Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

thực trạng quỹ đầu tư tại Việt Nam pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (273.32 KB, 17 trang )

ĐỀ TÀI:
QUỸ ĐẦU TƯ
VÀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN
QUỸ ĐẦU TƯ Ở VIỆT NAM
Giáo viên: Nguyễn Thanh Phương
Lớp: Thị trường chứng khoán sáng thứ 3 ca 1 phòng H410
Nhóm sinh viên:
Phạm Xuân Dũng NHCK11 Nhóm trưởng - 01689967547
Nguyễn Thị Thanh Hoa NHCK11
Hoàng Sơn Nam NHCK11
Ngô Xuân Trường NHCK11
Phạm Tuấn Tú NHCK11
Nguyễn Đức Dũng NHCK11
Vũ Minh Thương NHCK11
Nguyễn Thị Hương NHBK11
MỤC LỤC
Nội dung Trang
I. TỔNG QUAN VỀ QUỸ ĐẦU TƯ 3
Quỹ đầu tư và thực trạng phát triển quỹ đầu tư tại Việt Nam Trang 1
1. Khái niệm 3
2. Các lợi ích của việc đầu tư qua quỹ 3
2.1 Đa dạng hóa danh mục đầu tư, giảm thiểu rủi ro 3
2.2 Quản lí đầu tư chuyên nghiệp 3
2.3 Chi phí hoạt động thấp 3
3. Các bên tham gia 4
3.1. Công ty quản lý quỹ 4
3.2. Ngân hàng giám sát 4
3.3. Người đầu tư 4
4. Phân loại quỹ đầu tư 4
4.1. Căn cứ vào quy mô, cách thức và tính chất góp vốn 4
4.1.1 Qũy đầu tư dạng đóng (Closed – end funds) 4


4.1.2 Qũy đầu tư dạng mở (Open end funds) 5
4.2. Căn cứ vào cơ cầu tổ chức – điều hành 5
4.1.1 Qũy đầu tư dạng công ty 5
4.2.2 Qũy đầu tư dạng tín thác 6
4.3. Căn cứ vào nguồn vốn huy động 6
4.3.1 Quỹ đầu tư tập thể (Qũy công chúng) 6
4.3.2. Quỹ đầu tư tư nhân (Quỹ thành viên ) 7
II. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA QUỸ ĐẦU TƯ Ở VIỆT NAM: 7
1. Nửa đầu những thập kỷ 90 7
2. Giai đoạn 2002 – 2005 7
3. Giai đoạn 2006 – 2007 9
4. Giai đoạn 2008 – 2009 11
5. Giai đoạn 2010 đến nay …………………………………………………………… 14
6. Nhận xét chung 16
III. GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY SỰ HÌNH THÀNH VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG CỦA QUỸ ĐẦU TƯ………………………………………… 17
1. Về phía nhà nước………………………………………………………………17
2. Về phía quỹ đầu tư…………………………………………………………… 19
******
I. TỔNG QUAN VỀ QUỸ ĐẦU TƯ
1. Khái niệm
Qũy đầu tư là một tổ chức đầu tư chuyên nghiệp do các nhà đầu tư cùng góp
vốn. Từ những khoản tiền tiết kiệm, nhàn rỗi phân tán trong dân chúng được tập
trung lại thành các nguồn vốn lớn cho các nhà chuyên nghiệp sử dụng trong lĩnh
vực đầu tư kiếm lời và phân chia cổ tức cho các cổ đông góp vốn.
2. Các lợi ích của việc đầu tư qua quỹ
Quỹ đầu tư và thực trạng phát triển quỹ đầu tư tại Việt Nam Trang 2
Khi các nhà đầu tư cảm thấy không đủ kiến thức, kinh nghiệm và thời gian để
trực tiếp hoạt động trên thị trường chứng khoán, họ tìm đến những tổ chức đầu tư
chuyên nghiệp để ủy thác số tiền đầu tư của mình. Như vậy, so với hình thức đầu

tư trực tiếp của từng cá nhân, hình thức đầu tư thông qua quỹ đầu tư có những lợi
thế nhất định.
2.1 Đa dạng hóa danh mục đầu tư, giảm thiểu rủi ro
Với một số tiền nhỏ, nhà đầu tư muốn phân tán rủi ro rất khó khăn do gặp phải
vấn đề giá trị của các chứng khoán đầu tư hay độ lớn của các dự án. Do đó, việc
quỹ đầu tư hình thành trên cơ sở tập hợp những số tiền nhỏ thành một khoản lớn
sẽ giúp các nhà đầu tư tốt hơn. Việc đa dạng hóa danh mục đầu tư duy trì được sự
tăng trưởng tốt ngay cả khi có một vài loại cổ phiếu trong danh mục bị giảm giá,
còn các cổ phiếu khác lại tăng giá hơn mức mong đợi, tạo ra sự cân bàng cho danh
mục đầu tư.
2.2 Quản lí đầu tư chuyên nghiệp
Các quỹ đầu tư phát triển được quản lí bởi các chuyên gia có kỹ năng và giàu
có kinh nghiệm được lựa chon và sàng lọc, làm tăng cường tính chuyên nghiệp
của việc đầu tư. Một quỹ đầu tư với đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ chuyên
môn, có khả năng phân tích và chuyên sâu và các lĩnh vực đầu tư sẽ có lợi thế hơn
so với những cá nhân riêng lẻ, không chuyên nghiệp.
2.3 Chi phí hoạt động thấp
Tiết kiệm chi phí đầu tư, việc đầu tư thông qua quỹ đầu tư sẽ tạo đăng kí tiết
kiệm được các chi phí tính trên từng đồng vôn đầu tư và thường đucợ hưởng các
ưu đãi về chi phí giao dịch.
3. Các bên tham gia
Các bên tham gia hoạt động của quỹ đầu tư là công ty quản lý quỹ, ngân hàng
giám sát và người đầu tư.
Quỹ đầu tư và thực trạng phát triển quỹ đầu tư tại Việt Nam Trang 3
Nhà
đầu tư
4. Phân loại quỹ đầu tư
4.1. Căn cứ vào quy mô, cách thức và tính chất góp vốn
4.1.1 Qũy đầu tư dạng đóng (Closed – end funds)
Đây là quỹ đầu tư mà theo điều lệ quy định thường chỉ tạo vốn qua một lần bán

chứng khoán cho công chúng. Quỹ đầu tư dạng đóng có thể phát hành cổ phiếu
thường, cổ phiếu ưu đãi hoặc trái phiếu. Quỹ không được phát hành thêm bất kì
một loại cổ phiếu nào để huy động thêm vốn và cũng không mua lại các cổ phiếu
đã phát hành. Những người tham gia góp vốn đầu tư không được phép rút vốn
bằng cách bán lại chứng chỉ quỹ đầu tư cho chính quỹ đầu tư. Tuy nhiên, chính
việc cấm rút vốn làm cho cấu trúc của quỹ rất chặt chẽ, nên các chứng chỉ quỹ đầu
tư dạng đóng thường được niêm yết giao dịch trên Sở giao dịch chứng khoán, vì
vậy người đầu tư có thể rút vốn bằng cách bán lại chứng chỉ quỹ đầu tư trên Sở
giao dịch chứng khoán. Với tính chất cơ cấu vốn ổn định cho phép quỹ đầu tư
dạng đóng có thể đăng kí đầu tư vào các dự án lớn và các chứng khoán có tính
thanh khoản cao. Quy mô vốn của loại quỹ này chỉ có thể tăng lên từ các khoản
lợi nhuận thu được của quỹ mà thôi.
Ví dụ: VIF là quỹ đầu tư thành viên dạng đóng của 20 tập đoàn, tổng công ty,
doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam cùng với hai thành viên sáng lập là Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) (góp 96 tỷ đồng) và Vietnam Partners LLC
(góp 80 tỷ đồng), có quy mô huy động tối đa là 1.600 tỷ đồng, hoạt động trong
thời gian tám năm
4.1.2 Qũy đầu tư dạng mở (Open end funds)
Quỹ đầu tư dạng mở còn được gọi là quỹ tương hỗ (Mutuai funds). Khác với
quỹ đầu tư dạng đóng, các quỹ này luôn phát hành thêm những cổ phiếu mới để
tăng vốn và cũng sẵn sàng chuộc lại những cổ phiếu đã phát hành. Các cổ phiếu
của quỹ được bán trực tiếp cho công chúng không thông qua thị trường chứng
khoán. Tất cả các cổ phiếu phát hành của quỹ này đều là cổ phiếu thường, so với
quỹ đầu tư dạng đóng, quỹ đầu tư dạng mở có lợi thế rõ ràng về khả năng huy
động, mở rộng quy mô vốn, do đó nó linh hoạt hơn trong việc lựa chon các dự án
đầu tư. Nhà đầu tư có thể rút vốn khỏi quỹ bất cứ lúc nào vì vậy cơ cấu vốn của
Quỹ đầu tư và thực trạng phát triển quỹ đầu tư tại Việt Nam Trang 4
Ngân hàng
giám sát
quỹ không ổn định cho nên quỹ thường xuyên phải duy trì một tỷ lệ khá lớn

những tài sản có tính thanh khoản cao như trái phiếu… ít có khả năng đầu tư vào
các dự án lớn có tiềm năng nhưng tiềm ẩn độ rủi ro cao
Do việc đòi hỏi tính thanh khoản cao, hình thức quỹ mở này mới chỉ tồn tại ở
các nước có nền kinh tế và thị trường chứng khoán phát triển như Châu Âu, Mỹ,
Canada… và chưa có mặt tại Việt Nam.
4.2. Căn cứ vào cơ cầu tổ chức – điều hành
Quỹ đầu tư được tổ chức dưới 2 hình thức là quỹ đầu tư dạng công ty
(Corporate funds) và quỹ đầu tư dạng tín thác (Trust funds)
4.1.1 Quỹ đầu tư dạng công ty
Theo mô hình công ty, quỹ đầu tư được xem là một pháp nhân đầy đủ, những
người góp vốn trở thành các cổ đông và có quyền biểu quyết và có quyền bầu ra
Hội đồng quản trị quỹ. Đây là tổ chức cao nhất trong quỹ đứng ra thuê công ty
quản lý quỹ, ngân hàng bảo quản tài sản quỹ và giám sát việc tuân thủ hoạt động
của 2 tổ chức này. Trong đó, ngân hàng giám sát đóng vai trò bảo quản các tài sản
quỹ, nhận hoặc giao chứng khoán cho quỹ khi thực hiện lệnh giao dịch. Còn công
ty quản lý quỹ có trách nhiệm cử người điều hành và sử dụng vốn của quỹ để đầu
tư vào các chứng khoán hay các tài sản sinh lời khác. Mô hình quỹ đầu tư tổ chức
dưới dạng công ty thường được sử dụng ở các nước có thị trường chứng khoán
phát triển, tiêu biểu là thị trường Mỹ và Anh.
4.2.2 Qũy đầu tư dạng tín thác
Theo mô hình thác, quỹ đầu tư không được xem là một pháp nhân đầy đủ, mà
chỉ là quỹ chung vốn giữa những người đầu tư để thuê chuyên gia quản lý quỹ
chuyên nghiệp đầu tư sinh lời. Theo mô hình này, vai trò của công ty quản lý quỹ
khá nổi bật. Đó là tổ chức đứng ra thành lập và sử dụng vốn thu được vào nơi có
hiệu quả nhất. Còn ngân hàng giám sát đóng vai trò là người bảo quản an toàn vốn
và tài sản của người đầu tư, giám sát các hoạt động của công ty quản lý quỹ trong
việc tuân thủ điều lệ quỹ đầu tư. Mô hình quỹ đầu tư tổ chức dưới dạng tín thác
thường được sử dụng ở các thị trường chứng khoán mới nổi (emerging market)
đặc biệt là các thị trường chứng khoán đang phát triển ở Châu Á.
4.3. Căn cứ vào nguồn vốn huy động

4.3.1 Quỹ đầu tư tập thể (Qũy công chúng)
Quỹ đầu tư và thực trạng phát triển quỹ đầu tư tại Việt Nam Trang 5
Quỹ đầu tư tập thể là quỹ huy động vốn bằng cách phát hành rộng rãi ra công
chúng. Những người đầu tư vào quỹ có thể là các cá nhân hoạc tổ chức kinh tế,
nhưng đa phần là các nhà đầu tư riêng lẻ, ít am hiểu về thị trường chứng khoán.
Quỹ đầu tư tập thể cung cấp cho các nhà đầu tư nhỏ phương tiện đầu tư đảm bảo
đa dạng hóa đầu tư, giảm thiểu rủi ro, chi phí đầu tư thấp với hiệu quả đầu tư cao
do tính chuyên nghiệp của các nhà đầu tư mang lại.
Tại VN hiện nay có 4 quỹ công chúng đang được niêm yết trên thị trường
chứng khoán là: VF1, VF4, BF1, PF1
Quỹ Vốn điều lệ (tỷ đồng) Ngày thành lập Thời gian hoạt động
VFMVF1 1.000 04/2004 10 năm
VFMVF4 8.000 01/2008 10 năm
PRUBF1 500 11/2003 07 năm
MAFPF1 250 07/2007 07 năm
Nguồn: ủy ban chứng khoán nhà nước.
4.3.2. Quỹ đầu tư tư nhân (Quỹ thành viên )
Khác với quỹ đầu tư tập thể, quỹ đầu tư tư nhân huy động vốn bằng phương
thức phát hành riêng lẻ cho một số nhóm nhỏ các nhà đầu tư, có thể được lựa chọn
trước, là các thể nhân hoặc các định chế tài chính hoặc các tập đoàn kinh tế lớn.
Các nhà đầu tư vào các quỹ tư nhân thường đầu tư lượng vốn tương đối lớn và đổi
lại họ đòi hỏi các yêu cầu về quản lý quỹ rất cao. Họ sẵn sàng chấp thuận khả
năng thanh khoản thấp hơn so với các nhà đầu tư nhỏ – nhũng người đầu tư vào
các quỹ tập thể – và vì thế họ khống chế việc đầu tư trong các quỹ tư nhân.
Một đặc điểm khác của các quỹ tư nhân đó là các nhà quản lí quỹ thường tham gia
kiểm soát hoạt động của các công ty nhận đầu tư. Việc kiểm soát này có thể dưới hình
thức là thành viên Hội đồng quản trị, cung cấp tư vấn hoặc có ảnh hưởng đáng kể tới các
thành viên của Hội đồng quản trị của công ty nhận đầu tư.
Ví dụ: VIF, Thunderbird, Auxesia, Leopard, CB Solutions, Foreya Partners, American
Indochina…

II. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CỦA QUỸ ĐẦU TƯ TẠI VIỆT NAM
1. Nửa đầu những thập kỷ 90
Quỹ đầu tư và thực trạng phát triển quỹ đầu tư tại Việt Nam Trang 6
Những quỹ đầu tư đầu tiên xuất hiện tại Việt Nam vào khoảng đầu những năm
1990, có tám quỹ đầu tư tiến hành hoạt động tại Việt Nam với tổng lượng vốn huy
động khoảng 700 triệu USD. Những khó khăn trong nỗ lực tìm kiếm cơ hội bỏ vốn
cùng tác động của khủng hoảng tài chính-tiền tệ năm 1997 đã khiến các quỹ nản
lòng và lần lượt rút lui. Thời điểm sau năm 1997 chỉ còn lại hai quỹ đầu tư là
Vietnam Enterprise Investment Fund (VIEL) do công ty Dragon Capital quản lý và
Vietnam Frontier Fund (VFF) thuộc tập đoàn Finasa. Bản thân VFF, với qui mô 50
triệu USD, rốt cuộc cũng ra khỏi Việt Nam sau 10 năm hoạt động. Chỉ khi thị
trường chứng khoán có những dấu hiệu tăng trưởng tích cực, quỹ này mới trở lại
với qui mô khiêm tốn hơn 15 triệu USD, năm 2005.
2. Giai đoạn 2002 – 2005
Giai đoạn từ 2002 đến 2005, hoạt động của các quỹ đầu tư tương đối trầm lặng.
Với tâm lý khá e ngại và còn băn khoăn về sự thành công của mô hình này, các
nhà đầu tư mới chỉ dám bỏ các khoản đầu tư nhỏ nhằm thăm dò thị trường. Mặc dù
vậy vẫn ghi nhận sự xuất hiện thêm nhiều quỹ mới thuộc các công ty Mekong
Capital, VinaCapital, IDG, VietFund hay PXP Asset Management.
Danh mục quỹ đầu tư thành lập giai đoạn 2002 – 2005:
Quỹ Công ty Thành lập Hoạt động
MekongEnterprise Fund Mekong Capital 2002
Vốn cổ phẩn
riêng lẻ
IDG Vietnam Ventures Fund IDG Venture 2004
Đầu tư công
nghệ và mạo
hiểm
IndochinaLand Holdings Indochina Capital 2005 Bất động sản
PXP Vietnam Fund

PXP Vietnam Asset
Management
2003
Cổ phiếu niêm
yết, doanh
nghiệp cổ phần
hóa…
VietnamOpportunity Fund Vina Capital 2003
Vietnam Securities
Investment Fund(VF1)
Viet Fund Management 2004
Vietnam Emerging Equity PXP Vietnam Asset 2005
Quỹ đầu tư và thực trạng phát triển quỹ đầu tư tại Việt Nam Trang 7
Fund Management
Vietnam Equity Fund Finansa 2005
Nguồn www.saga.vn
Tín hiệu tăng trưởng khả quan của nền kinh tế Việt Nam được cộng đồng
tài chính quốc tế đánh giá cao. Những tên tuổi tài chính hàng đầu như Merill
Lynch, Goldman Sachs, JP Morgan Chase đều dành mối quan tâm lớn hơn cho thị
trường Việt Nam với nhiều hoạt động khảo sát. Liên tiếp các báo cáo nghiên cứu
của các tổ chức này có chung đánh giá cổ vũ dòng vốn đầu tư tiếp tục chảy vào
Việt Nam trong nhiều năm tới. Tuy vậy cho đến tận năm 2005, vốn đầu tư gián
tiếp (FII) mới chỉ đạt khoảng 1% so với vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), so
với các nước khác trong khu vực, con số đầu tư gián tiếp của Việt Nam tương đối
mờ nhạt
3. Giai đoạn 2006 – 2007
Năm 2006 Việt nam gia nhập WTO, tốc độ tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ trên
8%, thị trường chứng khoán tăng vượt bậc đạt đỉnh cao nhất từ khi thị trường
chứng khoán Việt nam ra đời đã đánh dấu một thời kì vàng son của các quỹ đầu
tư. Lúc này việc huy động vốn vào Việt Nam khá dễ dàng khi thị trường chứng

khoán Việt Nam đang bùng nổ, biến đổi tích cực và mạnh mẽ. Theo thống kê của
giới tài chính, phải có tới khoảng 100 quỹ đầu tư lớn nhỏ các loại đầu tư vào thị
trường chứng khoán Việt Nam, có khoảng 20 quỹ mới được thành lập. UBCKNN
cũng cấp giấy phép hoạt động cho 17 công ty quản lý quỹ. Trong số này, nổi bật
có Công ty liên doanh Quản lý quỹ đầu tư BIDV-Vietnam Partners với quỹ VIF có
qui mô vốn tối đa 1.600 tỷ đồng và một loạt công ty thành lập vào nửa cuối năm
2007 với qui mô vốn lớn: Công ty cổ phần Quản lý quỹ đầu tư FPT (vốn điều lệ
lớn nhất thị trường- 110 tỷ đồng), Công ty TNHH Quản lý quỹ SSI (vốn điều lệ 30
tỷ đồng), Công ty TNHH Quản lý quỹ đầu tư chứng khoán Đông Á (vốn điều lệ-
30 tỷ đồng) Còn phải kể tới hoạt động của các công ty chứng khoán nước ngoài
tại Việt Nam như Nomura Internetional (Hongkong), Blackhorse Asset
Management Pte Ltd. (Singapore) hay Mirae Asset Maps Investment Management
Co., Ltd. (Hàn Quốc).
Quỹ đầu tư và thực trạng phát triển quỹ đầu tư tại Việt Nam Trang 8
Thời điểm giữa năm 2006, VinaCapital khai trương quỹ đầu tư bất động sản
Vinaland với dự kiến huy động 50 triệu USD nhưng đã nhận được 65 triệu USD
từ các nhà đầu tư. Thành công trong lần phát hành và niêm yết trên thị trường
chứng khoán London của Indochina Capital Vietnam Holding Limited thể hiện
tính sẵn sàng của các dòng vốn cho thị trường Việt Nam và thực sự là một bất
ngờ. Trong lần phát hành này, Indochina Capital dự kiến thu hút từ 300-350 triệu
USD, kết quả: quỹ này huy động được 500 triệu USD
Không chỉ có nguồn vốn từ bên ngoài, con số gần 20 công ty quản lý quỹ trong
nước mới thành lập hứa hẹn nhiều quỹ đầu tư tiếp tục ra đời trong năm 2008. Tiếp
sau “sự vụ” phát hành tăng vốn VF1, các quỹ VF2 và VF 3 đang hình thành,
VietFund Management đang tích cực giới thiệu và chuẩn bị VF4, VF5 và thậm chí
thì có thể còn có VF10 trong tương lai. Công ty quản lý quỹ được sáng lập bởi các
tên tuổi lớn như SSI, FPT, Sabeco hẳn sẽ không chịu kém trong cuộc đua mở quỹ
và huy động vốn.
Công ty quản lý quỹ Cấp phép Quỹ Vốn điều lệ
Cty liên doanh quản lý quỹ đầu tư chứng khoán Việt Nam 15/07/2003 100 tỷ

VF1 500 tỷ
VF2 33,35 tỷ
Cty cổ phần quản lý quỹ đầu tư Thành Việt 10/11/2004 88 tỷ
SFA1
Cty TNHH quản lý quỹ đầu tư Prudential Việt Nam 26/5/2005 23 tỷ
PRUBF1 500 tỷ
Cty TNHH quản lý quỹ Manulife Việt Nam 14/6/2005 26 tỷ
ManulifeF 214 tỷ
Cty TNHH quản lý quỹ đầu tư chứng khoán Bảo Việt 08/11/2005 25 tỷ
Cty liên doanh quản lý quỹ đầu tư chứng khoán Vietcombank 02/12/2005 8 tỷ
VPF1 200 tỷ
Cty cổ phần quản lý quỹ đầu tư chứng khoán Hà Nội 16/11/2007 25 tỷ
Cty Cổ phần quản lý quỹ đầu tư chứng khoán Bản Việt 25/10/2006 94 tỷ
Cty liên doanh quản lý quỹ đầu tư BIDV – VIETNAM PARTNERS 06/01/2006 32 tỷ
VIF 1600 tỷ
Quỹ đầu tư và thực trạng phát triển quỹ đầu tư tại Việt Nam Trang 9
Cty TNHH liên doanh quản lý quỹ đầu tư chứng khoánAGRIBANK
– VGFM
21/12/2006 16 tỷ
Cty Cổ phần quản lý quỹ đầu tư chứng khoán Việt Long 22/12/2006 40 tỷ
Cty TNHH quản lý quỹ đầu tư chứng khoán Bông Sen 27/12/2006 5 tỷ
Cty cổ phần quản lý quỹ đầu tư chứng khoán An Bình 28/12/2006 30 tỷ
Cty cổ phần quản lý quỹ đầu tư Anpha 28/12/2006 10 tỷ
Cty cổ phần quản lý quỹ đầu tư chứng khoán Phương Đông 28/12/2006 6,8 tỷ
Cty cổ phần quản lý quỹ đầu tư chứng khoán An Phúc 28/12/2006 8,1 tỷ
Cty cổ phần quản lý quỹ đầu tư chứng khoán Hải Phòng 29/12/2006 11 tỷ
Cty cổ phần quản lý quỹ đầu tư chứng khoán An Phú 29/12/2006 8 tỷ
Cty TNHH quản lý quỹ SSI 03/8/2007 30 tỷ
Cty cổ phần quản lý quỹ đầu tư FPT 25/7/2007 110 tỷ
Cty TNHH quản lý quỹ đầu tư chứng khoán Đông Á 24/9/2007 30 tỷ

Cty cổ phần quản lý quỹ Lộc Việt 06/11/2007 25 tỷ
Cty cổ phần quản lý quỹ Sabeco 16/11/2007 25 tỷ
Theo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước
Con số các quỹ đầu tư và qui mô vốn (dù mới chỉ là vốn điều lệ) cho thấy một
thực tế: huy động vốn, trước giờ vẫn được xem như mấu chốt của các khó khăn,
hóa ra không thực sự là vấn đề. Mà vấn đề ở đây là tìm kiếm những địa chỉ tin
cậy và khả thi thương mại để đầu tư, đảm bảo cam kết lợi nhuận với các cổ đông.
Mức lãi suất thấp và lạm phát trong giai đoạn này cũng là một nhân tố thúc đẩy
các nhà đầu tư ở các nước phát triển tìm kiếm cơ hội từ những nền kinh tế đang
trỗi dậy như Việt Nam.
4. Giai đoạn 2008 – 2009 :
Chấn động của cuộc khủng hoảng tài chính trong năm 2008 đẩy nhiều quỹ đầu tư
đứng trước nguy cơ phá sản, hoạt động kinh doanh trở nên khó khăn.
Quỹ đầu tư và thực trạng phát triển quỹ đầu tư tại Việt Nam Trang 10
Theo www.saga.com
Theo báo cáo nghiên cứu của Công ty Chứng khoán Rothchild (Anh), nhiều quỹ đầu
tư tại Việt Nam đã lỗ lớn trong năm 2008; giá trị tài sản ròng (NAV) nhiều quỹ giảm từ
60% - 70%. Sang tới năm 2009, các công ty quản lý quỹ đầu tư đã đa dạng hóa các lĩnh
vực đầu tư, để giảm thiểu những rủi ro gặp phải trên thị trường, nhưng vẫn tập trung
phần lớn vào thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản.
Các quỹ đầu tư chứng khoán có mức tăng trưởng NAV cao hơn so với năm 2008 do
sự tăng điểm của thị trường chứng khoán nửa cuối năm 2009.
Quỹ Công ty quản lý
Tăng trưởng năm
2009 (%)
Vietnam Equity Holding (VEH) Saigon Asset Management (SAM) 10.1
Bao Tin Equity Fund Bao Tin Capital
Bao Viet Investment Fund Bao Viet Fund Management (BVFMC)
Blackhorse Enhanced Vietnam
Inc

Blackhorse Asset Management 39.3
BIDV-Vietnam Partners’
Vietnam Investment Fund
BVIM Investment Management
DWS Vietnam Fund Deutsche Bank
Vietnam Enterprise Investment
Ltd. (VEIL)
Dragon Capital
31.9
Vietnam Growth Fund Limited
(VGF)
27.2
Quỹ đầu tư và thực trạng phát triển quỹ đầu tư tại Việt Nam Trang 11
Vietnam Dragon Fund (VDF) 25.8
Vietnam Equity Fund Finansa Fund Management
Golden Bridge Financial
Group’s Vina Blue Ocean Fund
Golden Bridge Financial Fund
Hanoi Fund Hanoi Fund Management
Indochina Capital Vietnam
Holdings
Indochina Capital 45.6
JF Vietnam Opportunities Fund JF Vietnam Opportunities 4.3
Kamm Investment Holdings Kamm Investment
Vietnam Growth Fund
Worldwide Vietnam Fund
China and Vietnam Fund
KITMC RSP Balanced Fund
Korea Investment Trust Management
KITMC Vietnam Growth Fund

I and II
KITMC Worldwide Vietnam
Fund I and II
Nguồn: ủy ban chứng khoán nhà nước và sự tính toán của tác giả
Các Quỹ đầu tư tập trung đầu tư vào bất động sản trong năm 2009 gặt hái ít nhiều
thành công, nhưng chỉ tập trung ở một vài quỹ có chiến lược thích hợp với tình hình thị
trường BĐS không mấy khởi sắc năm qua. Đó là chiến lược nhắm đến các dự án “đất
sạch”, đặc biệt là các dự án chung cư, phân khúc có nhu cầu luôn ổn định bất chấp thị
trường BĐS đang vào “mùa” nào.
Quỹ Công ty quản lý quỹ Tăng
trưởng 2009
( %)
Vietnam Property Holding (VPH) Saigon Asset Management 12.9
Vietnam Property Fund ( VPF) Dragon Capital 9.5
Vietnam Infrastructure Limited ( VNI) VinaCapital 3.1
VinaCapital’s VinaLand -14.4
Nguồn: Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và tổng hợp của tác giả
5. Giai đoạn 2010 đến nay.
Quỹ đầu tư và thực trạng phát triển quỹ đầu tư tại Việt Nam Trang 12
Giai đoạn này nền kinh tế Việt nam tuy có khởi sắc nhưng cũng còn rất nhiều khó
khăn, nhìn chung các Quỹ đầu tư giai đoạn này khá là trầm lắng.
Tụt hạng nhiều nhất là nhóm 3 quỹ chứng khoán của Công ty Quản lý Quỹ PXP gồm
Vietnam Lotus Fund (VLF), Vietnam Emerging Equity Fund (VEEF) và PXP Vietnam
Fund (PVF), vốn dẫn đầu tăng trưởng NAV trong năm 2009.
Bên cạnh PXP, 2 tên tuổi lớn trong làng quản lý quỹ tại Việt Nam là VinaCapital và
Dragon Capital cũng chung số phận. Theo đó, quỹ chứng khoán Vietnam Opportunity
Fund (VOF) của VinaCapital tăng trưởng -4% (so với 30,1% năm 2009). Hai quỹ của
Dragon Capital là Vietnam Enterprise Investments Ltd (VEIL) và Vietnam Growth Fund
(VGF) lần lượt chia nhau con số tăng trưởng -14,8% và -2,4% (so với mức trên 14% năm
2009). Quỹ chứng khoán VEH của Công ty Quản lý Quỹ Saigon Asset Management

(SAM), một quỹ trẻ nhưng hoạt động khá tốt trong năm 2009 (NAV đạt 39,8%) cũng
chịu mức tăng trưởng -19,9% trong năm 2010.
So với các quỹ chứng khoán các quỹ bất động sản hoạt động khá hơn nhưng vẫn chưa
khởi sắc, vì đây là mảng khá nhạy cảm với các chính sách kinh tế vĩ mô như thắt chặt tín
dụng, tác động của lạm phát, tỉ giá và lãi suất.
Đơn cử, NAV của Quỹ Vietnam Property Holding (VPH) của SAM đã tăng trưởng
-6,8% tính đến tháng 11 (so với 12,6% của 2009). Trong năm 2010, VPH đã tập trung
đầu tư vào 5 dự án bất động sản và công ty bất động sản niêm yết trên sàn HoSE và HNX
gồm Công ty Cổ phần Phát triển Đô thị Công nghiệp Số 2 (D2D), Công ty Cổ phần Hợp
tác Kinh tế và Xuất nhập khẩu Savimex (SAV), Công ty Cổ phần Đầu tư Năm Bảy Bảy
(NBB) và Công ty Cổ phần Xây dựng và Kinh doanh Vật tư (CNT). Quỹ này cũng đã
thoái vốn khỏi 2 dự án bất động sản du lịch tại Đà Nẵng và Nha Trang với lý do số vốn
đầu tư 50 triệu USD của VPH không đủ lớn để có thể chấp nhận những rủi ro như thiên
tai (các cổ đông của Quỹ cho rằng không nên đầu tư vào resort và khách sạn ở khu vực
bờ biển do sợ lũ lụt và sóng thần).
Khá hơn một chút là quỹ bất động sản VinaLand (VNL) của VinaCapital, tăng trưởng
NAV 6% trong 3 quý đầu năm 2010 (so với -15% cùng kỳ 2009), với cơ cấu đầu tư gồm
3 khu đô thị, 2 khu căn hộ, 1 khách sạn, 4 dự án văn phòng và bán lẻ. Lý giải về kết quả
này, ông Andy Ho, VinaCapital, cho rằng Quỹ VNL chỉ đầu tư trực tiếp vào các dự án bất
động sản và cơ sở hạ tầng, không đầu tư vào cổ phiếu của các công ty bất động sản niêm
yết, nên không bị ảnh hưởng bởi chỉ số VN-Index. Ngoài ra, VNL cũng đã chào bán hơn
660 căn hộ và biệt thự từ các dự án như Ocean Villa, Cham Condomenium Azura ở Đà
Quỹ đầu tư và thực trạng phát triển quỹ đầu tư tại Việt Nam Trang 13
Nẵng; khu biệt thự The Garland ở quận 9, Đại Phước ở quận 2 (TP.HCM) và hơn 50%
trong số đó đã có người mua.
Trong khi quỹ chứng khoán và bất động sản lao đao thì các quỹ cổ phần tư nhân lại
có một năm sôi động với các thông tin thoái vốn lẫn đầu tư mới, đặc biệt là Mekong
Capital, quỹ cổ phần tư nhân đầu tiên của Việt Nam. 2 quỹ MEF I và MEF II đã thoái
vốn tại nhiều công ty như Mai Sơn, Golden Gate. Tuy nhiên đây chưa phải là các khoản
đầu tư trọng tâm vì tỉ suất hoàn vốn không quá 2 lần và sắp tới Mekong Capital sẽ thoái

vốn với mức lợi nhuận hấp dẫn hơn nhiều.
Trong thời gian tới tình hình lạm phát chưa có dấu hiệu dừng lại, với việc tăng giá của
nhiều loại mặt hàng như xăng, điện, thực phẩm… hứa hẹn cho các quỹ đầu tư có khả
năng mở rộng cả về vốn và lĩnh vực đầu tư để thu được nguồn lợi nhuận lớn hơn.
6. Nhận xét chung :
Nguyên nhân khiến các Quỹ đầu tư phát triển nhanh trong những năm gần đây
là do :
− Thứ nhất, các nhà đầu tư đang ngày càng trở nên quan tâm tới hoạt động
đầu tư toàn cầu.
− Thứ hai, đó là trong thập kỷ qua, các Quỹ đầu tư ngày càng trở thành sự lựa
chọn đầu tư chắc chắn nhất cho tầng lớp trung lưu đang giàu lên nhanh
chóng. Sự tăng trưởng tài sản tuyệt đối của các Quỹ đầu tư rất đáng kể, đặc
biệt ấn tượng trong các nước có tốc độ tăng trưởng cao, và thậm chí trong
thị trường các quốc gia có tốc độ tăng trưởng tương đối chậm.
Với vị thế một nền kinh tế thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO), sức ép cạnh tranh không ngừng gia tăng với cộng đồng kinh doanh Việt
Nam. Cùng với việc chia sẻ sở hữu với các quỹ đầu tư, các nhà điều hành doanh
nghiệp đều đặt kỳ vọng vào cơ hội mở rộng quan hệ kinh doanh, tiếp cận công
nghệ quản lý và sản xuất tiến bộ, phát triển kinh doanh trong lĩnh vực mới…
Tuy nhiên điều lo ngại nhất chính là tính chuyên nghiệp thấp tại phần đông các
doanh nghiệp Việt Nam. Nhiều chuẩn mực vận hành thông thường vẫn còn xa lạ
tại các đơn vị sản xuất kinh doanh. Các yêu cầu cung cấp thông tin và đòi hỏi khá
khắt khe về qui trình vận hành từ phía người có vốn phần nào thúc ép doanh
Quỹ đầu tư và thực trạng phát triển quỹ đầu tư tại Việt Nam Trang 14
nghiệp thay đổi và hoàn thiện. Tuy vậy, năng lực thực sự cần được duy trì và bồi
đắp liên tục theo thời gian.
III. GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY SỰ HÌNH THÀNH VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT
ĐỘNG CỦA QUỸ ĐẦU TƯ
1. Về phía nhà nước
1.1. Ổn định kinh tế vĩ mô

Sự ổn định và tăng trưởng bền vững của nền kinh tế vĩ mô có mối quan
hệ mật thiết tới thị trường chứng khoán nói chung và sự phát triển của các Quỹ
đầu tư chứng khoán nói riêng. Chỉ trong một nền kinh tế ổn định, các chỉ số vĩ mô
như lạm phát, tỷ lệ tăng trưởng, tỷ giá hối đoái, mức lãi suất ổn định thì mới tạo
lập được niềm tin và kích thích người đầu tư xoá bỏ tâm lý e ngại, dè chừng khi
tham gia vào một hình thức đầu tư mới. Từ đó khuyến khích các tổ chức kinh tế
tích cực hơn trong quyết định thành lập Quỹ đầu tư chứng khoán cũng như tạo ra
môi trường tốt cho hoạt động của các Quỹ đầu tư phát triển.
1.2. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp lý
Việc hoàn thiện hệ thống pháp lý là để tạo hành lang cho các tổ chức tài chính
và doanh nghiệp hoạt động một cách công bằng và hiệu quả. Hiện nay, chúng ta
đã có luật các tổ chức tín dụng nhưng chưa đề cập rõ về Quỹ đầu tư. Việc điều
chỉnh các hoạt động của Quỹ đầu tư chứng khoán chỉ dựa vào quy chế tổ chức và
hoạt động của Quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ kèm theo Quyết định số
05/1998/QĐ-UBCK ngày 13/10/1998. Nhưng để các văn bản này đi vào thực tiễn
và phát huy hiệu lực thì cần sớm đưa các nội dung này vào trong khuôn khổ pháp
lý cao hơn dưới hình thức các luật như Luật về Chứng khoán và thị trường chứng
khoán, Luật các định chế tài chính trung gian khi thị trường chứng khoán Việt Nam dần
đi vào hoạt động ổn định. Ngoài ra, do Quỹ đầu tư chứng khoán có một số đặc điểm
riêng so với các chủ thể kinh doanh khác trên thị trường nên nó chịu sự chi phối của
nhiều bộ luật khác có liên quan như Luật doanh nghiệp, Luật dân sự… Các bộ luật này
và các văn bản dưới luật đi kèm có một số điểm bất đồng, chồng chéo nhau và chưa có
sự bổ sung điều chỉnh đối với một hình thức đầu tư mới - đầu tư qua quỹ. Do vậy, một
yêu cầu đang được đặt ra là cần phải tiếp tục bổ sung, hoàn thiện các bộ luật này để tạo
Quỹ đầu tư và thực trạng phát triển quỹ đầu tư tại Việt Nam Trang 15
nên một hệ thống pháp luật đồng bộ, tạo sự công bằng cho các nhà đầu tư, các doanh
nghiệp cũng như nhằm giải quyết một cách nhanh chóng khi có tranh chấp xảy ra.
1.3. Nhà nước cần khuyển khích và hỗ trợ tích cực cho việc hình thành và phát
triển Quỹ đầu tư
Khi thị trường chứng khoán đã đi vào hoạt động thì việc hình thành các Quỹ

đầu tư là hết sức cần thiết để tạo điều kiện cho công chúng có thể tham gia vào thị
trường chứng khoán. Tuy nhiên, Quỹ đầu tư chứng khoán còn là vấn đề rất mới và
trong điều kiện hiện nay còn nhiều khó khăn để quỹ ra đời và hoạt động, do vậy
rất cần có sự trợ giúp của nhà nước. Kinh nghiệm của Hàn Quốc cho thấy trong
giai đoạn đầu phát triển thị trường chứng khoán, chính phủ Hàn Quốc đóng vai trò
to lớn trong việc thúc đẩy trợ giúp sự hìnhthành và phát triển Công ty tín thác đầu
tư. Tại Malaixia có Quỹ đầu tư chứng khoán do chính phủ thành lập tên là PNB.
Nó có những quỹ chi nhánh theo chuyên ngành để hỗ trợ, giúp đỡ người dân mua
các cổ phiếu của các công trình, công ty làm ăn có lãi. Giống với Malaixia, ở
Singapore chính phủ cũng thành lập một Quỹ đầu tư chứng khoán của nhà nước
với mục đích tham gia vào các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài. Số vốn
của các quỹ đó ngày càng tăng khiến cho quỹ có thể mở rộng đầu tư ra nước
ngoài. Do vậy, sự trợ giúp của nhà nước thể hiện ở việc nhà nước cần đi tiên
phong trong việc thành lập công ty quản lý quỹ và thiết lập các Quỹ đầu tư để mở
đầu tạo niềm tin cho công chúng trong đầu tư. Việc mở đầu thành công có ý nghĩa
rất quan trọng để khuyến khích, thu hút các thành phần kinh tế và các tổ chức
khác.
2. Về phía quỹ đầu tư
2.1. Chú trọng và đẩy mạnh việc đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý quỹ đầu tư chuyên
nghiệp
King nghiệm của nhiều nước trên thế giới cho thấy,một yếu tố có tính chất
quyết định đến sự thành công của Quỹ đầu tư đó là trình độ năng lực của các nhà
quản lý quỹ. Những nhà đầu tư riêng lẻ thường chọn những quỹ để đầu tư dựa trên
cơ sở xem xét tài năng của các nhà quản lý chuyên nghiệp của quỹ, họ sẵn sàng
rút vốn khỏi quỹ nếu như những nhà quản lý chuyên nghiệp xuất sắc đó không
làm ở Quỹ nữa. Do đó việc đào tạo một cách bài bản cho đội ngũ cán bộ của Quỹ
Quỹ đầu tư và thực trạng phát triển quỹ đầu tư tại Việt Nam Trang 16
để nâng cao trình độ của họ là yếu tố mang tính chất quyết định tới sự tồn tại cũng
như hiệu quả hoạt động của Quỹ.
Các biện pháp nâng cao trình độ chuyên môn của các cán bộ quản lý quỹ đầu tư:

- Cử một số cán bộ quản lý Quỹ các lớp bồi dưỡng đào tạo các kiến thức về
đầu tư, phân tích chứng khoán, về khung pháp lý của hoạt động đầu tư
một cách thường xuyên.
- Tuyển dụng các nhân viên có kiến thức sâu rộng về lĩnh vực đầu tư,
chứng khoán, đặc biệt ưu tiên cho những người có kinh nghiệm trong lĩnh
vực này.
- Cho các nhân viên ra nước ngoài để học hỏi kinh nghiệm quản lý Quỹ đầu
tư của các nước có thị trường tài chính phát triển.
2.2. Xây dựng chiến lược đầu tư thích hợp
Trong nền kinh tế đầy rẫy biến động, để có thể tồn tại và phát triển các Quỹ đầu tư cần
phải xây dựng được cho mình một chiến lược đầu tư thích hợp. Một chiến lược đầu tư
thích hợp là một chiến lược phải đảm bảo:
- Phù hợp với từng giai đoạn trong chu kỳ tăng trưởng của nền kinh tế.
- Phải hài hòa trong việc đảm bảo khả năng sinh lời đồng thời đảm bảo
sự an toàn cho số vốn của các nhà đầu tư trong Quỹ.
KẾT LUẬN:
Hiệu quả của quỹ đầu tư được đánh giá qua nhiều tiêu chí khác nhau, trong đó,
phổ biến có chỉ số giá trị tài sản ròng trên chứng chỉ quỹ (Net Asset Value Per
Share). Với các quỹ có đối tượng đầu tư tập trung là chứng khoán trên thị trường,
xác định giá trị tài sản tương đối dễ dàng và cũng biến động thường xuyên theo
vận động của thị trường. Xác định giá trị tài sản dự án phức tạp và ổn định hơn.
Trong báo cáo vận hành, các quỹ đầu tư thường đưa ra con số về NAV (Giá trị tài
sản ròng) tại thời điểm gần nhất. Thường xuyên theo dõi biến động các chỉ số này
trong báo cáo định kỳ giúp cổ đông theo sát hiệu quả vận hành của quỹ.
***
Quỹ đầu tư và thực trạng phát triển quỹ đầu tư tại Việt Nam Trang 17

×