KTTT
đối với CSHT thông
qua chứng năng XH
của nó là nó bảo vệ,
duy trì, củng cố và
phát triển CSHT dồng
thời tham gia đấu
2
tranh xoá bỏ CSHT
và KTTT cũ. Vì
chức năng ấy nên
nó tác động rất tích
cực vào CSHT.
Trong đó Nhà nưóc
là bộ phận quan
trọng nhất của
KTTT vì sức mạnh
của Nhà Nước
ngoài sức mạnh
bạo lực còn thể
hiện ý chí của giai
cấp thống trị. Tất
cả mọi hoạt động
của XH phải tuân
thủ tính KQ
1.4 Sự phát triển
của các HT KT-
XH là một quá
trình lịch sử tự
nhiên
XH loài người đã
phát triển trải qua
nhiều HT KTXH
nối tiếp nhau. Trên
cơ sở phát hiện ra
các quy luật vận
động phát triển
khách quan của
XH, C.Mác đã đi
đến kết luận: "Sự
phát triển của
những HT KTXH
là một quá trình
lịch sử - tự nhiên"
HT KTXH là một
hệ thống, trong đó,
các mặt không
ngừng tác động
qua lại lẫn nhau tạo
thành các quy luật
vận động, phát
triển khách quan
của XH. Đó là quy
luật về sự phù hợp
của quan hệ sản
xuất với trình độ phát
triển của lực lượng
sản xuất, quy luật cơ
sở hạ tầng quyết định
kiến trúc thượng tầng
và các quy luật XH
khác. Chính sự tác
động của các quy
luật khách quan đó
mà các HT KTXH
vận động phát triển
từ thấp đến cao
Nguồn gốc sâu xa
của sự vận động phát
triển của XH là ở sự
phát triển của lực
lượng sản xuất.
Chính sự phát triển
của lực lượng sản
xuất đã quyết định,
làm thay đổi quan hệ
sản xuất. Đến lượt
mình, quan hệ sản
xuất thay đổi sẽ làm
cho kiến trúc thượng
tầng thay đổi theo, và
do đó mà HTKTXH
cũ được thay thế
bằng HTKTXH mới
cao hơn, tiến bộ hơn.
Quá trình đó diễn ra
một cách khách quan
chứ không phải theo
ý muốn chủ quan.
V.I. Lênin viết: "Chỉ
có đem quy những
quan hệ sản xuất vào
trình độ của những
lực lượng sản xuất
thì người ta mới có
được một cơ sở vững
chắc để quan niệm sự
phát triển của những
HTKTXH là một quá
trình lịch sử - tự
nhiên"
Con đường phát triển
của mỗi dân tộc
không chỉ bị chi phối
bởi các quy luật
chung, mà còn bị tác
động bởi các điều
kiện về tự nhiên, về
chính trị, về truyền
thống văn hóa, về
điều kiện quốc tế
v.v Chính vì vậy,
lịch sử phát triển của
nhân loại hết sức
phong phú, đa dạng.
Mỗi dân tộc đều có
nét độc đáo riêng
trong lịch sử phát
triển của mình. Có
những dân tộc lần
lượt trải qua các
HTKTXH từ thấp
đến cao; nhưng cũng
có những dân tộc bỏ
qua một hay một số
HT KTXH nào đó.
Tuy nhiên, việc bỏ
qua đó cũng diễn ra
theo một quá trình
lịch sử - tự nhiên chứ
không phải theo ý
muốn chủ quan.
Như vậy, quá trình
lịch sử - tự nhiên của
sự phát triển XH
chẳng những diễn ra
bằng con đường phát
triển tuần tự, mà còn
bao hàm cả sự bỏ
qua, trong những
điều kiện nhất định,
một hoặc một vài
HTKTXH nhất định.
Phân tích ý nghĩa
phương pháp luận
của phạm trù hình
thái KTXH và sự
vận dụng vào xã hội
việt nam
* Hình thái kinh tế
xã hội.
Hình thái kinh tế xã
hội là một phạm trù
của chủ nghĩa duy vật
lịch sử dùng để chỉ xã
hội ở từng giai đoạn
phát triển lịch sử nhất
định. Với những quan
hệ sản xuất của nó
thích ứng với LLSX ở
một trình độ nhất định
và với một KTTT xây
dựng trên những
QHSX đó.
* Ý nghĩa của việc
nghiên cứu học
thuyết. Hình thái
kinh tế xã hội
- Nghiên cứu học
thuyết. Hình thái kinh
tế xã hội cho ta thấy rõ
rằng mỗi xã hội đều
có quan hệ sản xuất
của nó
- Tiêu biểu cho một
chế độ kinh tế của xã
hội ấy đều là những
quan hệ vật chất, đều
là hình thức xã hội của
một quá trình sản
xuất.
- Việc phát hiện ra
những quan hệ vật
chất cơ bản ấy của xã
hội đã đặt ra cơ sở
khoa học cho việc
nghiên cứu xã hội đã
đặt ra cơ sở khoa học
cho việc nghiên cứu
xã hội trên quan điểm
duy vật và từ đó đi
3
vào phân tích các
quan hệ phức tạp
khác của đời sống,
xã hội trong từng
giai đoạn lịch sử
nhất định.
- Nhờ có sự khái
quát khoa học ấy
thì mới có khả
năng phân tích một
cách đúng đắn các
hiện tượng và quá
trình lịch sử xã hội
cụ thể từ đó phân
biệt chế độ xã hội
này với một chế độ
xã hội khác và
đồng thời tìm thấy
sự giống nhau và
khác nhau giữa các
xã hội đó.
- Học thuyết hình
thái kinh tế xã hội
đã vạch ra nguồn
gốc động lực bên
trong của sự phát
triển xã hội nó đã
đặt cơ sở khoa học
cho xã hội hoặc
nâng xã hội học lên
thành khoa học
thực sự.
- Học thuyết hình
thái kinh tế xã hội
là cơ sở lý luận cho
đường lối cách
mạng của giai cấp
vô sản và quần
chúng lao động
trong xã hội cũ và
xây dựng xã hội
mới.
- Nó vũ trang cho
chúng ta phương
pháp khoa học để
nghiên cứu sự phát
triển xã hội qua các
chế độ xã hội khác
nhau hiểu rõ cơ cấu
chung của hình thái
kinh tế xã hội là
những quy luật phổ
biến tác động chi
phối sự vận động và
phát triển của xã hội.
* Vận dụng của
Đảng ta
- Đảng ta đã vận
dụng học thuyết về
hình thái kinh tế xã
hội để xây dựng hình
thái kinh tế xã hội ở
nước ta.
- Xây dựng nền kinh
tế sản xuất hàng hóa
nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý
của Nhà nước.
- Xây dựng hệ thống
chính trị theo nguyên
tắc nhân dân lao
động là người chủ xã
hội, bảo vệ quyền
dân chủ của mọi
thành viên của xã
hội.
- Mở rộng giao lưu
quốc tế, tiếp cận và
vận dụng những giá
trị mới của văn minh
nhân loại.
- Tạo môi trường cho
hoạt động tự do sáng
tạo cho mọi sáng
kiến cá nhân và đơn
vị. Khai thác triệt để
yếu tố con người, vì
con người, như vậy
xây dựng hình thái
kinh tế xã hội,
XHCN ở nước ta
trong thời quá độ là
phát triển LLSX và
xây dựng QHSX mới
theo định hướng
XHCN xây dựng một
hệ thống chính trị
bảo đảm quyền làm
chủ của nhân dân lao
động, hoạt động theo
nguyên tắc tất cả từ
con người vì con
người. Tiếp tục cải
cách bộ máy Nhà
nước xây dựng hoàn
thiện Nhà nước
CHXHCN Việt Nam
Nhà nước của dân do
dân và vì dân, lấy
liên minh giai cấp
công nhân với giai
cấp nông dân và tầng
lớp trí thức XHCN
làm nền tảng cho
Đảng cộng sản Việt
Nam lãnh đạo./.
Hình thái KT-XH
1. Sản xuất vật chất
- cơ sở của sự tồn
tại và phát triển xã
hội
Sản xuất là hoạt động
đặc trưng của con
người và xã hội loài
người. Sản xuất xã
hội bao gồm: sản
xuất vật chất, sản
xuất tinh thần và sản
xuất ra bản thân con
người. Ba quá trình
đó gắn chặt chẽ với
nhau, tác động qua
lại lẫn nhau, trong đó
sản xuất vật chất là cơ
sở của sự tồn tại và
phát triển của xã hội.
Theo Ph.Ăngghen,
"điểm khác biệt căn
bản giữa xã hội loài
người với xã hội loài
vật là ở chỗ: loài vật
may lắm chỉ hái lượm,
trong khi con người lại
sản xuất"
Sản xuất vật chất là
quá trình con người
sử dụng công cụ lao
động tác động vào tự
nhiên, cải biến các
dạng vật chất của giới
tự nhiên nhằm tạo ra
của cải vật chất thỏa
mãn nhu cầu tồn tại và
phát triển của con
người.
Trong quá trình tồn tại
và phát triển, con
người không thỏa mãn
với những cái đã có
sẵn trong giới tự
nhiên, mà luôn luôn
tiến hành sản xuất vật
chất nhằm tạo ra các
tư liệu sinh hoạt thỏa
mãn nhu cầu ngày
càng phong phú, đa
dạng của con người.
Việc sản xuất ra các tư
liệu sinh hoạt là yêu
cầu khách quan của
đời sống xã hội. Bằng
việc "sản xuất ra
những tư liệu sinh
hoạt của mình, như thế
con người đã gián tiếp
sản xuất ra chính đời
sống vật chất của
mình"
4
Trong quá trình sản
xuất ra của cải vật
chất cho sự tồn tại
và phát triển của
mình, con người
đồng thời sáng tạo
ra toàn bộ các mặt
của đời sống xã
hội. Tất cả các
quan hệ xã hội về
nhà nước, pháp
quyền, đạo đức,
nghệ thuật, tôn
giáo, v.v đều
hình thành, biến
đổi trên cơ sở sản
xuất vật chất. Khái
quát lịch sử phát
triển của nhân loại,
C.Mác đã kết luận :
"Việc sản xuất ra
những tư liệu sinh
hoạt vật chất trực
tiếp tạo ra một cơ
sở, chính từ đó mà
người ta phát triển
các thể chế nhà
nước, các quan
điểm pháp quyền,
nghệ thuật và thậm
chí cả những quan
niệm tôn giáo của
con người ta"
Trong quá trình sản
xuất vật chất, con
người không
ngừng làm biến đổi
tự nhiên, biến đổi
xã hội, đồng thời
làm biến đổi bản
thân mình. Sản
xuất vật chất không
ngừng phát triển.
Sự phát triển của
sản xuất vật chất
quyết định sự biến
đổi, phát triển các
mặt của đời sống xã
hội, quyết định phát
triển xã hội từ thấp
đến cao. Chính vì
vậy, phải tìm cơ sở
sâu xa của các hiện
tượng xã hội ở trong
nền sản xuất vật chất
của xã hội.
2. Biện chứng của lực
lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất
2.1. Khái niệm
phương thức sản
xuất, lực lượng sản
xuất, quan hệ sản
xuất
a. Phương thức sản
xuất
Sản xuất vật chất
được tiến hành bằng
phương thức nhất
định. Phương thức
sản xuất là cách thức
con người thực hiện
quá trình sản xuất
vật chất ở những giai
đoạn lịch sử nhất
định của xã hội loài
người.
Mỗi xã hội được đặc
trưng bằng một
phương thức sản xuất
nhất định. Phương
thức sản xuất đóng
vai trò quyết định đối
với tất cả các mặt của
đời sống xã hội: kinh
tế, chính trị, văn hóa,
xã hội. Sự thay thế
kế tiếp nhau của các
phương thức sản xuất
trong lịch sử quyết
định sự phát triển của
xã hội loài người từ
thấp đến cao.
Trong sản xuất, con
người có "quan hệ
song trùng": một mặt
là quan hệ giữa
người với tự nhiên,
tức là lực lượng sản
xuất; mặt khác là
quan hệ giữa người
với người, tức là
quan hệ sản xuất.
Phương thức sản
xuất chính là sự
thống nhất giữa lực
lượng sản xuất ở một
trình độ nhất định và
quan hệ sản xuất
tương ứng.
b. Lực lượng sản
xuất
Lực lượng sản xuất
biểu hiện mối quan
hệ giữa con người
với tự nhiên trong
quá trình sản xuất.
Lực lượng sản xuất
thể hiện năng lực
thực tiễn của con
người trong quá trình
sản xuất ra của cải
vật chất. Lực lượng
sản xuất bao gồm
người lao động với
kỹ năng lao động của
họ và tư liệu sản
xuất, trước hết là
công cụ lao động.
Trong quá trình sản
xuất, sức lao động
của con người và tư
liệu sản xuất, trước
hết là công cụ lao
động, kết hợp với
nhau tạo thành lực
lượng sản xuất.
Trong các yếu tố của
lực lượng sản xuất,
"lực lượng sản xuất
hàng đầu của toàn thể
nhân loại là công
nhân, là người lao
động"
(1)
. Chính người
lao động là chủ thể
của quá trình lao động
sản xuất, với sức
mạnh và kỹ năng lao
động của mình, sử
dụng tư liệu lao động,
trước hết là công cụ
lao động, tác động vào
đối tượng lao động để
sản xuất ra của cải vật
chất. Cùng với quá
trình lao động sản
xuất, sức mạnh và kỹ
năng lao động của con
người ngày càng được
tăng lên, đặc biệt là trí
tuệ của lao động ngày
càng cao. Ngày nay,
với cuộc cách mạng
khoa học và công
nghệ, lao động trí tuệ
ngày càng đóng vai trò
chính yếu.
Cùng với người lao
động, công cụ lao
động cũng là một yếu
tố cơ bản của lực
lượng sản xuất, đóng
vai trò quyết định
trong tư liệu sản xuất.
Công cụ lao động do
con người sáng tạo ra,
là "sức mạnh của tri
thức đã được vật thể
hóa", nó "nhân" sức
mạnh của con người
trong quá trình lao
động sản xuất. Công
cụ lao động là yếu tố
động nhất của lực
lượng sản xuất. Cùng
5
với quá trình tích
lũy kinh nghiệm,
với những phát
minh và sáng chế
kỹ thuật, công cụ
lao động không
ngừng được cải
tiến và hoàn thiện.
Chính sự cải tiến
và hoàn thiện
không ngừng công
cụ lao động đã làm
biến đổi toàn bộ tư
liệu sản xuất. Xét
đến cùng, đó là
nguyên nhân sâu
xa của mọi biến
đổi xã hội. Trình
độ phát triển của
công cụ lao động là
thước đo trình độ
chinh phục tự
nhiên của con
người, là tiêu
chuẩn phân biệt
các thời đại kinh tế
trong lịch sử.
Trong sự phát triển
của lực lượng sản
xuất, khoa học
đóng vai trò ngày
càng to lớn. Sự
phát triển của khoa
học gắn liền với
sản xuất và là động
lực mạnh mẽ thúc
đẩy sản xuất phát
triển. Ngày nay,
khoa học đã phát
triển đến mức trở
thành nguyên nhân
trực tiếp của nhiều
biến đổi to lớn
trong sản xuất,
trong đời sống và
trở thành "lực
lượng sản xuất trực
tiếp". Những phát
minh khoa học trở
thành điểm xuất phát
ra đời những ngành
sản xuất mới, những
máy móc thiết bị
mới, công nghệ mới,
nguyên vật liệu mới,
năng lượng mới. Sự
thâm nhập ngày càng
sâu của khoa học vào
sản xuất, trở thành
một yếu tố không thể
thiếu được của sản
xuất đã làm cho lực
lượng sản xuất có
bước phát triển nhảy
vọt, tạo thành cuộc
cách mạng khoa học
và công nghệ hiện
đại. Yếu tố trí lực
trong sức lao động
đặc trưng cho lao
động hiện đại không
còn là kinh nghiệm
và thói quen của họ
và là tri thức khoa
học. Có thể nói: khoa
học và công nghệ
hiện đại là đặc trưng
cho lực lượng sản
xuất hiện đại
c. Quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là
quan hệ giữa người
với người trong quá
trình sản xuất (sản
xuất và tái sản xuất
xã hội). Quan hệ sản
xuất gồm ba mặt:
quan hệ về sở hữu
đối với tư liệu sản
xuất, quan hệ trong
tổ chức và quản lý
sản xuất, quan hệ
trong phân phối sản
phẩm sản xuất ra.
Quan hệ sản xuất do
con người tạo ra,
nhưng nó hình thành
một cách khách quan
trong quá trình sản
xuất, không phụ
thuộc vào ý muốn
chủ quan của con
người. C.Mác viết:
"Trong sản xuất,
người ta không chỉ
quan hệ với giới tự
nhiên. Người ta
không thể sản xuất
được nếu không kết
hợp với nhau theo
một cách nào đó để
hoạt động chung và
để trao đổi hoạt động
với nhau. Muốn sản
xuất được, người ta
phải có những mối
liên hệ và quan hệ
nhất định với nhau;
và quan hệ của họ
với giới tự nhiên, tức
là việc sản xuất"
Quan hệ sản xuất là
hình thức xã hội của
sản xuất; giữa ba mặt
của quan hệ sản xuất
thống nhất với nhau,
tạo thành một hệ
thống mang tính ổn
định tương đối so với
sự vận động, phát
triển không ngừng
của lực lượng sản
xuất.
Trong ba mặt của
quan hệ sản xuất,
quan hệ sở hữu về tư
liệu sản xuất là quan
hệ xuất phát, quan hệ
cơ bản, đặc trưng cho
quan hệ sản xuất trong
từng xã hội. Quan hệ
sở hữu về tư liệu sản
xuất quyết định quan
hệ về tổ chức quản lý
sản xuất, quan hệ phân
phối sản phẩm cũng
như các quan hệ XH
khác.
Lịch sử phát triển của
nhân loại đã chứng
kiến có hai loại hình
sở hữu cơ bản về tư
liệu sản xuất: sở hữu
tư nhân và sở hữu
công cộng. Sở hữu tư
nhân là loại hình sở
hữu mà trong đó tư
liệu sản xuất tập trung
vào trong tay một số ít
người, còn đại đa số
không có hoặc có rất ít
tư liệu sản xuất. Do
đó, quan hệ giữa
người với người trong
sản xuất vật chất và
trong đời sống XH là
quan hệ thống trị và bị
trị, bóc lột và bị bóc
lột. Sở hữu công cộng
là loại hình sở hữu mà
trong đó tư liệu sản
xuất thuộc về mọi
thành viên của mỗi
cộng đồng. Nhờ đó,
quan hệ giữa người
với người trong mỗi
cộng đồng là quan hệ
bình đẳng, hợp tác,
giúp đỡ lẫn nhau
Quan hệ tổ chức và
quản lý sản xuất trực
tiếp tác động đến quá
trình sản xuất, đến
việc tổ chức, điều
6
khiển quá trình sản
xuất. Nó có thể
thúc đẩy hoặc kìm
hãm quá trình sản
xuất. Quan hệ tổ
chức và quản lý
sản xuất do quan
hệ sở hữu quyết
định và nó phải
thích ứng với quan
hệ sở hữu. Tuy
nhiên có trường
hợp, quan hệ tổ
chức và quản lý
không thích ứng
với quan hệ sở
hữu, làm biến dạng
quan hệ sở hữu.
Quan hệ về phân
phối sản phẩm sản
xuất ra mặc dù do
quan hệ sở hữu về
tư liệu sản xuất và
quan hệ tổ chức
quản lý sản xuất
chi phối, song nó
kích thích trực tiếp
đến lợi ích của con
người, nên nó tác
động đến thái độ
của con người
trong lao động sản
xuất, và do đó có
thể thúc đẩy hoặc
kìm hãm sản xuất
phát triển.
2.2. Quy luật về sự
phù hợp của quan
hệ sản xuất với
trình độ phát triển
của lực lượng sản
xuất
Lực lượng sản xuất
và quan hệ sản
xuất là hai mặt của
phương thức sản
xuất, chúng tồn tại
không tách rời nhau,
tác động qua lại lẫn
nhau một cách biện
chứng, tạo thành quy
luật về sự phù hợp
của quan hệ sản xuất
với trình độ phát
triển của lực lượng
sản xuất. Đây là quy
luật cơ bản nhất của
sự vận động, phát
triển XH.
Khuynh hướng
chung của sản xuất
vật chất là không
ngừng phát triển. Sự
phát triển đó xét đến
cùng là bắt nguồn từ
sự biến đổi và phát
triển của lực lượng
sản xuất, trước hết là
công cụ lao động.
Sự phát triển của lực
lượng sản xuất được
đánh dấu bằng trình
độ của lực lượng sản
xuất.
Trình độ lực lượng
sản xuất trong từng
giai đoạn lịch sử thể
hiện trình độ chinh
phục tự nhiên của
con người trong giai
đoạn lịch sử đó.
Trình độ lực lượng
sản xuất biểu hiện ở
trình độ của công cụ
lao động, trình độ,
kinh nghiệm và kỹ
năng lao động của
con người, trình độ
tổ chức và phân công
lao động XH, trình độ
ứng dụng khoa học
vào sản xuất
Gắn liền với trình độ
của lực lượng sản
xuất là tính chất của
lực lượng sản xuất.
Trong lịch sử XH,
lực lượng sản xuất đã
phát triển từ chỗ có
tính chất cá nhân lên
tính chất XHH. Khi
sản xuất dựa trên
công cụ thủ công,
phân công lao động
kém phát triển thì lực
lượng sản xuất chủ
yếu có tính chất cá
nhân. Khi sản xuất
đạt tới trình độ cơ
khí, hiện đại, phân
công lao động XH
phát triển thì lực
lượng sản xuất có
tính chất XH. hóa.
Sự vận động, phát
triển của lực lượng
sản xuất quyết định
và làm thay đổi quan
hệ sản xuất cho phù
hợp với nó. Khi một
phương thức sản xuất
mới ra đời, khi đó
quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát
triển của lực lượng
sản xuất. Sự phù hợp
của quan hệ sản xuất
với trình độ phát
triển của lực lượng
sản xuất là một trạng
thai mà trong đó
quan hệ sản xuất là
"hình thức phát triển"
của lực lượng sản
xuất. Trong trạng
thái đó, tất cả các
mặt của quan hệ sản
xuất đều "tạo địa bàn
đầy đủ" cho lực
lượng sản xuất phát
triển. Điều đó có
nghĩa là, nó tạo điều
kiện sử dụng và kết
hợp một cách tối ưu
giữa người lao động
với tư liệu sản xuất và
do đó lực lượng sản
xuất có cơ sở để phát
triển hết khả năng của
nó
Sự phát triển của lực
lượng sản xuất đến
một trình độ nhất định
làm cho quan hệ sản
xuất từ chỗ phù hợp
trở thành không phù
hợp với sự phát triển
của lực lượng sản
xuất. Khi đó, quan hệ
sản xuất trở thành
"xiềng xích" của lực
lượng sản xuất, kìm
hãm lực lượng sản
xuất phát triển. Yêu
cầu khách quan của sự
phát triển lực lượng
sản xuất tất yếu dẫn
đến thay thế quan hệ
sản xuất cũ bằng quan
hệ sản xuất mới phù
hợp với trình độ phát
triển mới của lực
lượng sản xuất để thúc
đẩy lực lượng sản xuất
tiếp tục phát triển.
Thay thế quan hệ sản
xuất cũ bằng quan hệ
sản xuất mới cũng có
nghĩa là phương thức
sản xuất cũ mất đi,
phương thức sản xuất
mới ra đời thay thế.
C.Mác đã viết: "Tới
một giai đoạn phát
triển nào đó của
chúng, các lực lượng
sản xuất vật chất của
7
XH mâu thuẫn với
những quan hệ sản
xuất hiện có
trong đó từ trước
đến nay các lực
lượng sản xuất vẫn
phát triển. Từ chỗ
là những hình thức
phát triển của lực
lượng sản xuất,
những quan hệ ấy
trở thành những
xiềng xích của các
lực lượng sản xuất.
Khi đó bắt đầu thời
đại một cuộc cách
mạng XH
Lực lượng sản xuất
quyết định quan hệ
sản xuất, nhưng
quan hệ sản xuất
cũng có tính độc
lập tương đối và
tác động trở lại sự
phát triển của lực
lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất
quy định mục đích
của sản xuất, tác
động đến thái độ
của con người
trong lao động sản
xuất, đến tổ chức
phân công lao động
XH, đến phát triển
và ứng dụng khoa
học và công nghệ,
v.v và do đó tác
động đến sự phát
triển của lực lượng
sản xuất. Quan hệ
sản xuất phù hợp
với trình độ phát
triển của lực lượng
sản xuất là động
lực thúc đẩy lực
lượng sản xuất
phát triển. Ngược lại,
quan hệ sản xuất lỗi
thời, lạc hậu hoặc
"tiên tiến" hơn một
cách giả tạo so với
trình độ phát triển
của lực lượng sản
xuất sẽ kìm hãm sự
phát triển của lực
lượng sản xuất. Khi
quan hệ sản xuất kìm
hãm sự phát triển của
lực lượng sản xuất,
thì theo quy luật
chung, quan hệ sản
xuất cũ sẽ được thay
thế bằng quan hệ sản
xuất mới phù hợp với
trình độ phát triển
của lực lượng sản
xuất để thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát
triển. Tuy nhiên, việc
giải quyết mâu thuẫn
giữa lực lượng sản
xuất với quan hệ sản
xuất không phải giản
đơn. Nó phải thông
qua nhận thức và
hoạt động cải tạo XH
của con người. Trong
XH có giai cấp phải
thông qua đấu tranh
giai cấp, thông qua
cách mạng XH.
Quy luật quan hệ sản
xuất phù hợp với
trình độ phát triển
của lực lượng sản
xuất là quy luật phổ
biến tác động trong
toàn bộ tiến trình lịch
sử nhân loại. Sự thay
thế, phát triển của
lịch sử nhân loại từ
chế độ công xã
nguyên thủy, qua chế
độ chiếm hữu nô lệ,
chế độ phong kiến,
chế độ tư bản chủ
nghĩa và đến XH
cộng sản tương lai là
do sự tác động của
hệ thống các quy luật
XH, trong đó quy
luật quan hệ sản xuất
phù hợp với trình độ
phát triển của lực
lượng sản xuất là quy
luật cơ bản nhất.
3. Biện chứng giữa
cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng
tầng
3.1. Khái niệm cơ sở
hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng
Quan hệ sản xuất
được hình thành một
cách khách quan
trong quá trình sản
xuất tạo thành quan
hệ vật chất của XH.
Trên cơ sở quan hệ
sản xuất hình thành
nên các quan hệ về
chính trị và tinh thần
của XH. Hai mặt đó
của đời sống XH
được khái quát thành
cơ sở hạ tầng và kiến
trúc thượng tầng của
XH. C.Mác viết:
"Toàn bộ những
quan hệ sản xuất ấy
hợp thành cơ cấu KT
của XH, tức là cái cơ
sở hiện thực trên đó
dựng lên một kiến
trúc thượng tầng
pháp lý và chính trị
và những hình thái ý
thức xã hội nhất định
tương ứng với cơ sở
hiện thực đó"
a. Cơ sở hạ tầng: Cơ
sở hạ tầng là toàn bộ
những quan hệ sản
xuất hợp thành cơ cấu
KT của một XH nhất
định.
Cơ sở hạ tầng của một
XH cụ thể bao gồm
quan hệ sản xuất
thống trị, quan hệ sản
xuất tàn dư của XH cũ
và quan hệ sản xuất
mầm mống của XH
tương lai. Trong đó,
quan hệ sản xuất
thống trị bao giờ cũng
giữ vai trò chủ đạo,
chi phối các quan hệ
sản xuất khác, nó quy
định xu hướng chung
của đời sống KT -
XH. Bởi vậy, cơ sở hạ
tầng của một XH cụ
thể được đặc trưng bởi
quan hệ sản xuất
thống trị trong XH đó.
Tuy nhiên, quan hệ
sản xuất tàn dư và
quan hệ sản xuất mầm
mống cũng có vai trò
nhất định.
Như vậy, xét trong nội
bộ phương thức sản
xuất thì quan hệ sản
xuất là hình thức phát
triển của lực lượng
sản xuất, nhưng xét
trong tổng thể các
quan hệ XH thì các
quan hệ sản xuất "hợp
thành" cơ sở KT của
XH, tức là cơ sở hiện
thực, trên đó hình
thành nên kiến trúc
8
thượng tầng tương
ứng
.b. Kiến trúc
thượng tầng: Kiến
trúc thượng tầng là
toàn bộ những
quan điểm chính
trị, pháp quyền,
triết học, đạo đức,
tôn giáo, nghệ
thuật, v.v cùng
với những thiết chế
XH tương ứng như
nhà nước, đảng
phái, giáo hội, các
đoàn thể XH, v.v
được hình thành
trên cơ sở hạ tầng
nhất định.
Mỗi yếu tố của
kiến trúc thượng
tầng có đặc điểm
riêng, có quy luật
vận động phát triển
riêng, nhưng chúng
liên hệ với nhau,
tác động qua lại lẫn
nhau và đều hình
thành trên cơ sở hạ
tầng. Song, mỗi
yếu tố khác nhau
có quan hệ khác
nhau đối với cơ sở
hạ tầng. Có những
yếu tố như chính
trị, pháp luật có
quan hệ trực tiếp
với cơ sở hạ tầng;
còn những yếu tố
như triết học, tôn
giáo, nghệ thuật
chỉ quan hệ gián
tiếp với nó.
Trong XH có giai
cấp, kiến trúc
thượng tầng mang
tính giai cấp. Đó
chính là cuộc đấu
tranh về mặt chính trị
- tư tưởng của các
giai cấp đối kháng,
trong đó, đặc trưng là
sự thống trị về mặt
chính trị - tư tưởng
của giai cấp thống
trị.
Trong kiến trúc
thượng tầng của XH
có giai cấp, nhà nước
có vai trò đặc biệt
quan trọng. Nó tiêu
biểu cho chế độ
chính trị của một XH
nhất định. Nhờ có
nhà nước, giai cấp
thống trị mới thực
hiện được sự thống
trị của mình về tất cả
các mặt của đời sống
XH.
3.2. Quan hệ biện
chứng giữa cơ sở hạ
tầng và kiến trúc
thượng tầng
a) Vai trò quyết định
của cơ sở hạ tầng
đối với kiến trúc
thượng tầng
Cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng
là hai mặt của đời
sống XH, chúng
thống nhất biện
chứng với nhau,
trong đó cơ sở hạ
tầng đóng vai trò
quyết định đối với
kiến trúc thượng
tầng.
- Mỗi cơ sở hạ tầng
sẽ hình thành nên
một kiến trúc thượng
tầng tương ứng với
nó. Tính chất của
kiến trúc thượng tầng
là do tính chất của cơ
sở hạ tầng quyết
định. Trong XH có
giai cấp, giai cấp nào
thống trị về KT thì
cũng chiếm địa vị
thống trị về mặt
chính trị và đời sống
tinh thần của XH.
Các mâu thuẫn trong
KT, xét đến cùng,
quyết định các mâu
thuẫn trong lĩnh vực
chính trị tư tưởng;
cuộc đấu tranh giai
cấp về chính trị tư
tưởng là biểu hiện
những đối kháng
trong đời sống KT.
Tất cả các yếu tố của
kiến trúc thượng tầng
như nhà nước, pháp
quyền, triết học, tôn
giáo, v.v đều trực
tiếp hay gián tiếp phụ
thuộc vào cơ sở hạ
tầng, do cơ sở hạ
tầng quyết định
- Khi cơ sở hạ tầng
thay đổi thì sớm hay
muộn, kiến trúc
thượng tầng cũng
thay đổi theo. C.Mác
viết: "Cơ sở KT thay
đổi thì toàn bộ kiến
trúc thượng tầng đồ
sộ cũng bị đảo lộn ít
nhiều nhanh chóng".
Quá trình đó diễn ra
không chỉ trong giai
đoạn thay đổi từ HT
KTXH này sang HT
KTXH khác, mà còn
diễn ra ngay trong bản
thân mỗi HT KTXH.
Tuy sự thay đổi của
kiến trúc thượng tầng
cũng gắn với sự phát
triển của lực lượng sản
xuất, nhưng lực lượng
sản xuất không trực
tiếp làm thay đổi kiến
trúc thượng tầng. Sự
phát triển của lực
lượng sản xuất chỉ
trực tiếp làm thay đổi
quan hệ sản xuất, tức
trực tiếp làm thay đổi
cơ sở hạ tầng và thông
qua đó làm thay đổi
kiến trúc thượng tầng
.Sự thay đổi cơ sở hạ
tầng dẫn đến làm thay
đổi kiến trúc thượng
tầng diễn ra rất phức
tạp. Trong đó có
những yếu tố của kiến
trúc thượng tầng thay
đổi nhanh chóng cùng
với sự thay đổi cơ sở
hạ tầng như chính trị,
pháp luật, v.v Trong
kiến trúc thượng tầng,
có những yếu tố thay
đổi chậm như tôn
giáo, nghệ thuật, v.v
hoặc có những yếu tố
vẫn được kế thừa
trong XH mới. Trong
XH có giai cấp, sự
thay đổi đó phải thông
qua đấu tranh giai cấp,
thông qua cách mạng
XH.
b. Tác động trở lại
của kiến trúc thượng
9
tầng đối với cơ sở
hạ tầng
Tất cả các yếu tố
cấu thành kiến trúc
thượng tầng đều có
tác động đến cơ sở
hạ tầng. Tuy nhiên,
mỗi yếu tố khác
nhau có vai trò
khác nhau, có cách
thức tác động khác
nhau. Trong XH có
giai cấp, nhà nước
là yếu tố có tác
động mạnh nhất
đối với cơ sở hạ
tầng vì đó là bộ
máy bạo lực tập
trung của giai cấp
thống trị về KT.
Các yếu tố khác
của kiến trúc
thượng tầng như
triết học, đạo đức,
tôn giáo, nghệ
thuật, v.v cũng
đều tác động đến
cơ sở hạ tầng,
nhưng chúng đều
bị nhà nước, pháp
luật chi phối.
Trong mỗi chế độ
XH, sự tác động
của các bộ phận
của kiến trúc
thượng tầng không
phải bao giờ cũng
theo một xu hướng.
Chức năng XH cơ
bản của kiến trúc
thượng tầng thống
trị là xây dựng, bảo
vệ và phát triển cơ
sở hạ tầng đã sinh
ra nó, chống lại
mọi nguy cơ làm
suy yếu hoặc phá
hoại chế độ KT đó.
Một giai cấp chỉ có
thể giữ vững được sự
thống trị về KT
chừng nào xác lập và
củng cố được sự
thống trị về chính trị,
tư tưởng.
Sự tác động của kiến
trúc thượng tầng đối
với cơ sở hạ tầng
diễn ra theo hai
chiều. Nếu kiến trúc
thượng tầng tác động
phù hợp với các quy
luật KT khách quan
thì nó là động lực
mạnh mẽ thúc đẩy
KT phát triển; nếu
tác động ngược lại,
nó sẽ kìm hãm phát
triển KT, kìm hãm
phát triển XH.
Tuy kiến trúc thượng
tầng có tác động
mạnh mẽ đối với sự
phát triển KT, nhưng
không làm thay đổi
được tiến trình phát
triển khách quan của
XH. Xét đến cùng,
nhân tố KT đóng vai
trò quyết định đối
với kiến trúc thượng
tầng. Nếu kiến trúc
thượng tầng kìm hãm
phát triển KT thì sớm
hay muộn, bằng cách
này hay cách khác,
kiến trúc thượng tầng
cũ sẽ được thay thế
bằng kiến trúc
thượng tầng mới tiến
bộ để thúc đẩy KT
tiếp tục phát triển.
4. Phạm trù HT
KTXH. Sự phát
triển của các HT
KTXH là quá trình
lịch sử - tự nhiên
4.1. Phạm trù HT
KTXH
HTKTXH là một
phạm trù của chủ
nghĩa duy vật lịch sử
dùng để chỉ XH ở
từng giai đoạn lịch
sử nhất định, với một
kiểu quan hệ sản
xuất đặc trưng cho
XH đó phù hợp với
một trình độ nhất
định của lực lượng
sản xuất và với một
kiến trúc thượng
tầng tương ứng được
xây dựng trên những
quan hệ sản xuất ấy.
HTKTXH là một hệ
thống hoàn chỉnh, có
cấu trúc phức tạp,
trong đó có các mặt
cơ bản là lực lượng
sản xuất, quan hệ sản
xuất và kiến trúc
thượng tầng. Mỗi
mặt của HT KTXH
có vị trí riêng và tác
động qua lại lẫn
nhau, thống nhất với
nhau.
Lực lượng sản xuất
là nền tảng vật chất -
kỹ thuật của mỗi HT
KTXH. HT KTXH
khác nhau có lực
lượng sản xuất khác
nhau. Suy đến cùng,
sự phát triển của lực
lượng sản xuất quyết
định sự hình thành,
phát triển và thay thế
lẫn nhau của các HT
KTXH.
Quan hệ sản xuất là
“quan hệ cơ bản, ban
đầu và quyết định tất
cả mọi quan hệ XH
khác”
(1)
. Quan hệ sản
xuất phù hợp với trình
độ phát triển của lực
lượng sản xuất và tác
động tích cực trở lại
lực lượng sản xuất.
Mỗi HT KTXH có
một kiểu quan hệ sản
xuất đặc trưng cho nó.
Quan hệ sản xuất là
tiêu chuẩn khách quan
để phân biệt các chế
độ XH. Các quan hệ
sản xuất tạo thành cơ
sở hạ tầng của XH.
Các quan điểm về
chính trị, pháp quyền,
đạo đức, triết học
v.v các thiết chế
tương ứng được hình
thành, phát triển trên
cơ sở các quan hệ sản
xuất tạo thành kiến
trúc thượng tầng của
XH. Kiến trúc thượng
tầng được hình thành
và phát triển phù hợp
với cơ sở hạ tầng,
nhưng nó lại là công
cụ để bảo vệ, duy trì
và phát triển cơ sở hạ
tầng đã sinh ra nó.
Ngoài các mặt cơ bản
đã nêu trên, các HT
KTXH còn có quan hệ
về gia đình, dân tộc và
các quan hệ XH khác.
10
Các quan hệ đó
đều gắn bó chặt
chẽ với quan hệ
sản xuất, biến đổi
cùng với sự biến
đổi của quan hệ
sản xuất.
4.2. Sự phát triển
của các HT KTXH
là quá trình lịch
sử - tự nhiên
XH loài người đã
phát triển trải qua
nhiều HT KTXH
nối tiếp nhau. Trên
cơ sở phát hiện ra
các quy luật vận
động phát triển
khách quan của
XH, C.Mác đã đi
đến kết luận: "Sự
phát triển của
những HT KTXH
là một quá trình
lịch sử - tự nhiên"
HT KTXH là một
hệ thống, trong đó,
các mặt không
ngừng tác động
qua lại lẫn nhau tạo
thành các quy luật
vận động, phát
triển khách quan
của XH. Đó là quy
luật về sự phù hợp
của quan hệ sản
xuất với trình độ
phát triển của lực
lượng sản xuất,
quy luật cơ sở hạ
tầng quyết định
kiến trúc thượng
tầng và các quy
luật XH khác.
Chính sự tác động
của các quy luật
khách quan đó mà
các HT KTXH vận
động phát triển từ
thấp đến cao
Nguồn gốc sâu xa
của sự vận động phát
triển của XH là ở sự
phát triển của lực
lượng sản xuất.
Chính sự phát triển
của lực lượng sản
xuất đã quyết định,
làm thay đổi quan hệ
sản xuất. Đến lượt
mình, quan hệ sản
xuất thay đổi sẽ làm
cho kiến trúc thượng
tầng thay đổi theo, và
do đó mà HTKTXH
cũ được thay thế
bằng HTKTXH mới
cao hơn, tiến bộ hơn.
Quá trình đó diễn ra
một cách khách quan
chứ không phải theo
ý muốn chủ quan.
V.I. Lênin viết: "Chỉ
có đem quy những
quan hệ sản xuất vào
trình độ của những
lực lượng sản xuất
thì người ta mới có
được một cơ sở vững
chắc để quan niệm sự
phát triển của những
HTKTXH là một quá
trình lịch sử - tự
nhiên"
Con đường phát triển
của mỗi dân tộc
không chỉ bị chi phối
bởi các quy luật
chung, mà còn bị tác
động bởi các điều
kiện về tự nhiên, về
chính trị, về truyền
thống văn hóa, về
điều kiện quốc tế
v.v Chính vì vậy,
lịch sử phát triển của
nhân loại hết sức
phong phú, đa dạng.
Mỗi dân tộc đều có
nét độc đáo riêng
trong lịch sử phát
triển của mình. Có
những dân tộc lần
lượt trải qua các
HTKTXH từ thấp
đến cao; nhưng cũng
có những dân tộc bỏ
qua một hay một số
HT KTXH nào đó.
Tuy nhiên, việc bỏ
qua đó cũng diễn ra
theo một quá trình
lịch sử - tự nhiên chứ
không phải theo ý
muốn chủ quan.
Như vậy, quá trình
lịch sử - tự nhiên của
sự phát triển XH
chẳng những diễn ra
bằng con đường phát
triển tuần tự, mà còn
bao hàm cả sự bỏ
qua, trong những
điều kiện nhất định,
một hoặc một vài
HTKTXH nhất định.
4.3. Giá trị khoa học
của học thuyết
HTKTXH
Trước Mác, chủ
nghĩa duy tâm giữ
vai trò thống trị trong
khoa học XH. Sự ra
đời học thuyết HT
KTXH đã đưa lại cho
khoa học XH một
phương pháp nghiên
cứu thực sự khoa học.
Đó là:
Sản xuất vật chất là cơ
sở của đời sống XH,
phương thức sản xuất
quyết định các mặt
của đời sống XH. Cho
nên, không thể xuất
phát từ ý thức, tư
tưởng, từ ý chí chủ
quan của con người để
giải thích các hiện
tượng trong đời sống
XH mà phải xuất phát
từ phương thức sản
xuất.
XH không phải là sự
kết hợp một cách ngẫu
nhiên, máy móc giữa
các cá nhân, mà là một
cơ thể sống sinh động,
các mặt thống nhất
chặt chẽ với nhau, tác
động qua lại lẫn nhau.
Trong đó, quan hệ sản
xuất là quan hệ cơ
bản, quyết định các
quan hệ XH khác, là
tiêu chuẩn khách quan
để phân biệt các chế
độ xã hội. Điều đó cho
thấy, muốn nhận thức
đúng đời sống xã hội,
phải phân tích một
cách sâu sắc các mặt
của đời sống xã hội và
mối quan hệ lẫn nhau
giữa chúng. Đặc biệt
phải đi sâu phân tích
về quan hệ sản xuất
thì mới có thể hiểu
một cách đúng đắn về
đời sống xã hội. Chính
quan hệ sản xuất cũng
là tiêu chuẩn khách
quan để phân kỳ lịch
11
sử một cách đúng
đắn, khoa học.
Sự phát triển của
các hình thái kinh
tế - xã hội là một
quá trình lịch sử -
tự nhiên, tức diễn
ra theo các quy luật
khách quan chứ
không phải theo ý
muốn chủ quan.
Cho nên, muốn
nhận thức đúng đời
sống xã hội phải đi
sâu nghiên cứu các
quy luật vận động
phát triển của xã
hội. V.I. Lênin
viết: "Xã hội là
một cơ thể sống
đang phát triển
không ngừng (chứ
không phải là một
cái gì được kết
thành một cách
máy móc và do đó
cho phép có thể tùy
ý phối hợp các yếu
tố xã hội như thế
nào cũng được),
một cơ thể mà
muốn nghiên cứu
nó thì cần phải
phân tích một cách
khách quan những
quan hệ sản xuất
cấu thành một hình
thái xã hội nhất
định và cần phải
nghiên cứu những
quy luật vận hành
và phát triển của
hình thái xã hội
đó"
(1)
.
Kể từ khi học
thuyết hình thái
kinh tế - xã hội của
Mác ra đời cho đến
nay, loài người đã có
những bước phát
triển hết sức to lớn
về mọi mặt, nhưng
học thuyết đó vẫn
nguyên giá trị. Nó
vẫn là phương pháp
thực sự khoa học để
nhận thức một cách
đúng đắn về đời sống
xã hội. Đương nhiên,
học thuyết đó "không
bao giờ có tham
vọng giải thích tất cả,
mà chỉ có ý muốn
vạch ra một phương
pháp duy nhất khoa
học để giải thích lịch
sử"
Gần đây, trước
những thành tựu kỳ
diệu của khoa học và
công nghệ, có những
quan điểm đi đến phủ
nhận học thuyết hình
thái kinh tế - xã hội
và đòi phải thay thế
bằng cách tiếp cận
văn minh. Cách tiếp
cận này phân chia
lịch sử phát triển
nhân loại thành văn
minh nông nghiệp,
văn minh công
nghiệp, văn minh hậu
công nghiệp (hay văn
minh tin học, văn
minh trí tuệ). Thực
chất đây là phân chia
dựa vào các trình độ
phát triển kinh tế,
dựa vào trình độ
khoa học và công
nghệ. Rõ ràng, cách
tiếp cận này không
thể thay thế được học
thuyết hình thái kinh
tế - xã hội, nó không
vạch ra mối quan hệ
giữa các mặt trong
đời sống xã hội và
các quy luật vận
động, phát triển của
xã hội từ thấp đến
cao.
5. Vận dụng học
thuyết hình thái
KTXH vào sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở nước ta
5.1. Việc lựa chọn
con đường tiến lên
CNXH bỏ qua chế
độTBCN
Sau khi xây dựng
học thuyết hình thái
kinh tế - xã hội,
C.Mác đã vận dụng
học thuyết đó vào
phân tích xã hội tư
bản, vạch ra các quy
luật vận động, phát
triển của xã hội đó và
đã đi đến dự báo về
sự ra đời của hình
thái kinh tế - xã hội
cao hơn, hình thái
cộng sản chủ nghĩa,
mà giai đoạn đầu là
chủ nghĩa xã hội.
Chủ nghĩa xã hội đã
hình thành phát triển
từ sau Cách mạng
tháng Mười Nga. Khi
đó, chủ nghĩa xã hội
được xây dựng theo
mô hình kế hoạch
hóa tập trung. Mô
hình đó đã phát huy
vai trò tích cực trong
một giai đoạn lịch sử
nhất định, nhưng đến
cuối những năm 80
của thế kỷ XX đã rơi
vào khủng hoảng
nghiêm trọng, dẫn đến
chủ nghĩa xã hội hiện
thực ở Liên Xô và
Đông Âu sụp đổ. Từ
đó, có quan điểm
khẳng định chủ nghĩa
tư bản là vĩnh viễn và
phủ nhận chủ nghĩa xã
hội.
Thực ra, khủng hoảng
đó chỉ bác bỏ chủ
nghĩa xã hội theo mô
hình kế hoạch hóa tập
trung, chứ không phải
bác bỏ chủ nghĩa xã
hội với tính cách là xã
hội cao hơn chủ nghĩa
tư bản. Chính sự
khủng hoảng đó giúp
cho chúng ta nhận
thức rõ hơn về chủ
nghĩa xã hội và con
đường tiến lên chủ
nghĩa xã hội. Nếu như
cách mạng công
nghiệp thế kỷ XVIII -
XIX đã quyết định
thắng lợi của chủ
nghĩa tư bản đối với
phong kiến, thì cuộc
cách mạng khoa học
và công nghệ hiện đại
đang tạo ra những tiền
đề vật chất để thay thế
chủ nghĩa tư bản bằng
chủ nghĩa xã hội.
Vận dụng chủ nghĩa
Mác - Lênin vào điều
kiện cụ thể của nước
ta, Đảng ta khẳng
định: độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội
12
không tách rời
nhau. Đó là quy
luật phát triển của
cách mạng Việt
Nam, là sợi chỉ đỏ
xuyên suốt đường
lối cách mạng của
Đảng. Việc Đảng
ta luôn luôn kiên
định con đường
tiến lên chủ nghĩa
xã hội là phù hợp
với xu hướng của
thời đại và điều
kiện cụ thể của
nước ta.
Chủ nghĩa xã hội
mà nhân dân ta xây
dựng là một xã hội:
do nhân dân lao
động làm chủ; có
một nền kinh tế
phát triển cao dựa
trên lực lượng sản
xuất hiện đại và
chế độ công hữu về
các tư liệu sản xuất
chủ yếu; có nền
văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân
tộc; con người
được giải phóng
khỏi áp bức, bóc
lột, bất công, làm
theo năng lực,
hưởng theo lao
động, có cuộc sống
ấm no, tự do, hạnh
phúc, có điều kiện
phát triển toàn diện
cá nhân; các dân
tộc trong nước
bình đẳng, đoàn
kết, giúp đỡ lẫn
nhau cùng tiến bộ;
có quan hệ hữu
nghị và hợp tác với
nhân dân tất cả các
nước trên thế giới.
Mục tiêu của chúng
ta là: "Xây dựng một
nước Việt Nam dân
giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân
chủ, văn minh".
"Con đường đi lên
của nước ta là sự
phát triển quá độ lên
chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ tư bản
chủ nghĩa, tức là bỏ
qua việc xác lập vị trí
thống trị của quan hệ
sản xuất và kiến trúc
thượng tầng tư bản
chủ nghĩa, nhưng
tiếp thu, kế thừa
những thành tựu mà
nhân loại đã đạt được
dưới chế độ tư bản
chủ nghĩa, đặc biệt
về khoa học và công
nghệ để phát triển
nhanh lực lượng sản
xuất, xây dựng nền
kinh tế hiện đại.
Xây dựng chủ nghĩa
xã hội bỏ qua chế độ
tư bản chủ nghĩa, tạo
ra sự biến đổi về chất
của xã hội trên tất cả
các lĩnh vực là sự
nghiệp rất khó khăn,
phức tạp, nên phải
trải qua một thời kỳ
quá độ lâu dài với
nhiều chặng đường,
nhiều hình thức tổ
chức kinh tế, xã hội
có tính chất quá độ.
Trong các lĩnh vực
của đời sống xã hội
diễn ra sự đan xen và
đấu tranh giữa cái
mới và cái cũ"
5.2. Xây dựng và
phát triển nền KTTT
định hướng XHCN
Trong quá trình xây
dựng xã hội ở nước
ta, "Đảng và Nhà
nước ta chủ trương
thực hiện nhất quán
và lâu dài chính sách
phát triển nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành
phần vận động theo
cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà
nước theo định
hướng xã hội chủ
nghĩa, đó chính là
nền kinh tế thị
trường định hướng
xã hội chủ nghĩa"
Ngày nay, tất cả các
nước đều phải xây
dựng và phát triển
kinh tế thị trường.
Tuy nhiên, trong chế
độ xã hội khác nhau,
kinh tế thị trường
được sử dụng với
mục đích khác nhau.
Trong các nước tư
bản, đó là kinh tế thị
trường tư bản chủ
nghĩa. Ở nước ta, đó
là kinh tế thị trường
định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường là
thành tựu chung của
văn minh nhân loại.
Nó là kết quả của sự
phát triển lực lượng
sản xuất đến một
trình độ nhất định,
kết quả của quá trình
phân công lao động xã
hội, đa dạng hóa các
hình thức sở hữu, đồng
thời nó là động lực
mạnh mẽ thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát
triển.
Theo quan điểm của
Đảng ta, "kinh tế thị
trường định hướng xã
hội chủ nghĩa có
nhiều hình thức sở
hữu, nhiều thành phần
kinh tế, trong đó kinh
tế nhà nước giữ vai
trò chủ đạo; kinh tế
nhà nước cùng với
kinh tế tập thể ngày
càng trở thành nền
tảng vững chắc"
.Xây dựng và phát
triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã
hội chủ nghĩa vừa phù
hợp với xu hướng phát
triển chung của nhân
loại, vừa phù hợp với
yêu cầu phát triển của
lực lượng sản xuất ở
nước ta; với yêu cầu
của quá trình xây
dựng nền kinh tế độc
lập, tự chủ kết hợp với
chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế. Đảng
ta khẳng định: "Mục
đích của nền kinh tế
thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa là
phát triển lực lượng
sản xuất, phát triển
kinh tế để xây dựng cơ
sở vật chất - kỹ thuật
của chủ nghĩa xã hội,
nâng cao đời sống
nhân dân. Phát triển
13
lực lượng sản xuất
hiện đại gắn liền
với xây dựng quan
hệ sản xuất mới
phù hợp trên cả ba
mặt sở hữu, quản
lý và phân phối"
Kinh tế thị trường
định hướng xã hội
chủ nghĩa không
thể tách rời vai trò
quản lý của Nhà
nước xã hội chủ
nghĩa. "Nhà nước
ta là Nhà nước xã
hội chủ nghĩa quản
lý nền kinh tế bằng
pháp luật, chiến
lược, quy hoạch,
kế hoạch, chính
sách, sử dụng cơ
chế thị trường, áp
dụng các hình thức
kinh tế và phương
pháp quản lý của
kinh tế thị trường
để kích thích sản
xuất, giải phóng
sức sản xuất, phát
huy mặt tích cực,
hạn chế và khắc
phục mặt tiêu cực
của cơ chế thị
trường, bảo vệ lợi
ích nhân dân lao
động của toàn thể
nhân dân
5.3. Công nghiệp
hóa, hiện đại hóa
với sự nghiệp xây
dựng CNXH ở
nước ta
Nước ta tiến lên
chủ nghĩa xã hội từ
một nền kinh tế
phổ biến là sản xuất
nhỏ, lao động thủ
công là phổ biến. Cái
thiếu thống nhất của
chúng ta là một nền
đại công nghiệp.
Chính vì vậy, chúng
ta phải tiến hành
công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Trong
thời đại ngày nay,
công nghiệp hóa phải
gắn liền với hiện đại
hóa. Công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở
nước ta là nhằm xây
dựng cơ sở vật chất
kỹ thuật cho chủ
nghĩa xã hội. Đó là
nhiệm vụ trung tâm
trong suốt thời kỳ
quá độ tiến lên chủ
nghĩa xã hội ở nước
ta.
Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX của
Đảng ta đã chỉ ra:
"Con đường công
nghiệp hóa, hiện đại
hóa của nước ta cần
và có thể rút ngắn
thời gian, vừa có
những bước tuần tự,
vừa có bước nhảy
vọt. Phát huy những
lợi thế của đất nước,
tận dụng mọi khả
năng để đạt trình độ
công nghệ tiên tiến,
đặc biệt là công nghệ
thông tin và công
nghệ sinh học, tranh
thủ ứng dụng ngày
càng nhiều hơn, ở
mức cao hơn và phổ
biến hơn những thành
tựu mới về khoa học
và công nghệ, từng
bước phát triển kinh
tế tri thức. Phát huy
nguồn lực trí tuệ và
sức mạnh tinh thần
của người Việt Nam;
coi phát triển giáo
dục và đào tạo, khoa
học và công nghệ là
nền tảng và động lực
của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
Từ năm 1996, đất
nước ta đã chuyển
sang giai đoạn đẩy
mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa,
phấn đấu đến năm
2020 cơ bản trở thành
một nước công
nghiệp. Đây cũng là
yếu tố có ý nghĩa
quyết định chống lại
"nguy cơ tụt hậu xa
hơn về kinh tế so với
nhiều nước trong khu
vực và trên thế giới".
Sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở
nước ta chỉ thực sự
thành công chừng
nào thực hiện thành
công sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
5.4. Kết hợp chặt chẽ
giữa phát triển KTế
với CT và các mặt
khác của đời sống
xã hội
Gắn liền với phát
triển kinh tế, xây
dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, đẩy
mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước,
phải không ngừng đổi
mới hệ thống chính trị,
nâng cao vai trò lãnh
đạo và sức chiến đấu
của Đảng, xây dựng
nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa, nâng
cao vai trò của các tổ
chức quần chúng, phát
huy sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân trong sự
nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
Đồng thời với phát
triển kinh tế, phải phát
triển văn hóa, xây
dựng nền văn hóa tiên
tiến đậm đà bản sắc
dân tộc nhằm không
ngừng nâng cao đời
sống tinh thần của
nhân dân; phát triển
giáo dục và đào tạo
nhằm nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực và
bồi dưỡng nhân tài;
giải quyết tốt các vấn
đề xã hội, thực hiện
công bằng xã hội
nhằm thực hiện mục
tiêu: "dân giàu, nước
mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn
minh".
Tóm lại, học thuyết
hình thái kinh tế - xã
hội là một học thuyết
khoa học. Trong điều
kiện hiện nay, học
thuyết đó vẫn giữ
nguyên giá trị. Nó đưa
lại một phương pháp
thực sự khoa học để
phân tích các hiện
14
tng trong i
sng xó hi t
ú vch ra phng
hng v gii phỏp
ỳng n cho hot
ng thc tin.
Hc thuyt ú ó
c ng ta vn
dng mt cỏch
sỏng to trong iu
kin c th ca
nc ta, vch ra
ng li ỳng n
cho s nghip xõy
dng v bo v T
quc.
Ngh quyt i hi
IX ó ch ra:
"Chin lc phỏt
trin kinh t - xó
hi 10 nm 2001 -
2010 nhm: a
nc ta ra khi tỡnh
trng kộm phỏt
trin, nõng cao rừ
rt i sng vt
cht v tinh thn
ca nhõn dõn, to
nn tng n
nm 2020 nc ta
c bn tr thnh
mt nc cụng
nghip theo hng
hin i. Ngun
lc con ngi,
nng lc khoa hc
v cụng ngh, kt
cu h tng, tim
lc kinh t, quc
phũng, an ninh
c tng cng;
th ch kinh t th
trng nh hng
xó hi ch ngha
c hỡnh thnh v
c bn; v th ca
nc ta trờn trng
quc t c nõng
cao".
2/ KT-CT: KTTT
nh hng XHCN
Vit Nam;
Cõu 1: Nội dung
và những giải pháp
của nền KT TT định
hớngXHCN, Lhệ địa
phơng
Thị trờng (TT) là
bộ phân quan trọng
trong kinh tế TT (KT
15
TT), nó phản ánh
tỏng hợp giữa các
bộ phận của nền
KTQD, giữa khả
năgn cung cấp HH
của XH. Theo
Mác- ăngghen thì
TT có nghĩa là lĩnh
vực trao đổi, nó
gắn liền vớ phân
công lđ XH Hể ở
đâu và khi nào có
phân công lđ XH
thì ở đó có TT. Vì
vậy, theo quan
điểm của Mác-
ăngghen và dới
góc độ kinh tế
chính ttrị thì YY là
tổng hoà các mqh
mua bán trong XH
và đợc hình thành
tù lsử KT-XH nhất
định.
Kink tế thị th-
ờng (KT TT) xuất
hiện nh là một yêu
cầu khách quan
không thể thiếu đ-
ợc của nền KT
hàng hoá. Xét về
mặt lịch sử, KT
hàng hoá có trớc
KT TT. KT hàng
hoá là một sp của
quá trình phát triển
của llsx của XH
loài ngời, nó ra đời
và tồn tại trong
nhiều ptsx XH. Với
sự tăng trởng của
KT hàng hoá, TT
đợc mở rộng,
phong phú đồng
bộ, các quan hệ TT
tơng đối hoàn thiện
mới có KT TT. Nh
vậy, KT TT không
phải là một giai
đoạn khác biệt, độc
lập đứng ngoài KT
hàng hoá mà là giai
đoạn cao của KT
hàng hoá, mọi sự
mua bán của các
nhân, của các đơn
vị SX kinh doanh
điều phải thông
qua TT. KT TT tồn
tại và phát triển
cùng với sự tồn tại và
phát triển của KT HH
do vậy KT TT là một
phạm trù lịch sử.
Từ khi KT TT ra
đời đến nay ta khái
quát lại trên thế giới
có ba mô hình KT
nh sau:
- KT tự do cạnh
tranh là nền KT dựa
vào sự điều tiết phát
triển của các quy luật
KT trong nền sản
xuất hàng hoá. Trong
nền KT này nhà nớc
không trực tiếp can
thiệp vào phát triển
KT mà chỉ tạo môi
trờng thuận lợi cho
sự tự do cạnh tranh
lành mạnh, nhất là
môi trờng pháp lý.
- KT chỉ huy mà
điển hình là nền KT
tập trung bao cấp:
Trong mô hình này
NN mà cụ thể là
UBKH NN quyết
định việc phân bố
nguồn lực , hớng dẫn
đầu t hầu nh không
tính đến nhu cầu TT.
- KT TT có sự
quản lý của nhà nớc (
KT hỗn hợp). Thực
tiễn đã chứng tỏ hai
mô hình KT trên
không còn phù hợp
nữa. Các nớc trên thế
giới đã chuyển theo
mô hình KT hỗn hơp,
tức là kết hợp KT TT
tự do cạnh tranh với
sự điều tiết vĩ mô của
NN. Trong quá trình
đổi mới, ở nớc ta
cũng chuyển từ nền
KT tập trung, quan
liêu, bao cấp sang
nền KT thị trơng có
sự điều tiết của nhà
nớc. Đó là nền KT
hàng hoá nhiều thành
phần, vận động theo
cơ chế TT có sự quản
lý của nhà nớc.
Nội dung (Bản
chất) KT TT định h-
ớng XHCN:
Nền KT TT định
hớng XHCNvừa
mang tính chất
chung, vừa mang tính
chất đặc riêng, dựa
trên nguyên tắc và
bản chất chủ nghĩa
xã hội thể hiện nh
sau:
- Về mặt lý luận:
Xây dựng KT TT
định hớng XHCN
dựa trên nền tảng
quan điểm KT của
chủ nghĩa Mac -
Lênin và t tởng Hồ
Chí Minh lấy chế
động công hữu làm
chủ thể.
- Về chính trị:
chúng ta xây dựng
KT TT định hớng
XHCN gắn liền vói
XD NN pháp quyền
XHCN, NN của dân
do dân và vì dân, do
Đảng cộng sản Việt
Nam lãnh đạo. Phát
triển KT TT không
phải là chạy theo lợi
nhuận theo kiểu kinh
doanh đơn thuần mà
cái chính là để thúc
đẩy toàn bộ nền KT
phát triển đồng bộ
vững chắc. Quan
trọng là sự điều hành
của NN không để
xảy ra mâu thuẫn nh
sâu sắc nh KT TT
TBCN. Mọi sự phát
triển đều phải xoay
quanh đất nớc phồn
vinh, nhân dân giàu
mạnh ấm no hạnh
phúc.
- Về KT chúng ta
XD KT TT định hớng
XHCN gắn liền với
phát triển nền KT
hàng hoá nhiều thành
phần lấy thành phần
KT nhà nớc làm chủ
đạo cùng với KT tập
thể làm nền tảng của
nền KTQD. Mọi tp
KT đều bình đẳng tr-
ớc pháp luật, mọi chủ
thể KT đều có lợi ích
nh nhau trong KD.
Nhng các tp KT phải
tuân thủ định hớng
phát triển KT của NN
ở mỗi thời kỳ và giai
đoạn nhất định. Với
vai trò chủ đạo của KT
NN , một mặt không
ngừng phát triển SX
làm cho KT tăng trởng
nhanh và bền vững
đáp ứng sự nghiệp
CNH, HĐH một mặt
giải quyết những vấn
đề bức xúc của XH,
nâng cao đời sống tinh
thần cho nd.
- Về văn hoá,
chúng ta xây dựng nền
văn hoá đậm đà bản
sắc dân tộc, không
chấp nhận kiểu văn
hoá phơng tây trái với
đạo lý của dân tộc
Việt Nam.
- Về phân phối:
chúng ta XD KT TT
XHCN gắn liền với
XD các hình thức
phân phối, trong đó
lấy PP theo lđ làm chủ
đạo. ai cũng có quyền
và nghĩa vụ lđ, ai cũng
đợc hởng thành quả lđ
do mình làm ra không
phân biệt đối sử khi sự
cống hiến và đóng góp
nh nhau.
- Về mục tiêu,
chúng ta phấn đấu
phát triển nền KT TT
định hớng XHCN gắn
với mục tiêu dân giàu
nớc mạnh, XH công
bằng dân chủ văn
minh, từng bớc đa ng-
ời lđ ra khỏi môi trờng
bóc lột của thành phần
KT t nhân, tạo đk cho
họ p/triển toàn diện trở
thành chủ thể đích
thực của XH.
* Những giải pháp
chủ yếu để phát triển
nền KT TT định hớng
XHCN ở nớc ta:
Thứ nhất: Thực
hiện nhất quán chính
sách phát triển KT
nhiều thành phần,
nâng cao hiệu quả của
16
nền KT nhà nớc v-
ơn lên đóng vai trò
chủ đạo và cùng
với KT tập thể
ngày càng trở
thành nền tảng
vững chắc của nền
KT quốc dân.
Khuyến khích
và tạo điều kiện
thuận lợi cho các
chủ thể KT thuộc
tất cả các thành
phần KT phát triển
sản xuất hàng hoá,
dịch vụ trong mọi
ngành KT quốc
dân, sắp xếp lại các
DNNN và phát
triển các hình thức
KT hợp tác kiểu
mới.
Thứ hai: Tiếp
tục đổi mới và
hoàn thiện cơ chế
quản lý KT, tạo lập
đồng bộ các loại
TT.
Phát triển mạnh
TT hàng hoá, dịch
vụ, khắc phụ trình
trạng kinh doanh
trái phép, trốn lậu
thuế; tổ chức và
quản lý tốt việc
thuê mớn và sử
dụng lao động;
quản lý chặt chẽ
việc sử dụng ruộng
đất và TT bất động
sản, hoàn thiện TT
tiền tệ, xây dựng
TT vốn và TT
chứng khoán.
Thứ ba: Nâng
cao năng lực và
hiệu lực quản lý
KT vĩ mô của nhà
nớc.
Nhà nớc thực
hiện tốt chức năng
định hớng sự phát
triển KT, kiểm kê
và kiểm soát mọi
hoạt động KT XH,
tạo lập khuôn khổ
pháp luật và hệ
thống chính sách
nhất quán, trực tiếp
đầu t vào một số
lĩnh vực thiết yếu,
nhất là kết cấu hạ
tầng để tạo ra môi tr-
ờng ổn định và thuận
lợi cho giới kinh
doanh làm ăn phát
đạt, hạn chế các hiện
tợng tiêu cực.
Tiếp tục cải cách
các thủ tục hành
chính để Nhà nớc
thực hiện đúng chức
năng quản lý vĩ mô
và chức năng chủ sở
hữu tài sản công
cộng của QG, không
cang thiệp vào chức
năng quản trị kinh
doanh và quyền tự
chủ hoạch toán của
DN
Thứ t: Nhà nớc
thực hiện các biện
pháp nhằm đảm bảo
tăng cờng KT đi đôi
với tiến bộ và công
bằng xã hội, nh thực
hiện thuế thu nhập cá
nhân và thuế thu
nhập doanh nghiệp;
thực hiện các chơng
trình xoá đói giảm
nghèo, nhất là tín
dụng cho ngời nghèo
và các chính sách xã
hội khác.
Thứ năm: Mở
rộng quan hệ KT đối
ngoại theo hớng đa
phơng hoá, đa dạng
hoá, chủ động hội
nhập KTQT theo lộ
trình phù hợp với
điều kiện của nớc ta.
Tiếp thu KHCN mới
của nớc ngoài kết
hợp với công nghệ
truyền thống của VN.
Liên hệ thực tiễn:
Cõu 2: c im
bn cht v nhng
gii phỏp ca nn
KTTT nh hng
XHCN
Kinh t th thng
xut hin nh l mt
yờu cu khỏch quan
khụng th thiu c
ca nn kinh t hng
hoỏ. Xột v mt lch
s, kinh t hng hoỏ
cú trc kinh t th
trng. Kinh t hng
hoỏ ra i thỡ th
trng cng xut
hin, nhng khụng
cú ngha l ó cú
kinh t th trng.
Vi s tng trng
ca kinh t hng hoỏ,
th trng c m
rng, phong phỳ
ng b, cỏc quan h
th trng tng i
hon thin mi cú
kinh t th trng.
Nh vy, kinh t th
trng khụng phi l
mt giai on khỏc
bit, c lp ng
ngoi kinh t hng
hoỏ m l giai on
cao ca kinh t hng
hoỏ.
Kinh t th trng
l giai on phỏt
trin cao ca kinh t
hng hoỏ, mi s
mua bỏn ca cỏc
nhõn, ca cỏc n v
SX kinh doanh iu
phi thụng qua th
trng.
T khi kinh t th
trng ra i n nay
ta khỏi quỏt li trờn
th gii cú ba mụ
hỡnh kinh t nh sau:
- Kinh t t do
cnh tranh l nn
kinh t da vo s
iu tit phỏt trin
ca cỏc quy lut kinh
t trong nn sn xut
hng hoỏ. Trong nn
kinh t ny nh nc
khụng trc tip can
thip vo phỏt trin
kinh t m ch to
mụi trng thun li
cho s t do cnh
tranh lnh mnh,
nht l mụi trng
phỏp lý.
- Kinh t th
trng cú s qun lý
ca nh nc.
- Mụ hỡnh kinh t
hn hp, thc tin ó
chng t hai mụ hỡnh
kinh t trờn khụng
cũn phự hp na.
Cỏc nc trờn th
gii ó chuyn theo
mụ hỡnh kinh t hn
hp, tc l tuyn chn
nhng mt tớch cc u
im ca hai mụi
trng kinh t trờn.
Kinh t th trng t
do cnh tranh v kinh
t cú s qun lý ca
nh nc loi b
nhng mt hn ch
tiờu cc ca hai nn
kinh t trờn hỡnh
thnh mụi trng kinh
t hn hp. Trong quỏ
trỡnh i mi nc
ta cng chuyn t nn
kinh t tp trung, quan
liờu, bao cp sang nn
kinh t th trng cú
s iu tit ca nh
nc. ú l nn kinh
t hng hoỏ nhiu
thnh phn, vn ng
theo c ch th trng
cú s qun lý ca nh
nc.
Tu theo bn cht
ca Nh nc v hon
cnh lch s c th ca
mi nc m s iu
tit s nhm mc tiờu
kinh t - xó hi khỏc
nhau, u tiờn li ớch
ca giai cp hay tng
lp xó hi ny hoc
ca giai cp hay tng
lp ca xó hi khỏc;
mc can thip ca
Nh nc nhiu hay ớt
hn
(* Tn ti) - Kinh t
th trng khụng
nhng tn ti trong
cụng cuc xõy dng
ch ngha xó hi m
c trong ch ngha xó
hi.
Trc õy thnh
hnh mt quan im
sai lm i lp mt
cỏch gin n ch
ngha xó hi vi ch
ngha t bn, t ú i
lp ch ngha xó hi
vi kinh t th trng.
Nguyờn nhõn dn
n sai lm ú ch
yu l:
Nhn thc khụng
ỳng v iu kin ra
i v tn ti ca sn
xut hng hoỏ.
Hai iu kin ra i
v tn ti ca sn xut
17
hàng hoá là phân
công lao động xã
hội và chế độ tư
hữu về tư liệu sản
xuất. Mặt khác, lại
quá nhấn mạnh chế
độ tư hữu hàng
ngày hàng giờ đẻ
ra chủ nghĩa tư bản
nên đã nóng vội
xoá bỏ ngay chế độ
tư hữu khi lực
lượng sản xuất còn
tiến nhanh, tiến
mạnh lên chủ nghĩa
xã hội, từ đó đi tới
kết luận sai lầm
rằng vì không còn
chế độ tư hữu nên
cũng không còn
sản xuất hàng hoá
nữa.
Do chủ quan
duy ý chí nên đã
hiểu sai và vận
dụng không đúng
những quan điểm
kinh tế của C.Mác
như:
Đến chủ nghĩa
cộng sản không
còn thương nghiệp
(không còn quan
hệ hàng - tiền)
nhưng trong những
năm bao cấp nền
kinh tế chúng ta
còn nhiều khó khăn
sản xuất hàng hóa
chưa phát triển.
Chúng ta cũng hạn
chế quan hệ hàng -
tiền, hạn chế
thương nghiệp với
tư cách là một nhà
buôn lớn trong xã
hội.
Kinh tế thị
trường tồn tại và
phát triển cùng với
sự tồn tại và phát
triển của kinh tế
hàng hoá do vậy
kinh tế thị trường
là một phạm trù
lịch sử.
(*Đặc điểm)
Qua những năm
đổi mới nước ta
thành công trong
việc chuyển từ nền
kinh tế kế hoạch
hoá tập trung, bao
cấp sang nền kinh
tế thị trương có sự
quản lý của Nhà
nước mà vẫn bảo
đảm tăng trưởng kinh
tế và cải thiện đời
sống của nhân dân.
Tuy vậy, nền kinh tế
thị trường ở nước ta
mới ở giai đoạn sơ
khai, chưa đạt đến
trình độ một nền kinh
tế thị trường hiện đại,
thể hiện ở những đặc
điểm sau:
- Phân công lao
động kém phát triển,
thị trường chưa mở
rộng. Số lượng sản
xuất ra hàng hoá còn
ít, chất lượng hàng
hoá chưa cao, chủng
loại và kiểu dáng
hàng hoá còn đơn
điệu nghèo nàng, sức
cạnh tranh của hàng
hoá còn thấp. Nhưng
giá thành của hàng
hoá lại cao, kim
ngạch xuất khẩu của
hàng hoá còn nhiều
bất cập, thiếu sự ổn
định.
Cơ sở vật chất
kinh tế kết cấu hạ
tầng tuy có phát triển
nhưng chưa đồng bộ
vẫn còn nhiều yếu
kém. Trình độ dân trí
còn thấp không đồng
điều giữa các vùng,
các miền ở các địa
phương.
- Thị trường phát
triển chưa đồng bộ,
những yếu tố thị
trường còn nhiều hạn
chế, một số thị
trường có tính chất
manh nha.
Do giao thông vận
tải kém phát triển
nên chưa lôi cuốn
được tất cả các vùng
trong nước vào một
mạng lưới giao thông
hàng hoá thống nhất.
Thị trường hàng
hoá - dịch vụ đã hình
thành nhưng còn hạn
hẹp và nhiều hiện
tượng tiêu cực.
Thị trường sức lao
động mới manh nha,
đã ra đời một số
trung tâm giới thiệu
việc làm và xuất
khẩu lao động,
nhưng đã nảy sinh
những hiện tượng
tiêu cực. Nét nổi bật
của thị trường này là
cung về sức lao động
lành nghề nhỏ hơn
cầu rất nhiều, trong
khi đó cung về sức
lao động đơn giản lại
vượt quá xa cầu,
nhiều người có sức
lao động không tìm
đực việc làm.
Thị trường tiền tệ,
thị trường vốn đã có
nhiều tiến bộ nhưng
vẫn còn nhiều trắc
trở, như nhiều doanh
nghiệp, nhất là doanh
nghiệp tư nhân rất
thiếu vốn nhưng
không vay được vì
vướng mắc thủ tục,
trong khi đó nhiều
ngan hàng thương
mại huy động được
tiền gửi mà không
thể cho vay để ứ
đọng lại trong két.
Thị trường chứng
khoán ra đời nhưng
cũng chưa có nhiều
“hàng hóa” để mua -
bán và mới có ít
doanh nghiệp đủ điều
kiện tham gia thị
trường này.
- Ngoài những đặc
điểm trên, nền kinh
tế ở nước ta nhiều
thành phần còn đan
xen các loại hình sản
xuất hàng hoá như
sản xuất hàng hoá tư
bản chủ nghĩa, sản
xuất hàng hoá xã hội
chủ nghĩ, sản xuất
hàng hoá nhỏ Tạo
nền sản xuất năng
động nhưng rất phức
tạp.
- Nền kinh tế của
nước ta phát triển
theo hai hướng từ
kinh tế tự cung tự
cấp lên sản xuất hàng
hoá và từ kinh tế
hiện vật bao cấp lên
sản xuất hàng hoá.
Quá trình trên đòi
hỏi sự phát triển
phân công lao động xã
hội, phát triển kết cấu
hạn tầng , qú trình
dưới lại đòi hỏi xoá bỏ
cơ chế quản lý cũ,
hình thành và hoàn
thiện cơ chế quản lý
mới. Phải kết hợp giữa
hai quá trình này mới
có thể phát triển sản
xuất hàng hoá ở nước
ta.
- Sự hình thành thị
trường trong nước gắn
với việc mở rộng quan
hệ kinh tế đối ngoại,
hội nhập vào thị
trường khu vực và thế
giới, trong hoàn cảnh
trình độ phất triển
kinh tế - kỹ thuật của
nước ta thấp xa so với
hầu hết các nước khác.
Toàn cầu hoá và
khu vực hoá về kinh tế
đang đặt ra cho các
nước đang phát triển
nói chung và nước ta
nói riêng những thách
thức hết sức gay gắt.
Nhưng đó là xu thế
tất yếu khách quan,
nên không thể đặt vấn
đề tham gia hay không
thâm gia mà chỉ có thể
đặt vấn đề: tìm cách
xử sự với xu hướng đó
như thế nào? Phải chủ
động hội nhập, chuẩn
bị tốt để chủ động
tham gia vào khu vực
hoá và toàn cầu hoá,
tìm ra “cái mạnh
tương đối” của nước
ta, thực hiện đa
phương hoá, đa dạng
hoá kinh tế đối ngoại,
tận dụng ngoại lực để
phát huy nội lực,
nhằm thúc đẩy công
nghiệp hoá, hiện đại
hoá nền kinh tế quốc
dân, định hướng lên
chủ nghĩa xã hội.
- Quản lý nhà nước
kinh tế - xã hội còn
yếu kém. Trong văn
kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VIII
của Đảng ta nhận định
về vấn đề này như sau:
Hệ thống luật pháp, cơ
chế, chính sách chưa
đồng bộ và nhất quán,
18
thực hiện chưa
nghiêm.
Trước mắt để
thực hiện: dân giàu
nước mạnh xã hội
công bằng dân chủ
văn minh. Nhà
nước ta phải thực
hiện chính sách
xoá đói giảm
nghèo.
(Bản chất)*
Kinh tế thị trường
là một kiểu tổ chức
kinh tế - xã hội
trong đó quá trình
sản, phân phối, trao
đổi và tiêu dùng
gắn liền với thị
trường, thực hiện
thông qua thị
trường.
Nền kinh tế thị
trường định hướng
xã hội chủ nghĩa
vừa mang tính chất
chung, vừa mang
tính chất đặc riêng,
dựa trên nguyên
tắc và bản chất chủ
nghĩa xã hội. Sắc
thái ấy - định
hướng xã hội chủ
nghĩa thể hiện như
sau:
- Phải tôn trọng
quyền tự chủ trong
quá trình sản xuất
kinh doanh của cá
nhân cũng như của
tập thể. Tạo ra
được môi trường tự
do lành mạnh
(cạnh tranh theo
đúng pháp luật).
Có sự điều tiết vĩ
mô hợp lý của Nhà
nước, hệ thống
pháp luật đồng bộ.
Tất cả những người
sản xuất kinh
doanh điều phải
tuân theo thống lệ
luật pháp quốc tế.
- Về mặt lý luận
kinh tế thị trường
định hướng xã hội
chủ nghĩa dựa trên
nền tảng quan điểm
kinh tế của chủ
nghĩa Mac - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí
Minh lấy chế động
công hữu làm nền
tảng.
Về chính trị,
chúng ta xây dựng
Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ
nghĩa, Nhà nước của
dân do dân và vì dân,
do Đảng cộng sản
Việt Nam lãnh đạo.
Về kinh tế chúng
ta phát triển nền kinh
tế hàng hoá nhiều
thành phần lấy thành
phần kinh tế nhà
nước làm chủ đạo
cùng với kinh tế tập
thể làm nền tảng để
định hướng các thành
phần kinh tế khác,
vận động theo quỹ
đạo xã hội chủ nghĩa.
Về văn hoá, chúng
ta xây dựng nền văn
hoá đậm đà bản sắc
dân tộc, không chấp
nhận kiểu văn hoá
phương tây trái với
đạo lý của dân tộc
Việt Nam.
Về mục tiêu,
chúng ta phấn đấu
phát triển nền kinh tế
thị trường định
hướng xã hội chủ
nghĩa dần dần đưa
người lao động ra
khỏi môi trường bóc
lột của thành phần
kinh tế tư nhân, tạo
điều kiện cho ho phát
triển toàn diện trở
thành người chủ thể
của đất nước.
* Để phát triển
nền kinh tế thị
trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở
nước ta cần thực hiện
những giải pháp chủ
yếu sau đây:
- Thực hiện nhất
quán chính sách phát
triển kinh tế nhiều
thành phần, nâng cao
hiệu quả của nền
kinh tế nhà nước
vươn lên đóng vai trò
chủ đạo và cùng với
kinh tế tập thể ngày
càng trở thành nền
tảng vững chắc của
nền kinh tế quốc dân.
Khuyến khích và
tạo điều kiện thuận
lợi cho các chủ thể
kinh tế thuộc tất cả
các thành phần kinh
tế phát triển sản xuất
hàng hoá, dịch vụ
trong mọi ngành kinh
tế quốc dân, sắp xếp
lại các doanh nghiệp
nhà nước và phát
triển các hình thức
kinh tế hợp tác kiểu
mới.
- Tiếp tục đổi mới
và hoàn thiện cơ chế
quản lý kinh tế, tạo
lập đồng bộ các loại
thị trường.
Phát triển mạnh
thị trường hàng hoá,
dịch vụ, khắc phụ
trình trạng kinh
doanh trái phép, trốn
lậu thuế; tổ chức và
quản lý tốt việc thuê
mướn và sử dụng lao
động; quản lý chặt
chẽ việc sử dụng
ruộng đất và thị
trường bất động sản,
hoàn thiện thị trường
tiền tệ, xây dựng thị
trường vốn và thị
trường chứng khoán.
- Nâng cao năng
lực và hiệu lực quản
lý kinh tế vĩ mô của
nhà nước.
Nhà nước thực
hiện tốt chức năng
định hướng sự phát
triển kinh tế, kiểm kê
và kiểm oát mọi hoạt
động kinh tế - xã hội,
tạo lập khuôn khổ
pháp luật và hệ thống
chính sách nhất quán,
trực tiếp đầu tư vào
một số lĩnh vực thiết
yếu, nhất là kết cấu
hạ tầng để tạo ra môi
trường ổn định và
thuận lợi cho giới
kinh doanh làm ăn
phát đạt, hạn chế các
hiện tượng tiêu cực.
Tiếp tục cải cách
các thủ tục hành
chính để Nhà nước
thực hiện đúng chức
năng quản lý vĩ mô
và chức năng chủ sở
hữu tài sản công
cộng của quốc gia,
không cang thiệp vào
chức năng quản trị
kinh doanh và quyền
tự chủ hoạch toán của
doanh nghiệp
- Nhà nước thực
hiện các biện pháp
nhằm đảm bảo tăng
cường kinh tế đi đôi
với tiến bô và công
bằng xã hội, như thực
hiện thuế thu nhập cá
nhân và thuế thu nhập
doanh nghiệp; thực
hiện các chương trình
xoá đói giảm nghèo,
nhất là tín dụng cho
người nghèo và các
chính sách xã hội
khác.
(KL*) Trên cơ sở
đánh giá và nhìn thẳng
vào khuyết điểm, cũng
như rút ra được những
bài học kinh nghiệm
của quá trình sụp đổ
của các nước xã hội
chủ nghĩa trước đây.
Năm 1986 Đại hội VI
Đảng ta đã đưa ra
quan niệm mới về con
đường và phương
pháp xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Đặc biệt
là quan niệm thời kỳ
quá độ và cơ cấu kinh
tế thừa nhận sự tồn tại
khách quan của sản
xuất hàng hoá và thị
trường. Đến Đại hội
VII Đảng ta khẳng
định rõ hơn về phát
triển kinh tế hàng hoá
nhiều thành phần vận
động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý
của Nhà nước. Tại Đại
hội VIII Đảng ta kết
luận hết sức quan
trọng sản xuất hàng
hoá không đối lập với
chủ nghĩa xã hội mà là
thành tựu phát triển
của nền văn minh
nhân loại tồn tại khách
quan cho công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã
hội và cả đi lên chủ
nghĩa xã hội đã được
xây dựng hoàn thiện.
Trong Đại hội IX một
lần nữa Đảng ta lại
tiếp tục khẳng định
phát triển kinh tế thị
19
trng nh hng
xó hi ch ngha l
ng li chin
lc nht quỏn l
mụ hỡnh kin t tng
quỏt trong sut thi
k quỏ lờn ch
ngha xó hi VN.
õy l kt qu sau
nhiu nm nghiờn
cu tỡm tũi tng kt
trong thc tin v l
bc phỏt trin mi
v t duy lý lun ca
ng ta trong iu
kin kinh t th
trng.
Câu 3: Đặc
điểm bản chất và
những giải pháp
của nền KTTT
định hớng XHCN,
Liên hệ địa phơng
KT thị thờng xuất
hiện nh là một yêu
cầu khách quan
không thể thiếu đợc
của nền KT hàng
hoá. Xét về mặt lịch
sử, KT hàng hoá có
trớc KT thị trờng.
KT hàng hoá ra đời
thì thị trờng cũng
xuất hiện, nhng
không có nghĩa là đã
có KT thị trờng. Với
sự tăng trởng của KT
hàng hoá, thị trờng
đợc mở rộng, phong
phú đồng bộ, các
quan hệ thị trờng t-
ơng đối hoàn thiện
mới có KT thị trờng.
Nh vậy, KT thị trờng
không phải là một
giai đoạn khác biệt,
độc lập đứng ngoài
KT hàng hoá mà là
giai đoạn cao của KT
hàng hoá.cô
KT thị trờng là
giai đoạn phát triển
cao của KT hàng
hoá, mọi sự mua bán
của các nhân, của
các đơn vị SX kinh
doanh điều phải
thông qua thị trờng.
Từ khi KT thị tr-
ờng ra đời đến nay ta
khái quát lại trên thế
giới có ba mô hình
KT nh sau:
- KT tự do cạnh
tranh là nền KT dựa
vào sự điều tiết phát
triển của các quy luật
KT trong nền sản xuất
hàng hoá. Trong nền
KT này nhà nớc không
trực tiếp can thiệp vào
phát triển KT mà chỉ
tạo môi trờng thuận lợi
cho sự tự do cạnh tranh
lành mạnh, nhất là môi
trờng pháp lý.
- KT thị trờng có sự
quản lý của nhà nớc.
- Mô hình KT hỗn
hợp, thực tiễn đã chứng
tỏ hai mô hình KT trên
không còn phù hợp
nữa. Các nớc trên thế
giới đã chuyển theo mô
hình KT hỗn hơp, tức
là tuyển chọn những
mặt tích cực u điểm
của hai môi trờng KT
trên. KT thị trờng tự do
cạnh tranh và KT có sự
quản lý của nhà nớc
loại bỏ những mặt hạn
chế tiêu cực của hai
nền KT trên để hình
thành môi trờng KT
hỗn hợp. Trong quá
trình đổi mới ở nớc ta
cũng chuyển từ nền KT
tập trung, quan liêu,
bao cấp sang nền KT
thị trơng có sự điều tiết
của nhà nớc. Đó là nền
KT hàng hoá nhiều
thành phần, vận động
theo cơ chế thị trờng
có sự quản lý của nhà
nớc.
Tuỳ theo bản chất
của Nhà nớc và hoàn
cảnh lịch sử cụ thể của
mỗi nớc mà sự điều tiết
sẽ nhằm mục tiêu KT -
xã hội khác nhau, u
tiên lợi ích của giai cấp
hay tầng lớp xã hội này
hoặc của giai cấp hay
tầng lớp của xã hội
khác; mức độ can thiệp
của Nhà nớc nhiều hay
ít hơn
(* Tồn tại) - KT thị
trờng không những tồn
tại trong công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội
mà cả trong chủ nghĩa
xã hội.
Trớc đây thịnh
hành một quan điểm
sai lầm đối lập một
cách giản đơn chủ
nghĩa xã hội với chủ
nghĩa t bản, từ đó đối
lập chủ nghĩa xã hội
với KT thị trờng.
Nguyên nhân dẫn
đến sai lầm đó chủ yếu
là:
Nhận thức không
đúng về điều kiện ra
đời và tồn tại của sản
xuất hàng hoá.
Hai điều kiện ra đời
và tồn tại của sản xuất
hàng hoá là phân công
lao động xã hội và chế
độ t hữu về t liệu sản
xuất. Mặt khác, lại quá
nhấn mạnh chế độ t
hữu hàng ngày hàng
giờ đẻ ra chủ nghĩa t
bản nên đã nóng vội
xoá bỏ ngay chế độ t
hữu khi lực lợng sản
xuất còn tiến nhanh,
tiến mạnh lên chủ
nghĩa xã hội, từ đó đi
tới kết luận sai lầm
rằng vì không còn chế
độ t hữu nên cũng
không còn sản xuất
hàng hoá nữa.
Do chủ quan duy ý
chí nên đã hiểu sai và
vận dụng không đúng
những quan điểm KT
của C.Mác nh:
Đến chủ nghĩa
cộng sản không còn th-
ơng nghiệp (không còn
quan hệ hàng - tiền)
nhng trong những năm
bao cấp nền KT chúng
ta còn nhiều khó khăn
sản xuất hàng hóa cha
phát triển. Chúng ta
cũng hạn chế quan hệ
hàng - tiền, hạn chế th-
ơng nghiệp với t cách
là một nhà buôn lớn
trong xã hội.
KT thị trờng tồn tại
và phát triển cùng với
sự tồn tại và phát triển
của KT hàng hoá do
vậy KT thị trờng là một
phạm trù lịch sử.
(*Đặc điểm) Qua
những năm đổi mới n-
ớc ta thành công trong
việc chuyển từ nền KT
kế hoạch hoá tập trung,
bao cấp sang nền KT
thị trơng có sự quản lý
của Nhà nớc mà vẫn
bảo đảm tăng trởng KT
và cải thiện đời sống của
nhân dân. Tuy vậy, nền
KT thị trờng ở nớc ta
mới ở giai đoạn sơ khai,
cha đạt đến trình độ một
nền KT thị trờng hiện
đại, thể hiện ở những
đặc điểm sau:
- Phân công lao động
kém phát triển, thị trờng
cha mở rộng. Số lợng sản
xuất ra hàng hoá còn ít,
chất lợng hàng hoá cha
cao, chủng loại và kiểu
dáng hàng hoá còn đơn
điệu nghèo nàng, sức cạnh
tranh của hàng hoá còn
thấp. Nhng giá thành của
hàng hoá lại cao, kim
ngạch xuất khẩu của hàng
hoá còn nhiều bất cập,
thiếu sự ổn định.
Cơ sở vật chất KT kết
cấu hạ tầng tuy có phát
triển nhng cha đồng bộ vẫn
còn nhiều yếu kém. Trình
độ dân trí còn thấp không
đồng điều giữa các vùng,
các miền ở các địa phơng.
- Thị trờng phát triển
cha đồng bộ, những yếu tố
thị trờng còn nhiều hạn
chế, một số t/trờng có tính
chất manh nha.
Do giao thông vận
tải kém phát triển nên
cha lôi cuốn đợc tất cả
các vùng trong nớc vào
một mạng lới giao thông
hàng hoá thống nhất.
Thị trờng hàng hoá -
dịch vụ đã hình thành
nhng còn hạn hẹp và
nhiều hiện tợng tiêu cực.
Thị trờng sức lao
động mới manh nha, đã
ra đời một số trung tâm
giới thiệu việc làm và
xuất khẩu lao động, nh-
ng đã nảy sinh những
hiện tợng tiêu cực. Nét
nổi bật của thị trờng này
là cung về sức lao động
lành nghề nhỏ hơn cầu
rất nhiều, trong khi đó
cung về sức lao động
đơn giản lại vợt quá xa
cầu, nhiều ngời có sức
lao động không tìm đực
việc làm.
Thị trờng tiền tệ, thị
trờng vốn đã có nhiều
tiến bộ nhng vẫn còn
nhiều trắc trở, nh nhiều
doanh nghiệp, nhất là
doanh nghiệp t nhân rất
20
thiếu vốn nhng
không vay đợc vì v-
ớng mắc thủ tục,
trong khi đó nhiều
ngan hàng thơng mại
huy động đợc tiền
gửi mà không thể
cho vay để ứ đọng
lại trong két. Thị tr-
ờng chứng khoán ra
đời nhng cũng cha
có nhiều hàng hóa để
mua - bán và mới có
ít doanh nghiệp đủ
điều kiện tham gia
thị trờng này.
- Ngoài những đặc
điểm trên, nền KT ở
nớc ta nhiều thành
phần còn đan xen các
loại hình sản xuất
hàng hoá nh sản xuất
hàng hoá t bản chủ
nghĩa, sản xuất hàng
hoá xã hội chủ nghĩ,
sản xuất hàng hoá
nhỏ Tạo nền sản
xuất năng động nhng
rất phức tạp.
- Nền KT của nớc
ta phát triển theo hai
hớng từ KT tự cung
tự cấp lên SX HH và
từ KT hiện vật bao
cấp lên SX HH.
Quá trình trên
đòi hỏi sự phát triển
phân công lao động
xã hội, phát triển kết
cấu hạn tầng , qú
trình dới lại đòi hỏi
xoá bỏ cơ chế quản
lý cũ, hình thành và
hoàn thiện cơ chế
quản lý mới. Phải kết
hợp giữa hai quá
trình này mới có thể
phát triển sản xuất
hàng hoá ở nớc ta.
- Sự hình thành
thị trờng trong nớc
gắn với việc mở rộng
quan hệ KT đối
ngoại, hội nhập vào
thị trờng khu vực và
thế giới, trong hoàn
cảnh trình độ phất
triển KT - kỹ thuật
của nớc ta thấp xa so
với hầu hết các nớc
khác.
Toàn cầu hoá và
khu vực hoá về KT
đang đặt ra cho các
nớc đang phát triển
nói chung và nớc ta
nói riêng những thách
thức hết sức gay gắt.
Nhng đó là xu thế tất
yếu khách quan, nên
không thể đặt vấn đề
tham gia hay không
thâm gia mà chỉ có thể
đặt vấn đề: tìm cách xử
sự với xu hớng đó nh
thế nào? Phải chủ động
hội nhập, chuẩn bị tốt
để chủ động tham gia
vào khu vực hoá và
toàn cầu hoá, tìm ra cái
mạnh tơng đối của nớc
ta, thực hiện đa phơng
hoá, đa dạng hoá KT
đối ngoại, tận dụng
ngoại lực để phát huy
nội lực, nhằm thúc đẩy
công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nền KT quốc
dân, định hớng lên chủ
nghĩa xã hội.
- Quản lý nhà nớc
KT - xã hội còn yếu
kém. Trong văn kiện
Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VIII của
Đảng ta nhận định về
vấn đề này nh sau: Hệ
thống luật pháp, cơ
chế, chính sách cha
đồng bộ và nhất quán,
thực hiện cha nghiêm.
Trớc mắt để thực
hiện: dân giàu nớc
mạnh xã hội công bằng
dân chủ văn minh. Nhà
nớc ta phải thực hiện
chính sách xoá đói
giảm nghèo.
(Bản chất)* KT thị
trờng là một kiểu tổ
chức KT - xã hội trong
đó quá trình sản, phân
phối, trao đổi và tiêu
dùng gắn liền với thị
trờng, thực hiện thông
qua thị trờng.
Nền KT thị trờng
định hớng xã hội chủ
nghĩa vừa mang tính
chất chung, vừa mang
tính chất đặc riêng, dựa
trên nguyên tắc và bản
chất chủ nghĩa xã hội.
Sắc thái ấy - định hớng
xã hội chủ nghĩa thể
hiện nh sau:
- Phải tôn trọng
quyền tự chủ trong quá
trình sản xuất kinh
doanh của cá nhân
cũng nh của tập thể.
Tạo ra đợc môi trờng
tự do lành mạnh (cạnh
tranh theo đúng pháp
luật). Có sự điều tiết vĩ
mô hợp lý của Nhà n-
ớc, hệ thống pháp luật
đồng bộ. Tất cả những
ngời sản xuất kinh
doanh điều phải tuân
theo thống lệ luật pháp
quốc tế.
- Về mặt lý luận
KT thị trờng định hớng
xã hội chủ nghĩa dựa
trên nền tảng quan
điểm KT của chủ nghĩa
Mac - Lênin và t tởng
Hồ Chí Minh lấy chế
động công hữu làm nền
tảng.
Về chính trị, chúng
ta xây dựng Nhà nớc
pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, Nhà nớc của
dân do dân và vì dân,
do Đảng cộng sản Việt
Nam lãnh đạo.
Về KT chúng ta
phát triển nền KT hàng
hoá nhiều thành phần
lấy thành phần KT nhà
nớc làm chủ đạo cùng
với KT tập thể làm nền
tảng để định hớng các
thành phần KT khác,
vận động theo quỹ đạo
xã hội chủ nghĩa.
Về văn hoá, chúng
ta xây dựng nền văn
hoá đậm đà bản sắc
dân tộc, không chấp
nhận kiểu văn hoá ph-
ơng tây trái với đạo lý
của dân tộc Việt Nam.
Về mục tiêu,
chúng ta phấn đấu
phát triển nền KT thị
trờng định hớng xã
hội chủ nghĩa dần
dần đa ngời lđ ra
khỏi môi trờng bóc
lột của thành phần
KT t nhân, tạo đk
cho ho p triển toàn
diện trở thành ngời
chủ thể của đất nớc.
* Để phát triển
nền KT thị trờng định
hớng XHCN ở nớc ta
cần thực hiện những
giải pháp chủ yếu sau
đây:
- Thực hiện nhất
quán chính sách phát
triển KT nhiều thành
phần, nâng cao hiệu quả
của nền KT nhà nớc v-
ơn lên đóng vai trò
chủ đạo và cùng với
KT tập thể ngày càng
trở thành nền tảng
vững chắc của nền KT
quốc dân.
Khuyến khích và
tạo điều kiện thuận
lợi cho các chủ thể
KT thuộc tất cả các
thành phần KT phát
triển sản xuất hàng
hoá, dịch vụ trong
mọi ngành KT quốc
dân, sắp xếp lại các
DNNN và phát triển
các hình thức KT
hợp tác kiểu mới.
- Tiếp tục đổi mới
và hoàn thiện cơ chế
quản lý KT, tạo lập
đồng bộ các loại thị tr-
ờng.
Phát triển mạnh thị
trờng hàng hoá, dịch
vụ, khắc phụ trình
trạng kinh doanh trái
phép, trốn lậu thuế; tổ
chức và quản lý tốt
việc thuê mớn và sử
dụng lao động; quản
lý chặt chẽ việc sử
dụng ruộng đất và thị
trờng bất động sản,
hoàn thiện thị trờng
tiền tệ, xây dựng thị tr-
ờng vốn và thị trờng
chứng khoán.
- Nâng cao năng
lực và hiệu lực quản lý
KT vĩ mô của nhà nớc.
Nhà nớc thực hiện
tốt chức năng định h-
ớng sự phát triển KT,
kiểm kê và kiểm oát
mọi hoạt động KT -
xã hội, tạo lập khuôn
khổ pháp luật và hệ
thống chính sách
nhất quán, trực tiếp
đầu t vào một số lĩnh
vực thiết yếu, nhất là
kết cấu hạ tầng để
tạo ra môi trờng ổn
định và thuận lợi cho
giới kinh doanh làm
21
ăn phát đạt, hạn
chế các hiện tợng
tiêu cực.
Tiếp tục cải
cách các thủ tục
hành chính để Nhà
nớc thực hiện đúng
chức năng quản lý
vĩ mô và chức năng
chủ sở hữu tài sản
công cộng của QG,
không cang thiệp
vào chức năng
quản trị kinh doanh
và quyền tự chủ
hoạch toán của DN
- Nhà nớc thực
hiện các biện
pháp nhằm đảm
bảo tăng cờng KT
đi đôi với tiến bô
và công bằng xã
hội, nh thực hiện
thuế thu nhập cá
nhân và thuế thu
nhập doanh
nghiệp; thực hiện
các chơng trình
xoá đói giảm
nghèo, nhất là tín
dụng cho ngời
nghèo và các
chính sách xã hội
khác.
(KL*) Trên cơ
sở đánh giá và nhìn
thẳng vào khuyết
điểm, cũng nh rút
ra đợc những bài
học kinh nghiệm
của quá trình sụp
đổ của các nớc xã
hội chủ nghĩa trớc
đây. Năm 1986 Đại
hội VI Đảng ta đã
đa ra quan niệm
mới về con đờng và
phơng pháp xây
dựng chủ nghĩa xã
hội. Đặc biệt là
quan niệm thời kỳ
quá độ và cơ cấu
KT thừa nhận sự
tồn tại khách quan
của sản xuất hàng
hoá và thị trờng.
Đến Đại hội VII
Đảng ta khẳng định
rõ hơn về phát triển
KT hàng hoá nhiều
thành phần vận động
theo cơ chế thị trờng
có sự quản lý của
Nhà nớc. Tại Đại hội
VIII Đảng ta kết luận
hết sức quan trọng
sản xuất hàng hoá
không đối lập với chủ
nghĩa xã hội mà là
thành tựu phát triển
của nền văn minh nhân
loại tồn tại khách quan
cho công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã
hội và cả đi lên chủ
nghĩa xã hội đã đợc
xây dựng hoàn thiện.
Trong Đại hội IX
một lần nữa Đảng ta
lại tiếp tục khẳng
định phát triển KT thị
trờng định hớng xã
hội chủ nghĩa là đờng
lối chiến lợc nhất
quán là mô hình kin
tế tổng quát trong
suốt thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở
VN. Đây là kết quả
sau nhiều năm
nghiên cứu tìm tòi
tổng kết trong thực
tiễn và là bớc phát
triển mới về t duy lý
luận của Đảng ta
trong điều kiện KT
thị trờng.
3/ CNXHKH: iu
kin chuyn bin
giai an cỏch
mng nc ta.
Nhim v (ni
dung) thi k quỏ
v c trng ca
CNXH;
Vn : Thi K
Quỏ Lờn Ch
Ngha Xó Hi
Hn 76 nm
qua, di s lónh o
ca ng, nhõn dõn
ta ó hon thnh cỏch
mng dõn tc dõn
ch a t nc
tng bc quỏ lờn
CNXH. Hng i ú
ó c khng nh
ngay t lun cng
cỏch mng t sn dõn
quyn nm 1930, v
gi õy c khng
nh trong cng
lnh xõy dng t
nc trong thi k
quỏ lờn CNXH ó
c i hi ln th
VII, VIII, IX ca
ng. Vic quỏ
lờn ch ngha xó hi
nc ta ó khụng ớt
cú nhng quan im
khỏc nhau, xỏc nh
mỡnh ang õu, ó
ti õu, t ú cú
chin lc, sỏch lc
phự hp. Trc õy,
khi xỏc nh thi
gian, di, mc
tiờu, c im thi
k quỏ chỳng ta
mc sai lm ch
quan, duy ý chớ,
mun t chỏy giai
on. Nhn thc ú
ó khụng phự hp.
Do ú, s i mi
nhn thc t duy v
thi k quỏ l rt
cn thit v ỳng
n.
Trong cng
lnh xõy dng t
nc trong thi k
quỏ lờn CNXH
m i hi ng ln
th VII ó thụng qua,
n i hi IX ca
ng, nhn thc v
thi k quỏ cng
lm c sỏng t, i
hi xỏc nh : Xõy
dng CNXH b qua
ch TBCN, to ra
s bin i v cht ca
xó hi trờn tt c cỏc
lnh vc l s nghip
rt khú khn, phc
tp, cho nờn phi tri
qua mt thi k quỏ
lõu di vi nhiu
chng ng, nhiu
hỡnh thc t chc kinh
t, xó hi cú tớnh cht
quỏ .
Vy thi k quỏ
l gỡ : L thi k
tip tc cuc u tranh
giai cp trong iu
kin mi vi nhng
ni dung v hỡnh thc
mi.
u tranh giai
cp trong iu kin
mi l iu kin m
giai cp cụng nhõn v
nhõn dõn lao ng
ginh chớnh quyn
thit lp chuyờn chớnh
vụ sn v coi chuyờn
chớnh vụ sn l bc
quỏ tin lờn mt
xó hi khụng cũn cú
giai cp.
V ni dung
mi :v chớnh tr,
ngoi giao, quõn s,
kinh t, vn hoỏ t
tng
Hỡnh thc mi
l s dng tt c cỏc
hỡnh thc cỏc con
ng nhm n mc
tiờu ó c xỏc nh.
22
Phải nói
rằng thời kỳ quá độ
là thời kỳ đấu tranh
giữa cái cũ đã bị
đánh bại nhưng
chưa bị triệt tiêu
hoàn toàn với cái
mới nảy sinh
nhưng còn non
yếu. Có nhiều ý
kiến cho rằng độ
dài thời kỳ quá độ
là khoản từ 20 đến
25 năm như các
nước XHCN ở
Liên Xô và Đông
Âu trước đây, cũng
có ý kiến cho rằng
thời gian thời kỳ
quá độ là dài hơn
khoản 50 năm
trong giai đoạn
hiện nay. Từ đó
cho thấy rằng thời
kỳ quá độ không
được xác định
bằng định lượng
mà chỉ định tính,
bắt đầu từ khi
chuyên chính vô
sản và kết thúc khi
xây dựng xong cơ
sở kinh tế xã hội và
vật chất kỷ thuật.
C. Mác
viết :” Giữa xã hội
tư bản chủ nghĩa
và XH CSCN là
một thời kỳ cải
biến cách mạng từ
xã hội nọ sang xã
hội kia. Thích ứng
với thời kỳ ấy là
một thời kỳ quá độ
chính trị, và nhà
nước của thời kỳ
ấy không thì là cái
gì khác hơn là nền
chuyên chính CM
của giai cấp vô sản. ”
Kế thừa và
phát triển tư tưởng
trên, Lê nin cho rằng
sự phát triển của
CNCS diễn ra thông
qua những nấc thang
sau đây :
Từ “những cơ
đau đẻ kéo dài” rồi
đến “giai đoạn đầu
của xã hội CSCN” và
“giai đoạn cao của xã
hội CSCN ”. Xung
quanh vấn đề phân
kỳ hình thái KT –
XH CSCN như vậy,
hiện nay đang có
những ý kiến khác
nhau ; Một số người
xem thời kỳ quá độ
bắt đầu khi giai cấp
vô sản giành được
chính quyền, kết thúc
khi xây dựng CNXH.
Trong quan niệm đó,
thời kỳ quá độ được
hiểu là :” Thời kỳ
quá độ từ CNTB lên
CSCN. ”
Thực tiễn XD
CNXH chứng minh
rằng để hoàn thành
triệt để nội dung như
vậy cần một thời kỳ
lịch sử rất lâu dài và
trong quá trình đó
phải thực hiện nhiều
nhiệm vụ khác nhau
trong những điều
kiện hết sức khác
nhau. Hơn nữa, C.
Mác cũng nói tới
phương hướng cơ
bản phân biệt giai
đoạn đầu và giai
đoạn sau của hình
thái KT- XHCS mà
một trong những
phương hướng cơ
bản đó là phân phối
theo lao động và
hưởng theo nhu cầu.
Nguyên tắc
phân phối thứ nhất
không thể thực hiện
một cách phổ biến
ngay sau khi giành
được chính quyền về
tay nhân dân mà chỉ
được thực hiện sau
một thời kỳ lịch sử
nhất định, khi có sự
phát triển cao của
sức SX, quan hệ SX
XHCN trở thành phổ
biến. Từ thực tiễn đó,
phải thừa nhận có
một thời kỳ quá độ từ
CNTB lên CNXH.
Thực tế đó được Lê
Nin quan niệm rằng
nằm trong thời kỳ
“những cơn dau đẻ
kéo dài ”.
Đến đây lại
xuất hiện những
quan điểm khác nhau
liên quan cách hiểu
về khuôn khổ của
thời kỳ quá độ nằm
trong hay ngoài hình
thái kinh tế – xã hội
CSCN? Nếu nằm
trong hình thái đó,
thì nó giai đọan thấp
của CSCN hay nằm
ngoài giai đoạn đó ?
Theo lý luận
về hình thái kinh tế –
xã hội, một xã hội
nào, 1 giai đoạn phát
triển nào của xã hội
đều thuộc về hình
thái kinh tế – xã hội
nhất định, nó vận
động và phát triển
theo quy luật cơ bản
của hình thái đó. Do
vậy, thời kỳ qúa độ
lên CNXH không thể
nằm ngoài hình thái
kinh tế – xã hội
CSCN.
Thời kỳ quá độ
lên CNXH là thời kỳ
tạo ra những tiền đề
vật chất và tinh thần
cần thiết để hình thành
một xã hội mà trong
đó, những nguyên tắc
căn bản của xã hội
XHCN sẽ được thực
hiện. Như vậy, Xã hội
XHCN chỉ ra đời sau
khi những nhiệm vụ
cơ bản của thời kỳ quá
độ đã được hoàn
thành.
Từ đó, có thể
xem hình thái kinh tế
– xã hội CSCN được
hình thành qua 3 nấc
thang cơ bản : Thời kỳ
quá độ lên CNXH,
CNXH và CNCS. Tuy
nhiên khái niệm
“CNXH “ và “CNCS”
không phải bao giờ
cũng được các nhà
kinh điển phân định
một cách rạch ròi.
Trong khi
khẳng định tính quá
độ bao quát tất cả các
mặt của đời sống xã
hội, cũng cần chú ý
rằng cái bản chất nhất
của thời kỳ quá độ là
sự quá độ về chính trị,
ở đó nhà nước chuyên
chính vô sản đã được
thiết lập, củng cố và
23
ngày càng hoàn
thiện.
Theo Lê
nin, xét về mặt
kinh tế, thời kỳ quá
độ là thời kỳ tồn tại
đồng thời cả những
nhân tố, những bộ
phận, những mẫu
của CNTB lẫn
CNXH. Do vậy,
nền kinh tế của
thời kỳ quá độ
không chỉ là nền
kinh tế nhiều thành
phần, nó còn chứa
đựng trong bản
thân mình những
thành phần đối lập,
đối kháng nhau.
Thích ứng với nền
kinh tế mâu thuẩn
và đôí kháng đó
trong 1 cơ cấu giai
cấp – xã hội phức
tạp. Trong đó có
những giai cấp mà
lợi ích cơ bản của
họ đối lập nhau.
Đấu tranh giai cấp
do đó là một tất
yếu khách quan.
Cố nhiên
những bước đi
trong thời kỳ quá
độ chỉ đạt được
trong quá trình lao
động sáng tạo của
quần chúng nhân
dân để phát triển
lực lượng sản
xuất ;xây dựng một
quan hệ sản xuất
mới thích ứng và
phát triển đời sống
văn hoá – tinh thần
trong xã hội.
Nhưng nếu không
nhận thức rõ thời kỳ
quá độ là thời kỳ tiếp
tục đấu tranh giai cấp
dưới những hình
thức mới, để các thế
lực thù địch giành lại
chính quyền thì xã
hội sẽ biến chất và
không thể thực hiện
quá độ lên CNXH
được.
Thực tiễn
nước ta dưới sự lãnh
đạo của Đảng cộng
sản Việt Nam mà
đường lối xuyên suốt
là độc lập dân tộc
gắn liền với chủ
nghĩa xã hội, với
chiến lược và sách
lược cách mạng sáng
tạo, cách mạng Việt
Nam đã trãi qua 4
mốc lịch sử vĩ đại là :
CM tháng 8 năm
1945, kháng chiến
chống thực dân Pháp
thắng lợi năm 1954,
kháng chiến chống
đế quốc Mỹ thắng lợi
năm 1975 và bước
đầu xây dựng một xã
hội mới, XH XHCN.
Có thể nois nước ta
quá độ lên CNXH từ
1 nước thộc đĩ nữa
PK, nền KINH TÕ
phổ bíen là sx nhỏ
nông ngiệp lạc hậu.
Việc bpỏ qua chế dộ
TBCN là sự lựa chọn
có tính LS phù hợp
với nguyện vọng của
quần chúng nhân
nhân lao động. Dảng
ta đã xác định, con
đường đi lên của
nươsc ta là sự phast
triển quá độ lên
CNXH bỏ qua chế độ
TBCN tức là bỏ qua
việc xác lập vị tri
thống trị của QHSX
và KTTT TBCN
nhưng tiếp thu, kế
thừa nhứng thành tựu
mà nhân loại đã đạt
được dưới chế đọ
TBCN, đặc biệt về
KH&CHÑ NGHÜA
để phát triển nhanh
LLSX, x©y dùng nề
KINH TÕ hiện đại
thực chất của TKQĐ
lên CNXH ở VM là
tạo ra ự biêsn đổi về
chất trên tất cả các
lĩnh vực đời sống X·
HÉI. Đây là sự
nghiệp khó khăn lâu
dài phức tạp với
nhiều chặng đường,
nhiều hình thứuc tổ
chức KINH TÕ- X·
HÉI có tinh chất quá
độ. Tromng các lĩnh
vực của đời sống X·
HÉI dĩên ra sự đan
xrn và đấu tranh giữa
cái mới và cái cũ.
Trước khủng
hoảng hiện nay của
CNXH trên thế giới
đã xuất hiện một số
người dao động,
thậm chí hoài nghi lý
tưởng XHCN đã lựa
chọn. Về mặt lý luận
cũng xuất hiện nhiều
loại quan điểm khác
nhau, trong đó có cả
xu hướng phủ nhận
con đường đi lên
CNXH ở những nước
còn lạc hậu về kinh
tế, trong đó có Việt
Nam. Tuy nhiên, về
mặt lịch sử sự lựa
chọn đúng đắn của
dân tộc ta đã được
kiểm nghiệm bằng
thực tiễn cách mạng
hơn 76 năm qua dưới
sự lãnh đạo của Đảng
CSVN, đặc biệt là
thực tiễn hơn 20 năm
đôỉ mới theo định
hướng XHCN đã
chứng minh tính đúng
đắn sự lựa chọn lịch
sử đó.
Về chính trị :
Đảng CSVN lãnh đạo
trên tất cả các lĩnh vực
đời sống XH bằng các
chủ trương và chính
sách, đường lối chính
trị. Đảng cũng là lực
lượng đã và đang lãnh
đạo trực tiếp toàn diện
nhà nước cách mạng
của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động,
là lực lượng định
hướng chính trị toàn
bộ quá trình phát triển
của xã hội trong giai
đoạn hiện nay của
nước ta.
Đảng lãnh đạo
nhà nước với tư cách
nhà nước là công cụ là
bạo lực, trấn áp chống
giặc ngoại xâm và đấu
tranh chống lại những
tiêu cực, tệ nạn xã hội,
các thế lực thù địch
trong nước và nước
ngoài. Bên cạnh đó
lãnh đạo nhà nước tổ
chức và xây dựng
nhằm cải tạo xã hội và
xây dựng xã hội mới.
24
Phải nói
rằng thành tựu CM
hôm nay đó là vai
trò tổ chức, quản lý
của nhà nước, kinh
tế tăng trưởng, lạm
phát đẩy lùi, đời
sống nhân dân
ngày càng ổn định,
quan hệ với các
nước mở rộng, vị
thế trên chính
trường quốc tế
càng được khẳng
định. Nhưng một
số mặt vẫn còn hạn
chế như : Kinh tế
tăng trưởng khá
nhưng chưa vững
chắc, sức cạnh
tranh các mặt hàng
trên thị trường
quốc tế còn yếu, tai
nạn giao thông
nhiều, giáo dục còn
nhiều bất cập,
khiếu kiện còn kéo
dài chưa giải quyết
dứt điểm, tệ nạn xã
hội …v. v kỷ luật
thực hiện chưa
nghiêm (PMU18…
Từ đó cũng
cố tổ chức cơ sở
đảng, trong sạch
vững mạnh. Trước
hết là phát huy vai
trò của Đảng viên
trong các tổ chức
cơ sở Đảng. Phải
lấy tập trung dân
chủ làm nguyên tắc
cơ bản, tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ
trách, phê bình và
tự phê bình, giữ
gìn sự đoàn kết
thống nhất trong
Đảng, đấu tranh
chống chủ nghĩa cá
nhân, chủ nghĩa cơ
hội, chống mọi biểu
hiện độc đoán
chuyên quyền, cục
bộ địa phương, chia
rẻ bè phái trong
Đảng.
Để hoàn thành
nhiệm vụ nặng nề đó,
phải xây dựng, phải
củng cố nhà nước
XHCN làm cho nước
ta thực sự là của dân,
do dân, vì dân lấy
liên minh giai cấp
công nhân với giai
cấp nông dân và tầng
lớp trí thức làm nền
tảng do Đảng CS
lãnh đạo. Đảng phải
độc tôn lãnh đạo,
không chia sẽ sự lãnh
đạo cho bất kỳ lực
lượng nào, không đa
nguyên chính trị, đa
đảng đối. Nếu như
vậy thì mất vai trò
lãnh đạo Đảng, tạo
điều kiện cho thế lực
phản động trong
nước và quốc tế ngóc
đầu dạy chống phá
CM Việt Nam. Theo
như các chuyên gia
về thể chế chính trị
của Liên hợp quốc
công bố khi điều tra
129 nước trên thế
giới: Trong 23 nước
có 1 Đảng lãnh đạo
thì có 19 nước ổn
định, 4 nước tương
đối ổn định, còn 26
nước đa đảng có nền
kinh tế đang phát
triển thì có 11 nước
ổn định, 2 nước
tương đối ổn định và
13 nước là không ổn
định…Từ đó chúng
ta thấy rằng tính dân
chủ như thế nào sẽ
ổn định chính trị đất
nước đó chứ không
phải là bao nhiêu
đảng lãnh đạo.
Về kinh tế,
chúng ta phát triển
mạnh mẽ LLSX,
thực hiện công
nghiệp hoá đất nước
theo hướng hiện đại
gắn liền với phát
triển một nền nông
nghiệp toàn diện, và
con đường để thực
hiện điều đó trong
giai đoạn hiện nay là
xây dựng nền kinh tế
thị trường định
hướng XHCN với
nhiều thành phần
kinh tế, chấp nhận sự
cạnh tranh, quy luật
giá trị thị trường điều
tiết nền sản xuất
hàng hoá. Đồng thời
từng bước thiết lập
quan hệ sản xuất
XHCN từ thấp đến
cao phù hợp với trình
độ phát triển đã được
của LLSX ở những
vùng, những ngành
kinh tế khác nhau và
ở những giai đoạn
khác nhau của thời
kỳ quá độ, xây dựng
nền kinh tế quốc dân
và tập thể ngày càng
giữ vai trò chủ đạo.
Nghị quyết Đại hội
IX của Đảng: “Kinh
tế thị trường định
hướng xã hội chủ
nghĩa có nhiều hình
thức sỡ hữu, nhiều
thành phần kinh tế,
trong đó kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ
đạo, kinh tế nhà nước
cùng với kinh tế tập
thể ngày càng trở
thành nền tảng vững
chắc…”. Thực hiện
nhiều hình thức phân
phối, trong đó lấy
phân phối theo kết quả
lao động và hiệu quả
kinh tế là chủ yếu.
Từng bước xây dựng
cơ sở kinh tế với
nhiệm vụ trọng tâm là
CNH – HĐH đất
nước. Phấn đấu đến
năm 2020 Việt Nam
trở thành nước công
nghiệp hiện đại. Xây
dựng đội ngũ cán bộ –
công nhân kỷ thuật và
nhân tố con người
luôn ở vị trí trung tâm
trong toàn bộ chiến
lược phát triển kinh tế
xã hội. Đảng ta xác
định : Giáo dục đào
tạo là quốc sách để tạo
ra trí tuệ cho sự
nghiệp Công nghiệp
hoá, hiện đại hoá, xem
nguồn nhân lực là yếu
tố quan trọng hàng
đầu trong các nhân tố
cấu thành nên nội lực
của đất nước
Về văn hoá tư
tưởng ; để có chủ
nghĩa xã hội ngoài
nhiệm vụ phát triển
kinh tế chúng ta phải
tiến hành cách mạng
XHCN trên lĩnh vực
25