ĐƯỜNG ĐI MỘT MÌNH
Linh Mục Dòng Tên Nguyễn Tầm Thường vừa cho xuất bản cuốn sách mới "Đưòng Đi Một Mình" là một
cuốn sách thứ tư trong bộ sách gồm 100 đoản khúc các đề tài suy niệm và cầu nguyện. Cuốn sách mới
này gồm đoản khúc thứ 76 đến 100 với 25 đoản khúc sau đây:
Ơn gọi; Con cần Chúa; Đêm tìm dầu; Anh cả; Lời chiếc giây thừng; Lối đi của ơn sủng; Ngày lễ bạc;
Ngày lễ vàng; Chọn một con đường; Thánh Thể; Tấm hình của mẹ; Nhân quả; Những làn khói; Hạt gạo
và Tấm Bánh; Một lối đi; Nhặt cá; Tấm bánh nhỏ; Những hòn đá mềm; Những lời chúc mừng; Là thân dã
tràng; Niềm tin của thầy Sadhu; Tạ ơn là một tâm tình; Sầu riêng; Của dâng cho Cha- Của biếu cho mẹ
và cuối cùng là đoản khúc thứ 100 Những mốc đường.
Nếu ai đã từng đọc những tác phẩm của Cha, chắc chắn sẽ yêu thích lối hành văn rất giản dị, dễ hiểu
nhưng tư tưởng rất phong phú.
Ngoài 100 đoản khúc trong 4 cuốn sách "Viết Trong Tâm Hồn", "Mùa Chay và Con Sâu Bướm", "Cô Đơn
và Sự Tự Do", "Đường Đi Một Mình", Cha Nguyễn Tầm Thường đã xuất bản 7 cuốn khác là "Nước Mắt
và Hạnh Phúc", "Con Biết Con Cần Chúa", "Những trang nhật ký của một linh mục", "Tình thơ thập giá",
"Mùa Hoa trên Thánh Giá Gỗ", "Đường Về Thượng Trí", "Tiếng Gọi phía Bên Trong".
Những ai chưa từng bao giờ đọc cuốn sách của Cha thì hãy thử kiếm cuốn "Nước Mắt và Hạnh Phúc"
hay "Những Trang Nhật Ký của một Linh Mục" thì chắc chắn quý vị sẽ khám phá thêm những điều trước
mắt mà không bao giờ nghĩ tới qua những câu chuyện xảy ra hằng ngày, sẽ làm hành trang và hướng đi
cho cuộc sống tâm linh của mình.
Đọc xong, bảo đảm quý vị sẽ tìm hết tất cả những cuốn sách của Cha để đóng góp cho tủ sách tinh thần
cho cá nhân hay cho gia đình.
Hãy tìm cho bằng được cuốn sách mới nhất "Đường Đi Một Mình", quý vị sẽ thức tỉnh khám phá sự phân
tích phong phú qua những đoạn Kinh Thánh mà quý vị đã từng nghe trong các Thánh Lễ hàng năm
nhưng không bao giờ để ý tới.
Sách có bán (10 Mỹ kim) tại các nhà sách Công Giáo Việt Nam hay tại các Cộng Đoàn Công Giáo Việt
Nam Hải Ngoại hoặc có thể liên lạc theo địa chỉ
Mr & Mrs Nguyễn Văn Nhuệ
22277 Modina
Laguna Hills, CA 92653 - USA
949 - 830- 0208
Mục Lục
Vào tập Đường Đi Một Mình
Đoản khúc 76: Ơn gọi
Đoản khúc 77: Con cần Chúa
Đoản khúc 78: Đêm tìm dầu
Đoản khúc 79: Anh cả
Đoản khúc 80: Lời chiếc giây thừng
Đoản khúc 81: Lối đi của ơn sủng
Đoản khúc 82: Ngày lễ bạc
Đoản khúc 83: Ngày lễ vàng
Đoản khúc 84: Chọn một con đường
Đoản khúc 85: Thánh Thể
Đoản khúc 86: Tấm Hình Của Mẹ
Đoản khúc 87: Nhân quả
Đoản khúc 88: Những làn khói
Đoản khúc 89: Hạt gạo và tấm bánh
Đoản khúc 90: Một lối đi
Đoản khúc 91: Nhặt Cá
Đoản khúc 92: Tấm Bánh Nhỏ
Đoản khúc 93:Những hòn đá mềm
Đoản khúc 94: Những Lời Chúc Mừng
Đoản khúc 95:Là thân dã tràng
Đoản khúc 96 : Niềm tin của thầy Sadhu
Đoản khúc 97: Tạ ơn là một tâm tình
Đoản khúc 98: Sầu riêng
Đoản khúc 99: Của Dâng Cho Cha, Của Biếu Cho Mẹ
Đoản khúc 100 : Những mốc đường
Phụ Trang
Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj.
VÀO TẬP ĐƯỜNG ĐI MỘT MÌNH
Có những con đường phải đi một mình.
Có những con đường không thể một mình đi.
Có những con người.
Có những con đường.
Hai con lừa xuống núi.
Một con yếu quá, xin con kia chở giúp.
Con kia không chịu.
Nửa đường, con lừa nọ đuối sức, rồi chết.
Bao nhiêu gánh nặng của con lừa chết, người quản gia chất hết lên lưng con lừa kia.
Bấy giờ nó hiểu về những con đường đi một mình.
Có những con người.
Có những con đường.
Người lữ hành thứ nhất ngã trong cơn bão tuyết.
Người thứ hai đi ngang qua. Cúi nhìn, bỏ đi.
Người thứ ba vác kẻ xấu số, cố chống tuyết ôm nhau đi.
Gần đến ngôi làng. Người ta thấy xác của người thứ hai chết bên đường.
Tuyết ngừng thổi, cũng là lúc người thứ ba cõng được người lữ thành thứ nhất đến nơi.
Trong cái chết hoang vu kia, có tiếng than thở của tuyết:
- Chúng tôi là thần tuyết. Cái chết không bí ẩn vì giá lạnh, nhưng nằm kín trong tim con
người. Nếu gã lữ hành thứ hai vác kẻ xấu số, đời ông ta đã không xấu số.
Người lữ hành thứ ba, bấy giờ mới biết nhờ vác kẻ xấu số ngã bên đường, mà sức nóng của
họ truyền sang nhau, cả hai sống sót đến được ngôi làng.
Bấy giờ ông hiểu có những con đường không thể một mình đi.
Có những con đường.
Có những con người.
Tôi đọc những câu chuyện này trên đường đời. Kẻ đi trước tôi đã hiểu về những con đường
nên họ viết ra những câu chuyện đó. Rồi họ chọn cho họ một con đường. Con đường của riêng
họ.
Khi nói con đường riêng của mỗi người thì dù mình đi chung với người khác, nó vẫn là con
đường riêng. Nó không riêng lẻ trong bóng người trên đường. Mà là riêng lẻ trong bóng hồn
quyết định. Trong ý nghĩa đó tôi cũng gọi là đường đi một mình.
Đường đi một mình vì có những quãng đời chỉ mình mình đi.
Đường đi một mình vì có những quãng đời không ai muốn đi với mình, mình vẫn phải đi.
Đường đi một mình vì có những quãng đời một mình chấp nhận không thể đi một mình.
Đường đi một mình vì có những quãng đời người khác đi chung với mình, nhưng mỗi người
vẫn có đường đời của riêng nhau.
Có những con người.
Có những con đường.
Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj.
ĐOẢN KHÚC 76: ƠN GỌI
- Thưa Cha, làm sao Cha biết Cha có ơn gọi đi tu?
Một lần, một người bạn trẻ đang tìm hiểu ơn gọi đã hỏi về ơn gọi của tôi.
Băn khoăn về ơn gọi đi tu là băn khoăn về một chuyện rất đẹp. Bạn đang băn khoăn về
tâm tình của hai người. Một người gọi và một người đang chờ muốn được gọi.
Đó là tâm tình của hai tâm hồn, hai trái tim nói chuyện với nhau. Người gọi là Chúa và
người nghe là bạn.
Ơn gọi là chuyện riêng tư, khi bạn hỏi làm sao tôi biết mình có ơn gọi đi tu. Tôi không
biết trả lời bạn sao cho dễ dàng. Trả lời theo ngôn ngữ những sách tu đức, thì tôi không chắc
mình biết những điều mình học. Trả lời bằng chuyện đời mình đã đi qua thì tôi lúng túng vì đó
là chuyện riêng và không biết bắt đầu thế nào. Trả lời bằng những gì mình đã đi qua thì nó có
những vụng về của nó, vì nó riêng tư, nhưng những gì mình đã đi qua thì mình biết rõ hơn.
Vì là chuyện Chúa gọi, nên chuyện ta đang nói với nhau liên hệ tới ơn thánh. Bạn đang
đi trên con đường rất đẹp. Nơi nào có ơn thánh, nơi nào có tiếng Chúa là nơi ấy có vẻ đẹp.
Một khi bạn băn khoăn không biết Chúa có gọi bạn đi tu không tức là bạn đã ít nhiều đang
nghe tiếng Chúa rồi, ít nhiều bạn đang đi vào đường đẹp đó rồi.
Khi trả lời bạn Chúa gọi tôi thế nào. Bạn nhắc nhở tôi về ơn gọi của chính tôi. Bởi thế,
trả lời bạn cũng là nhắc cho tôi tiếp tục sống ơn gọi ấy. Cám ơn bạn.
Bạn có cho rằng khi tiếng Chúa thì thầm gọi đã là quà tặng hay chưa, hoặc bạn phải
đợi tới khi đi tu rồi bạn mới cho đó là quà tặng. Với tôi, khi rất mơ hồ nghe tiếng gọi, có thể
một chiều nào bâng khuâng với tháp chuông, hình ảnh nóc giáo đường, tôi cho đó đã là quà
tặng rồi. Điều đó quan trọng đối với tôi vì câu trả lời cho bạn, tôi dựa trên luận cứ này. Nghĩa
là hễ cứ có bóng hình Chúa là có ân sủng rồi.
Muốn nói quà tặng là một ơn thánh, thì để lãnh nhận, tôi cần tâm hồn yêu mến vẻ đẹp.
Tiếng gọi là một ơn thánh, thì để nghe, tôi cần một cõi lòng thanh tịnh. Tôi cần chính ơn Chúa
để nghe tiếng Chúa. Tôi muốn nói những điều ấy với bạn để bắt đầu trả lời câu hỏi của bạn.
Khi bạn phân vân không biết Chúa gọi bạn thế nào đây. Đầu tiên, bạn dùng trí tuệ để
phân tích, rồi bạn có thể xin ý kiến người chung quanh. Điều đó rất đúng. Tôi cũng trải qua con
đường đó. Tuy nhiên, có một tâm tư tôi muốn nói với bạn:
- Cầu nguyện tha thiết và ngay lành trong tin tưởng.
Cần chính ơn Chúa để nghe tiếng Chúa thì bạn phải phó thác và đơn sơ khi tìm nghe
tiếng Chúa. Như tôi đã nói với bạn, tôi ngại khi trả lời bạn vì nó là câu chuyện riêng tư của
riêng mình.
Sự phó thác và đơn sơ như nghịch lý với thông minh của trí tuệ. Khi gặp một điều khó
khăn, bạn muốn dùng trí tuệ để giải quyết vấn đề. Một người thông minh lại càng muốn giải
quyết bằng trí tuệ của mình hơn. Lúc đó, rất có thể bạn nghĩ phó thác cho Chúa, điều ấy tiêu
cực quá.Còn tin tưởng là không tính toán theo trần thế, như một bé thơ, điều ấy có vẻ ngây
ngô quá. Sống trong xã hội bạn phải tính toán nhiều. Cạnh tranh với cuộc sống, bạn phải cân
nhắc, so đo, dè dặt. Người ta gọi đó là khôn ngoan.
Rất có thể bạn cũng áp dụng những nguyên tắc đó vào ơn gọi đi tu. Hoặc có khi bạn
cũng so đo, dè dặt khi nghe tiếng Chúa mà không biết rằng mình đang tính toán với Chúa. Hơi
khó để nói cho bạn điều tôi muốn nói, vậy bạn cho tôi nói bằng một kinh nghiệm của riêng tôi.
Vào năm đó, 1983 tôi đã đi hết năm năm thần học, sắp được thụ phong linh mục. Bấy
giờ Chúa lại gọi tôi vào một con đường khác: Con đường tu Dòng.
Qua lần này, tôi hiểu hơn thế nào là phó thác, tính toán và ơn gọi. Tân linh mục thường
là 26 hay 27 tuổi. Năm tôi học xong thần học đã là 32. Thay vì thụ phong linh mục, lúc này, tôi
cảm thấy đời sống tu dòng thích hợp với tôi hơn.
Tôi mong ngày thụ phong linh mục vì đã chờ đợi bao năm rồi. Bây giờ tới đích lại hoãn
lại hay sao ? Hoãn lại biết tới ngày nào? Biết nói sao với Đức Cha nếu bỏ địa phận ra đi. Cái
băn khoăn lớn nữa là nhà dòng có nhận mình không. Vì thế, bắt đầu phải “tính toán”.
- Một là cứ “âm thầm” liên lạc với nhà dòng, khi họ nhận mình rồi, bấy giờ báo cho Đức
Cha biết. Trình bày trước, nếu nhà dòng không nhận, biết chỗ đâu quay về? Đức Cha đã biết ý
định mình muốn ra đi như thế, liệu Đức Cha có nghi ngờ ơn gọi của mình không ? Liệu biết
đâu ngài mang thành kiến rồi đối xử tệ với mình thì sao đây? Những ý nghĩa ấy làm tôi ái ngại.
- Hai là cứ thụ phong linh mục trước đã, rồi vào dòng sau cũng được. Điều này còn
chắc hơn nữa vì mình đã là linh mục rồi, có thể nhà dòng quý mến mình hơn. Tôi hỏi ý kiến và
có người cũng góp ý với tôi như vậy. Họ bảo phải khôn ngoan mà tính toán.
Xem ra con đường nào cũng có vẻ hợp lý.
Nhưng suy niệm trước Nhà Chầu của Chúa, tôi thấy có dáng dấp của sự thiếu siêu
thoát.
Điều làm tôi băn khoăn hơn nữa là bấy giờ tôi vẫn mang student visa. Tôi tỵ nạn bên
Âu Châu. Từ Âu Châu qua Mỹ, tôi mất quyền tỵ nạn, không có thường trú nhân. Nếu thụ phong
linh mục, sẽ có thường trú nhân ngay, điều này lợi lắm vì tôi có thể làm giấy bảo lãnh gia đình
qua Mỹ. Là người con duy nhất ở nước ngoài, người anh cả của bẩy đứa em, điều đó thôi thúc
tôi rất nhiều. Trăn trở ấy cứ bảo tôi thụ phong linh mục đi đã. Những chiều thinh lặng trước
Nhà Chầu, tôi thấy Chúa không bằng lòng với cả hai cách tính toán trên.
Những cuối tuần sinh viên đi nghỉ, nhà trường vắng, tôi ở trong phòng với những tính
toán. Đã nhiều lần tôi lấy ý kiến người khác để xoa dịu lương tâm mình, nhưng trước Nhà
Chầu của Chúa, Chúa vẫn có một tiếng nói riêng. Chúa nói phải siêu nhiên và phó thác.
Bây giờ, tôi muốn nói với bạn về “tiếng nói riêng” này của Chúa là gì. Trong những giờ
cầu nguyện, tôi nghe như Chúa nói rằng: “Con hãy dùng trí thông minh mà tính toán trong cuộc
đời, nhưng chuyện ơn gọi đi tu, con đừng tính toán”.
Lúc ấy,. nhìn về tương lai thật mù mờ. Làm sao tôi dám gọi niềm tin mà phó thác. Tôi
muốn tính toán sao cho đời mình khỏi lỡ dở. Tôi nghe văng vẳng cung điệu đó là, với Chúa, tôi
phải lắng nghe tiếng gọi bằng con tim chân thành. Nếu tôi tính toán, đời linh mục của tôi sẽ
không trong sáng. Nhưng còn gia đình tôi thì sao. Giữa lúc biết bao người đang qua Mỹ theo
diện đoàn tụ dành cho người Việt Nam. Tôi cần tấm thẻ xanh thường trú nhân.
Ơn gọi đi tu là một tự do tuyệt vời, tự do của cả hai trái tim, nơi người gọi và nơi người
nghe. Tuyệt đối không thể có tính toán trần thế, vì ơn gọi này không thuộc về trần thế, làm việc
giữa trần thế, nhưng không đến từ trần thế.
Tôi phải tìm hiểu ơn gọi trong sự tin tưởng. Trong những ngày đó, cám dỗ của tôi là cứ
giấu Đức Cha đi. Mình tự tính toán như thế là đủ rồi. Tôi không muốn nói với bạn là bề trên
luôn luôn không thể sai lầm. Có khi bề trên sai lầm.
Điều tôi muốn nói với bạn là sự chân thành và nghe tiếng gọi từ nơi Nhà Chầu vắng.
Tôi tin điều này và có những trường hợp tôi phải tin một cách mãnh liệt, một trong
những trường hợp đó là để Chúa hành động trong ơn gọi linh mục của mình. Riêng trong
trường hợp của tôi, tôi biết có khi bề trên cũng sai lầm, nhưng ở đây, qua những giờ phút tính
toán, tôi thấy Chúa muốn tôi hành động qua Đức Cha. Phải cho ngài biết.
Biết vậy, nhưng tôi phải chiến đấu lắm mới dám trình bày tất cả cho cả Đức Cha địa
phận và nhà dòng biết. Tôi đã qua những quyết định thật khó khăn. Chắc bạn muốn biết, vậy
Đức Cha nghĩ gì và rồi tôi tiếp tục ơn gọi ra sao ?
Sau khi trình bày xong, Đức Giám Mục địa phận im lặng rồi nói: “Nếu nhà dòng không
nhận, thầy vẫn có thể ở trong địa phận của tôi. Nhưng thầy sẽ không được chịu chức. Thầy sẽ
đi giúp xứ, bao lâu tôi không biết, cho đến khi tôi gọi”.
Chợt nghe, lòng tôi cũng se sắt, đã xong năm năm thần học rồi, bây giờ lại biết đến bao
giờ. Thụ phong linh mục, tôi sẽ có thường trú nhân, tôi nghĩ đến gia đình.
Đối với ơn gọi, ta phải quy phục trước thánh giá bạn ạ.
Những tháng ngày sau đó, tôi chưa biết nhà dòng có nhận tôi không, nhưng tôi thấy
mình không có chút gì gian dối trong ơn gọi. Có hơi buồn và trăn trở nhưng tôi thấy mình đi
đúng hướng. Khó khăn thì không hết nhưng có bình an. Tôi mơ hồ hiểu bình an mà Chúa nói
với các môn đệ không như bình an của thế gian. Tôi cũng mơ hồ cảm thấy một nỗi niềm nào
đó có thể là xót xa xẩy ra về vấn đề bảo lãnh gia đình.
Cũng những tháng ngày sau đó, Đức Cha thương tôi hơn. Có lần ngang qua tiểu bang,
phải đợi máy bay ngoài phi trường, ngài lấy taxi vào chủng viện thăm tôi, điều mà chưa bao
giờ xảy ra trước đó. Cái thăm rất chân tình không phải để “câu người” nhưng là như người cha
giúp đứa con của mình tìm thánh ý Chúa. Tôi nói với Đức Cha:
- Con muốn tìm hiểu thánh ý Chúa, con trình bày hết và xin Đức Cha giúp con. Con rất
ngại khi nhìn về mấy năm ăn học mà địa phận đã trả cho con.
Đức Cha ôn tồn nói:
- Thầy không phải lo gì cả, thầy cứ tìm hiểu thánh ý Chúa đi. Ở đâu cũng là phục vụ
cho Giáo Hội.
Năm 32 tuổi tôi mới vào dòng. Lại một con đường mới. Nhà dòng cũng chưa biết tôi thế
nào. Nhà dòng cũng cần thời gian để thử thách tôi thêm. Trước khi vào dòng, tôi đã nhìn thấy
thời gian dài đằng đẵng ấy, Cha Bề Trên Dòng cho biết ít nhất phải đợi thêm sáu năm nữa. Tôi
đã học xong chương trình thần học của địa phận là năm năm. Tôi có thể thụ phong linh mục
và có thường trú nhân ngay. Bây giờ phải đợi thêm sáu năm nữa, tiếp tục đời sinh viên, mà
còn dài hơn chính chương trình thần học tôi vừa học xong. Thời gian quá dài làm tôi ngán
ngẩm. Có những ngày dài tôi rất ái ngại, hơi hoang vu.
Tôi cũng tự hỏi sau những năm dài ấy mới thụ phong linh mục, lúc đó mới có thường
trú nhân, có thể tôi mất cơ hội bảo lãnh gia đình qua Mỹ. Điều ấy làm tôi lo lắng và buồn nhất.
Tôi cảm thấy mơ hồ một điều gì đó sẽ xảy ra. Tôi biết thế.
Và như điều lo xa, điều ấy đã xẩy ra.
Tôi đã mất cơ hội bảo lãnh gia đình.
Thời gian chờ đợi quá lâu. Sau năm năm thần học của địa phận, tôi chờ thêm sáu năm
nữa theo chương trình trong dòng. Tất cả sau mười một năm, thụ phong linh mục xong, có
thường trú nhân, nhưng phải đợi năm năm để lấy quốc tịch. Thụ phong linh mục xong, tôi đi
làm mục vụ bên trại tỵ nạn. Ngày trở về Mỹ, chương trình bảo lãnh đoàn tụ không còn. Điều dự
đoán đã xảy ra như vậy. Tôi chấp nhận con đường của riêng tôi.
Tôi không bảo lãnh gia đình qua Mỹ được, tôi nhìn đó như là cả gia đình được tham dự
vào ơn gọi của tôi. Tôi quý ơn gọi này.
Nhìn lại những bến bờ, tôi nhờ sáu năm chậm lại này mà gặp gỡ biết bao chuẩn bị tốt
làm hành trang cho con đường linh mục của tôi trong tương lai. Lại cũng nhờ thêm sáu năm
nữa làm việc mục vụ bên trại tỵ nạn mà tôi chìm sâu hơn vào ơn gọi linh mục. Thanh thoát sau
những năm đầu đời mục vụ, rồi mơ hồ lãng đãng, không hẳn sương, không hẳn khói, nhưng nó
không là bình minh rất sáng. Những mùa hè về Mỹ giúp tĩnh tâm, có dịp ghé qua những nơi
cộng đoàn Công Giáo Việt Nam đông đúc. Khi được mời dâng lễ cưới, họ gởi tôi phong thơ tạ
ơn. Ở những cộng đoàn như thế, lòng quý mến của giáo dân Việt với linh mục còn cao quý
lắm. Từ đó, có những so sánh, thiếu tâm tình cao thượng của con diều yêu trời mây. Để sống
đời linh mục mà không phải chống lại một lười biếng, dễ dãi nào đó, tôi rất nghi ngờ về lối
sống thoải mái này.
Tôi không muốn gọi những tháng ngày vất vả tìm hiểu đó là cách Chúa “thử thách”. Tôi
muốn gọi đó là con đường Chúa thanh tẩy. Chúa biết những gì tôi cần hơn để chuẩn bị cho đời
sống linh mục của tôi. Chúa có cách chuẩn bị riêng cho bạn. Bạn hãy chân thành và tin tưởng
Chúa trong lúc tìm hiểu ơn gọi của bạn. Bạn cũng hãy nhìn về phía trước, nếu đó là ơn gọi,
bạn phải bảo vệ ơn gọi đó thế nào. Những gì xảy ra khi bạn theo ơn gọi đó.
Ơn gọi là ánh trăng. Cần một hồ nước êm ả.
Ơn gọi là áng màu của mây, phải đón gió để nó trôi đi.
Ơn gọi là quà tặng, hãy nhận bằng tâm hồn yêu mến vẻ đẹp.
Ơn gọi đi tu là vẻ đẹp của ánh sáng trong đêm, bạn đừng để bụi đường toan tính trần
thế làm mờ ánh lấp lánh của ngàn sao.
Như tôi đã nói với bạn. Chúa gọi mỗi người một cách riêng tư. Vì riêng tư nên chúng ta
đáp trả riêng tư. Vì riêng tư nên nguy cơ có thể xảy đến với bạn không có nghĩa là nguy cơ
cho tôi. Tôi quyết định theo tiếng gọi của tôi, nên tôi không được đưa tiêu chuẩn đó vào quyết
định của bạn.
Bạn có cho những quyết định của tôi trong cách tìm hiểu ơn gọi như thế là không biết
“tính toán” không? Cuộc đời hôm nay họ bảo phải “khôn ngoan” mà sống. Phải “thực tế” mà
hành động. Sau cùng, rất có thể họ chối từ niềm trông cậy và phó thác, họ không còn thành
thật nữa. Và rồi sự “khôn ngoan” trần thế đi quá sâu vào những công việc siêu nhiên.
Bạn đồng ý hay không vẫn là suy tư của riêng bạn.
Khi bạn tìm hiểu về ơn gọi và bạn hỏi tôi về ơn gọi của riêng tôi, thì tôi phải trả lời bằng
kinh nghiệm của riêng mình. Như thế, bạn biết đó, câu trả lời cho bạn, nó chân thành đến từ
một trái tim. Và cũng chân thành, tôi xin nói với bạn, hôm nay, tôi rất quý đời sống linh mục
của tôi. Tôi hạnh phúc trong ơn gọi. Tôi thấy đời ơn gọi linh mục quá đẹp. Không có gì thay đổi
hoặc đánh mất được ơn gọi này. Ngày thơ tuổi nhỏ tôi viết Tình Thơ Thập Giá và Mùa Hoa
Trên Thánh Gía Gỗ. Dù ngày xưa tuổi nhỏ, tôi đã mơ hồ thấy rằng thập giá vẫn có tình thơ. Dù
chỉ là thánh giá gỗ vẫn nở mùa hoa. Cô đơn của thập giá, tuổi nhỏ, tôi gọi là cô đơn của thi ca.
Lời kinh đời linh mục, tôi viết về buổi chiều lẻ loi là lẻ loi thi vị của văn chương. Trải qua một
phần đời linh mục, tôi có thể nói, linh mục không thể cô đơn hiểu theo nghĩa là héo hắt, sầu
muộn. Lẻ loi của lời kinh linh mục là một huyền nhiệm linh thiêng. Là vẻ đẹp của một đường đi.
Đời linh mục vẫn là một huyền nhiệm tiếp tục gọi tôi vào khám phá. Hạnh phúc vì được
khám phá và từ khám phá họ bắt gặp hạnh phúc. Phải chăng đấy chỉ là hai bờ đê của một
dòng sông mà nhiều người chọn đi. Có những dòng sông họ phải quyết định ra khơi một mình.
Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj.
ĐOẢN KHÚC 77: CON CẦN CHÚA
Tôi chối từ Thiên Chúa,
Thiên Chúa vẫn hiện diện. Vì Ngài là Thiên Chúa.
Thiên Chúa không cần tôi chứng minh có Thiên Chúa.
Thiên Chúa cũng không cần kẻ khác chứng minh cho tôi biết về Thiên Chúa. Vì Thiên
Chúa thì không cần chứng minh.
Như mặt trời không cần ai chứng minh về ánh sáng cho người mù.
Như người dưới căn hầm, mặt trời không hiện diện với đôi mắt ấy mà thôi, mặt trời vẫn
hiện diện với vũ trụ.
Từ đó,
Lạy Thượng Đế, xin cho con biết kêu lên: Con biết con cần Ngài.
Trong các kinh Tiền Tụng của thánh lễ, lời Tiền Tụng Chung IV là kinh rất ít khi giáo
dân nghe linh mục đọc. Hầu hết các thánh lễ chỉ dùng Kinh Tạ Ơn II. Lời Tiền Tụng Chung IV
đọc như sau:
Lạy Cha chí thánh
là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu,
chúng con tạ ơn Cha mọi nơi, mọi lúc,
thật là chính đáng, phải đạo
và sinh ơn cứu độ cho chúng con.
Thật ra,
Cha không cần chúng con ca tụng,
nhưng được tạ ơn Cha lại là một hồng ân cao cả,
vì những lời ca tụng của chúng con
chẳng thêm gì cho Cha
nhưng đem lại cho chúng con ơn cứu độ muôn đời,
nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Vì thế hiệp với các thiên thần và các thánh
và đồng thanh tung hô rằng:
Thánh! Thánh! Chí Thánh.
Qua lời Kinh Tiền Tụng này, Giáo Hội chỉ rõ cho ta biết bản chất Thiên Chúa như thế
nào.
Một thần linh là Thượng Đế nên lời ca tụng của người phàm. Vì là Thượng Đế nên lời
ca tụng của phàm nhân chúng ta chẳng thêm gì cho Ngài.
Trong ngôn ngữ con người, chúng ta hay nói, hãy ca tụng Chúa để Thiên Chúa được
vinh danh, là lời nói có thể làm hiểu sai lạc về bản chất Thiên Chúa. Chính Sách Lễ Rôma của
Giáo Hội đã xác định như trên.
Vậy chúng ta chỉ còn một cách hiểu chính xác theo Sách Lễ Rôma là:
Được tạ ơn Chúa là hồng ân cao cả cho chính tôi.
Lời ca tụng của chúng tôi không thêm gì cho Chúa,
nhưng đem lại cho chúng tôi ơn cứu độ.
Từ Lời Tiền Tụng trên, chúng ta hãy xin cho mình lời nguyện là:
- Lạy Thượng Đế, con biết con cần Ngài.
Nhiều người nghĩ rằng mình làm “vinh danh” Chúa bằng lời ca tụng của mình, nên khi
bất mãn với Giáo Hội thì ngừng ca tụng Chúa.
Có người nghĩ rằng Chúa cần mình, nên khi “bất mãn” với Chúa thì không ca tụng để
Thiên Chúa bị thiệt thòi.
Có ai cứ nhắm mắt lại để mặt trời bớt ánh sáng không.
Có ai xuống hầm tối cho mặt trời thiệt thòi không.
Khi chúng ta hiểu rõ lời ca tụng của chúng ta không thêm gì cho Chúa nhưng lại thêm
cho chính mình. Khi chúng ta hiểu rằng Thiên Chúa không cần ai ca tụng, nhưng ca tụng Chúa
lại là hồng ân cho chính mình thì chúng ta phải nghiêm chỉnh đặt vấn đề về những lời ca tụng
của chúng ta.
Thái độ thứ nhất: Ao ước được ca tụng.
Lạy Chúa từ bi và nhân hậu,
Người thanh niên giàu đó trong Phúc Âm đến hỏi Chúa đâu là con đường siêu thoát.
Chúa cho anh ta một hồng ân là đến theo Chúa. Anh không muốn từ chối. Nhưng lòng anh quá
nặng nề, sau cùng anh cúi mặt bước đi buồn rầu. Rất tội nghiệp cho anh. Tại sao Chúa không
năn nỉ anh? Hình ảnh siêu bạo ở đây là Chúa không năn nỉ. Phải chăng vì theo Chúa là một
hồng ân đem lại ơn cứu độ cho chính anh. Hôm nay, rất nhiều cha mẹ phải “năn nỉ” con cái đi
lễ. Rất nhiều linh mục “năn nỉ” giáo dân đến nhà thờ. Trong các thánh lễ, có rất nhiều thứ “năn
nỉ”. Năn nỉ đóng tiền. Năn nỉ làm việc tông đồ. Bởi đâu, lạy Chúa, chúng con có những não
trạng như thế. Phải chăng chúng con đã không hiểu rằng những lời ca tụng kia là cần thiết cho
chính chúng con.
Thái độ thứ hai: Khiêm tốn trong lời ca tụng.
Vì Chúa là thần linh không cần lời ca tụng của phàm nhân, nên con phải xin Chúa cho
con được ca tụng. Lời của phàm nhân tội lỗi, tâm trí phàm nhân u mê, sao chúng con dám ca
tụng thần linh. Bởi đó, được ca tụng Chúa là hồng ân, nên chúng con phải khiêm tốn trong mọi
cộng việc tông đồ. Biết đâu có linh mục hôm nay rất tự hào về những công trình của mình. Từ
đó, cũng biết đâu, nhiều tín hữu thấy mình quan trọng trong lời ca tụng, và việc dâng cúng. Tất
cả chúng con đều lầm lẫn. Xin Chúa từ bi và nhân hậu thương xót chúng con.
Thái độ thứ ba: Chờ đợi được ca tụng.
Lạy Chúa từ bi và nhân hậu,
Vì lời ca tụng Chúa mang ơn cứu cho chính chúng con, nên chúng con phải khiêm tốn,
ao ước và chờ đợi được ca tụng. Nhiều lần trong Phúc Âm, Chúa gọi các môn đệ theo Chúa.
Chúa truyền cho các ông làm việc này, việc kia. Đấy là hồng ơn cao cả chứ không phải Chúa
thiếu thốn. Cái thiếu thốn của chúng con là thiếu Chúa. Cái nghèo của chúng con là không
được Chúa sai đi. Khi hiểu thế, chúng con phải hạnh phúc biết bao khi được Chúa kêu mời.
Lạy Chúa từ bi nhân hậu,
Xin cho con biết lắng nghe Chúa sai bảo thật tha thiết, chờ đợi như kẻ cắp rình mồi. Vì
con nghèo lắm nếu Chúa không sai con đi. Nếu không được ca tụng Chúa con lấy đâu hồng ân
cho hạnh phúc của con.
Bạn thân mến,
Công việc mục vụ của tôi là đi giúp tĩnh tâm. Có người hỏi tôi, Phúc Âm thì lần nào đọc
cũng giống nhau. Đọc mãi Cha có chán không.
Lời Phúc Âm chỉ có vậy, nhưng tuỳ cách nghe mà lời đó khác.
Một lần kia, vì lối nói của tôi, phút đầu khai mạc làm một người bất mãn. Họ không
muốn đi tĩnh tâm. Nhưng vì bị “năn nỉ” quá, sau cùng có mặt trong cuối tuần linh thao. Một cuối
tuần đến retreat house – nhà tĩnh tâm như thế, ít ra cũng hết một trăm năm mươi đô la một
đầu người. Hầu hết những người ngại đi tĩnh tâm là không có thời giờ, và tiếc tiền. Hầu hết
cha mẹ nói với con cái, linh mục nói với giáo dân là “hy sinh” dâng cho Chúa một cuối tuần tĩnh
tâm để ca tụng Chúa. Đối với tôi đấy không phải là hy sinh. Hy sinh là chịu thiệt về mình cho
người khác phần lợi. Vì cách nói của tôi làm họ bực bội.
- Thưa Cha, nếu không hy sinh, con không đến đây chiều nay được. Còn biết bao công
việc ở nhà nếu không hy sinh làm sao bỏ được.
Họ bực với tôi, bực luôn với những ai đã “năn nỉ” họ đi. Tôi không ngờ buổi tối khai
mạc mà bầu khí không êm ả chút nào, tôi cố gắng đưa mọi người vào giờ kinh tối, rồi đi ngủ.
Qua một ngày thinh lặng, tối hôm sau, trước giờ kinh tối:
- Thưa cha, con xin có đôi lời.
Người này cất tiếng. Rồi tiếp:
- Tôi xin lỗi anh chị em những gì tôi nói tối qua. Sau một ngày thinh lặng, tôi thấy có
một cái gì đang xảy ra nơi tâm hồn tôi. Tôi chưa có bình an, chưa thấy Chúa đâu, nhưng có
một chút gì đó làm tôi suy nghĩ.
Nhìn bóng đèn trên trần nhà. Tâm sự với mọi người:
- Có tôi hay không, thì chiều nay bóng đèn này vẫn sáng. Đâu phải thiếu tôi mà bóng
đèn bớt sáng đâu.
Rồi quay nhìn ra sân tối:
- Tôi cũng xin lỗi những ai tôi xúc phạm, những ai đã khuyến khích tôi đi khoá linh thao
này. Nếu tôi bỏ lò sưởi ra sân đứng thì tôi lạnh, chứ đâu phải thiếu tôi, tôi làm cho lò sưởi bớt
sức nóng đâu. Thiên Chúa là như vậy. Tôi đến thì tôi ấm, tôi xa Ngài, tôi lạnh, Thiên Chúa cho
tôi sức ấm chứ tôi làm sao cho Ngài thêm lửa nóng được.
Bạn thân mến,
Sau cùng, người này đã có những ngày tĩnh tâm - nghỉ ngơi với Chúa rất đẹp.
Chớ gì chúng ta hiểu rõ và thưa với Chúa: Lạy Chúa, con biết con cần Chúa.
Riêng với bạn đang đọc dòng này, không cùng tôn giáo với tôi. Tôi cầu chúc bạn hãy
nói:
- Lạy Thượng Đế, lạy Trời Phật, con biết con cần Ngài. Bởi đó, là con đường đi rất đẹp
của một phàm nhân.
Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj.
ĐOẢN KHÚC 78: ĐÊM TÌM DẦU
Những đêm chôn dầu vượt biên đã chấm dứt.
Hôm nay nhà nước Việt Nam không gọi những người vượt biên năm xưa phải chạy khốn khổ là
phản động nữa, mà là “cánh tay nối dài của quê hương”.
Cuộc đời cứ như chong chóng. Dừng lại cơn gió lốc. Tôi muốn hỏi lòng mình, quê hương nào?
Nối cánh tay về đâu?
Tôi viết những dòng này sáng ngày 20 tháng Tư năm 2005. Ngày 30 tháng Tư năm nay khác
hơn mọi năm vì đánh dấu 30 năm vượt biên tìm quê hương.
Tìm dầu. Chôn dầu. Giấu dầu. Tỵ nạn. Vượt biên. Tự do. Ngục tù. Sống và chết. Ra đi. Quay về.
Quê hương. Giữa những danh từ này. Đâu là chân lý. Chân lý là sự thật tiêu chuẩn cho cuộc đời, nó phải
vĩnh cửu, không thể quay theo gió được. Có nhiều thứ quê hương. Quê hương lưu đầy. Quê hương sinh
ra và lớn lên. Quê hương chạy chốn. Quê hương vĩnh cửu.
Chân lý là câu chuyện kể thế này:
Có năm người khờ dại, đem đèn mà không đem theo chai dầu.
Khi chàng rể đến. Năm cô khôn ngoan, đem đèn, đem theo cả dầu, ra đón chàng rể.
Năm cô đem đèn mà không có dầu, vay mượn, nhưng người ta không cho.
Khi những người kia đi mua dầu thì chàng rể vào tiệc cưới. Cửa đóng lại.
Thánh sử Matthêu kết thúc bằng hàng chữ sau: “Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không
biết ngày nào, giờ nào” (Mt 25: 1-13).
Kinh Thánh gọi câu chuyện thiếu dầu, tìm dầu, không có dầu trên đây là quê hương Nước Trời.
Kinh Thánh không nói với những người có dầu hãy chia bớt cho người kia. Kinh Thánh không khuyên
người ta làm việc bác ái. Nhưng bảo: “Hãy canh thức, vì không biết ngày nào giờ nào.”
Tại sao không chia sớt cho nhau?
Cuộc đời có những suy tư, đứng trên bờ giếng ta thấy khác, xuống lòng giếng sâu ta thấy khác.
Chẳng hạn người ta cứ than phiền người Việt Nam không đúng giờ. Đi lễ trễ.
Tháng 10 năm 2004 tôi giúp tĩnh tâm cộng đoàn Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, ở vùng Dallas, Texas.
Trong thánh lễ Chúa Nhật hôm đó, tôi tâm sự với cộng đoàn:
- Kính thưa anh chị em,
Sáng nay thánh lễ Chúa Nhật, tôi đứng trên đây mới thấy rõ. Nhiều anh chị em đi lễ trễ quá. Tôi
thấy nhiều anh chị em đi rất lững thững. Đã qua phần công bố Lời Chúa rồi.
Tôi chỉ là cha khách thôi, cứ thường, theo sự khôn ngoan ngoài đời, tôi chẳng nên nói. Đến cộng
đoàn nào cũng cứ khen cha xứ tài khéo. Khen ban mục vụ hăng say. Khen tinh thần cộng đoàn sốt sắng.
Như thế cha quản nhiệm cũng thích mình. Mình ra đi ai cũng thích. Tôi chỉ là cha khách. Kệ giáo xứ
người ta.
Nhưng sáng nay, tôi xin tâm sự với anh chị em đôi điều. Nhiều anh chị em đi lễ sáng nay quá trễ.
Tôi thấy cộng đoàn ngồi im. Dường như họ đang chờ đợi một cái gì khó nói sắp xảy ra. Tôi cũng
không biết cha xứ chủ tế ngồi đó nghĩ gì, thấy vui vì tôi nhắc điều chính cha cũng đã nhắc, hay là thấy
đau vì cha khách chê giáo dân của mình. Tôi nói với họ:
- Nếu tôi không nói những điều khó nói, nhưng cần nói, tôi chỉ là người làm thuê. Tôi không
thương Giáo Hội, tôi không kính trọng anh chị em. Tôi không xây dựng. Những gì tôi nói đến từ tấm lòng.
Chúng ta cần những gợi ý giúp chúng ta suy tư. Vì thế tôi xin nói. Chúng ta nghe quá thường là người
Việt Nam không đúng giờ. Nói đến người Việt Nam, chúng ta bảo là giờ giây thung, giờ cao su. Đối với
tôi, tôi thấy người Việt Nam rất đúng giờ. Tôi thấy những biến cố lịch sử đã chứng minh rõ lắm. Tôi xin
hỏi anh chị em:
- Có ai trễ giờ ngày họ vượt biên không ?
Cả nhà thờ ngồi im. Hằng trăm ngàn người vượt biên, không ai trễ giờ. Lịch sử minh chứng điều
đó. Như vậy tại sao có thể nói trễ giờ là đặc tính của người Việt Nam? Lạ thật, hàng trăm ngàn người mà
không ai trễ giờ. Họ đến trước giờ vượt biên. Họ nằm chờ, có khi cả mấy ngày trước chuyến ghe khởi
hành.
Anh chị em không trễ giờ ngày vượt biên, tại sao anh chị em đi lễ trễ? Anh chị em không trễ giờ
ngày vượt biên tại sao anh chị em đi dự tiệc cưới trễ?
Cả nhà thờ ngồi im. Tôi không trách họ. Tôi chỉ gợi ý cho họ suy tư thôi. Tôi muốn họ không
đứng trên bờ giếng tìm nguyên nhân, hãy xuống sâu dưới lòng giếng. Hãy trở về thâm sâu trong trái tim
mình để tìm nguyên cớ. Tôi chỉ muốn nói với họ, đi trễ không phải là đặc tính của người Việt Nam. Người
Việt Nam chỉ đi trễ tuỳ cái họ muốn trễ. Tôi nói thêm với họ một câu, như để trả lời thay cho sự cắt nghĩa.
Người Việt Nam có câu: “Cha chung không ai khóc”. Phải chăng xuống giếng sâu trong tâm hồn ta bắt
gặp những suy tư rất khác?
Anh chị em không trễ giờ trong ngày vượt biên, vì nó có nguyên nhân của nó. Anh chị em đi lễ
trễ, nó cũng có nguyên nhân của nó. Lý do đơn giản và tôi thấy rõ là vì anh chị em thiếu lòng tha thiết.
Nhưng tại sao anh chị em không tha thiết với thánh lễ thì tôi không trả lời được. Câu trả lời nó nằm sâu
trong trái tim mỗi người.
Câu chuyện mười cô trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể cũng lạ thật. Phúc Âm gọi đó là câu
chuyện về quê hương Nước Trời. Năm cô mang đèn mà không mang theo dầu. Họ không dám bỏ đèn.
Ra đi cũng có đèn. Nhiều người không dám bỏ nhà thờ. Nhiều người không dám bỏ đạo, họ xách theo
cái đèn. Ai cũng thấy họ có đèn. Họ không có dầu.
Trước ngày vượt biên, họ tìm dầu, chôn dầu, giấu dầu. Cuộc hành trình rất cam go.
Trước ngưỡng cửa sự chết. Không ai vay mượn công đức của người khác được. Dầu tôi có
nhiều hay ít, tôi vào sự chết với số dầu đó. Ánh sáng trong đường hầm sau cái chết tuỳ ngọn đèn của tôi.
Không ai thắp đèn thay tôi. Không ai xách dầu dùm tôi được.
Tại sao không chia sớt dầu cho nhau ?
Bây giờ tôi hiểu. Phúc Âm gọi đó là câu chuyện Nước Trời. Không phải để người khác lên trời
thay mình hay thuê người khác xuống ngục tối thay ta. Nhân đức là bình dầu không vay mượn được. Vì
thế Kinh Thánh không thể chỉ cho ta cách vay mượn mà chỉ có thể dạy ta “hãy tỉnh thức”.
Đó là câu chuyện đường tôi phải đi một mình.
Lạy Chúa,
Ba mươi năm vượt biên là con số rất lớn cho một đời người.
Trước ngày vượt biên, con tìm dầu, chôn dầu, giấu dầu. Cuộc hành trình rất cam go. Cánh tay
nối dài mãi chưa tới quê hương. Ba mươi năm nhìn lại. Bến bờ còn lại của những ngày tháng ngắn ngủi
trong đời. Con sẽ vượt biên nữa. Chuyến vượt biên này là chuyến định mệnh đời con. Vượt qua cuộc
sống, vào cái chết.
Vào cái chết rồi, có người có đèn mà không có dầu. Lúc ấy, chắc buồn biết bao.
Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj.
ĐOẢN KHÚC 79: ANH CẢ
“Về gần đến nhà, khi nghe thấy tiếng đàn ca nhảy múa, liền gọi một người đầy tớ ra mà hỏi xem có
chuyện gì” (Lc 15:25).
Đó là phản ứng đầu tiên của người anh trong câu chuyện “đứa con hoang đàng” hay là “người
cha nhân hậu” của Phúc Âm thánh Luca.
Tại sao không vội vã vào ngay?
Có thể anh ta đoán được chuyện gì đang xảy ra. Chuyện người em đã về.
Anh ta không muốn vào nhà vì biết đâu người em đã về thật. Anh gọi người đầy tớ ra hỏi cho
chắc. Không ngờ, người đầy tớ báo tin. Trong lời báo tin này có ba sự kiện:
- Em cậu đã về !
- Cha cậu đã giết con bê béo !
- Vì gặp lại cậu ấy mạnh khoẻ! (Lc. 15:27).
Nghe xong, anh “nổi giận”, không chịu vào nhà. Thế là hết! Ba yếu tố vừa kể trên làm anh ta đau
đớn. Anh không muốn đứa em về. Không muốn người cha thịt con bê béo. Không muốn người cha nhìn
đứa em mạnh khoẻ. Anh chối từ bữa tiệc. Chối từ bữa tiệc cũng là không muốn gặp mọi người hiện diện
ở đó. Nếu vào nhà, gặp đứa em, anh ta làm sao chạy ra? Nếu vào nhà, bà con láng giềng chúc mừng em
anh ta đã về, anh biết phản ứng làm sao? Anh không vội vã vào nhà. Anh đã tính toán khá kỹ.
Tại sao không truyền lệnh mà năn nỉ?
Có thể người đầy tớ phải vào báo cho chủ biết nên người cha mới ra gặp anh ta. Hoàn cảnh
người cha rất khó xử. Nếu anh ta không vào, ông trả lời thế nào với đứa con thứ khi nó hỏi:
- Anh con đâu?
Nếu người con trưởng không vào, ông biết nói thế nào với bà con láng giềng về sự vắng mặt rất
ý nghĩa này. Nếu những người giúp việc nói chuyện với nhau, họ phản ứng thế nào, vì họ không ngờ
chuyện lại xảy ra như thế. Ai cũng nghĩ là một ngày vui. Rồi câu chuyện đến tai bà con lối xóm, những
người dự tiệc. Bây giờ, đề tài trong bữa tiệc này chuyển hướng về đâu?
Ngày hôm nay, có bố mẹ cũng không sao sắp xếp được cho các con ngồi chung với nhau một
tiệc vui. Có những anh em thề không nhìn mặt nhau. Họ nói:
- Nếu có vợ chồng chúng nó, không có con!
Vì sao người cha trong câu chuyện này không truyền lệnh mà lại năn nỉ? Ông rơi vào tình cảnh
đó. Ông ở một hoàn cảnh rất thương tâm.
Phản ứng của người con thứ
Cho đến lúc này ta không nắm chắc tâm tư người con thứ và cuộc trở về của nó.
Nếu người con thứ biết anh nó đang nổi giận ngoài kia. Liệu bữa tiệc có tiếp tục vui?
Chi tiết cho hay là nó về vì đói. Luca nói rõ: Nó ước ao lấy đậu muồng heo ăn mà nhét cho đầy
bụng. Nhưng không ai cho.
Điều cần lưu ý ở đây là chữ “dân”. Nó đi chăn heo cho một người “dân” trong vùng. Không phải
chăn heo cho một ông chủ. Người dân này lại đang trong nạn đói “khủng khiếp”. Heo của nhà giàu, chắc
ăn thức ăn khác của nhà nghèo. Đã nghèo mà lại trong nạn đói khủng khiếp. Như vậy còn gì mà ăn? Ấy
thế mà nó vẫn chưa chịu về, vẫn xin đồ ăn của “heo-nhà-nghèo-trong-nạn-đói”. Giả sử người ta cho nó
thứ đồ ăn đó, nó đâu có về. Bằng chứng là nó chỉ về khi người ta không cho nó. Nếu không về lấy gì ăn?
Sau cái ôm hôn, sự gặp gỡ cha có làm nó mủi lòng thật tâm trở về hay không? Phúc Âm không
nói rõ. Dù nó thật tâm hay không thì người cha vẫn có bữa tiệc. Chúng ta không nắm chắc được tấm
lòng người con thứ sau vòng tay của cha. Có thể nó sám hối ngày tháng cũ khi cảm thấy cha thương
mình. Cũng có thể chưa. Cũng có thể lên mặt với người anh khi thấy anh nó hành xử như vậy. Luca viết
đoạn văn này tuyệt với với những nét “thiền niệm” quá sâu. Luca để băn khoăn đặt ra là, nếu biết người
anh nổi giận vì cuộc trở về của mình, phản ứng nó sẽ ra sao? Và điều gì xảy ra trong bữa tiệc?
Nguyên nhân của những nguyên nhân
Dựa vào bản tường thuật, sau khi chia gia tài, đứa con thứ “ít ngày sau, thu góp tất cả, rồi trẩy đi
phương xa” (Lc. 15:13). Nó ở lại ít ngày, và thu góp “tất cả” rồi mới trẩy đi phương xa. Như thế, khi ra đi
nó không thể bỏ cái áo “đẹp nhất” ở lại. Ngày nó về, người cha bảo các đầy tớ mau mau đem áo “đẹp
nhất” ra đây mặc cho cậu.
- Áo đó ở đâu?
Khi được sai đi lấy áo, người đầy tớ không hỏi áo nào. Người đầy tớ biết rõ “cái áo”. Có một liên
hệ hiểu ngầm nào đó giữa người cha, chiếc áo và người đầy tớ. Họ biết rõ về câu chuyện cái áo.
- Bắt con bê đã “vỗ” béo để làm thịt.
Không phải con bê béo, nhưng là con bê đã “vỗ” béo. Như thế ta thấy rõ cái áo từ đâu ra. Cái áo
phải là chiếc ông may sẵn. Vì con bê đã được “vỗ” béo. Bắt con bê mà từ trước tới nay vẫn săn sóc đặc
biệt cho nó béo. Săn sóc đặc biệt con bê cho béo để làm gì? Bản tường thuật cho thấy rõ. Ông thịt con
bê đó trong ngày người con thứ trở về. Như vậy, trước khi nó về, người cha may áo mới chờ đợi, săn
sóc con bê cho bữa tiệc. Tất cả những chuyện này, đầy tớ là người lo chuẩn bị. Cho nên khi công việc
xảy ra, mọi chuyện đâu vào đó. Khổ một điều, tất cả chuyện này, người con cả cũng biết.
Người con cả thấy đầy tớ săn sóc con bê cho béo. Anh ta thấy may sẵn áo mới chờ ngày. Từ
ngày đó, lòng anh không yên tâm. Những ngày sống của anh là giận kín trong lòng. Hồn anh là tháng
năm rất âm u. Nhìn con bê, nghĩ đến bữa tiệc có ngày xảy ra. Anh sợ ngày đó. Anh lo một ngày nào đó
đữa em sẽ về. Không ngờ, hôm nay nó về thật.
Dang dở ngàn trước cho đến ngàn sau
Người anh cả. Câu chuyện dang dở từ đây.
“Gọi người đầy tớ ra mà hỏi”.
Bình thường khi thấy gia đình như thế, người ta phải vội vã chạy về xem có chuyện gì mà vui
vậy. Nhưng anh dè dặt, vì… nếu là tiệc cho đứa em thì sao? Nếu chạy vào mà đúng là đứa em về thì…
trời ơi! Anh ta gọi người giúp việc ra hỏi, sự thận trọng đó là đúng.
Đời anh là những tháng ngày dang dở. Từ khi người con thứ bỏ nhà đi thì người cha cũng mất
luôn người con trưởng, vì tấm lòng nó chật chội quá. Nó ở trong nhà, mà tấm lòng chỉ là một quán trọ
tính toán giữa chợ. Căn nhà không có trái tim bao dung, buồn làm sao. Anh sống những ngày ảm đạm
của một tấm lòng khoắc khoải. Nếu ngày nào đó có tiếng đàn ca thì sao, buồn quá. Anh lo cho ngày đó,
anh sợ tiếng đàn vui.
Cuộc đời như vậy lặng lẽ quá nhỉ.
- Chưa bao giờ cha cho con lấy được một con dê con.
Thì ra thế! Thời gian những người đầy tớ “vỗ” con bê cho béo, cũng là những tháng ngày nó bị
dằn vặt đau đớn. Nó thầm mong một con dê con. Ấy vậy mà bây giờ cha dám giết cả một con bê béo vì
thằng em. Lòng ghen tức làm nó khổ.
Trong lúc “nổi giận” không chịu vào nhà, nó nói gì? Bản tường thuật cho thấy nỗi đau ray rứt linh
hồn anh ta sâu lắm.
- Thằng con của cha đó, sau khi nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay trở về, thì cha lại giết
bê béo ăn mừng! (Lc. 15:30).
Anh ta lại nhắc đến con bê. Con bê béo này là hình ảnh xót xa liên hệ đến con dê, vì một con dê
con anh cũng không có. Rồi vì con bê ấy thúc đẩy anh dùng cụm từ này: “Thằng con của cha đó”. Anh ta
nói với cha mình như vậy. Thế thì, anh ta là con ai? Đứa nào ngoại hôn? Cụm từ “thằng con của cha đó”
là nỗi đau vô vàn đối với một người cha có con như vậy. Làm sao một người con có thể nói với cha mình
như thế.
Đời người con cả trong câu chuyện này quá dang dở. Anh ta sống, nhưng không còn là anh ta
sống nữa. Bên cạnh cha là bổn phận ngày tháng dài lê thê. Anh chưa hề trái lệnh. Chính vì chưa trái lệnh
nên mới càng đau. Chưa trái lệnh mà không được một con dê con, nên cái lê thê mới dài, dài của những
ngày tìm mà không gặp cái mình tìm. Lòng ghen tức, nỗi cay nghiệt, xót xa trăn trở sống trong anh ta.
Thấy cha may áo chờ, biết đâu có ngày người con thứ về. Từ ngày nó bỏ đi, thì lòng người con cả rối
bời, chỉ sợ ngày em nó về. Nhìn gia nhân săn sóc con bê cho béo, anh đau đớn. Nhìn con bê, nghĩ đến
cái áo, anh không một ngày vui. Cuộc sống anh ta khổ quá.
Tại sao người cha không cho?
Ông còn gì đâu mà cho ! “Tất cả những gì của cha đều là của con!” Như thế, có nghĩa là nó có
thể giết bất cứ con dê nào nó muốn, vì tất cả là của nó! Trời ơi! Vậy mà nó không biết. Tại sao nó không
hiểu điều này! Đời anh ta sao dang dở quá vậy? Anh ta sống bên gia nghiệp lớn như thế mà cứ nghèo,
ao ước một con dê con cũng không được. Giữa những cơn nghèo ấy, giữa những tháng ngày khao khát
ấy, thì cừu cứ từng bầy, chiên cứ từng đàn ngày ngày đi về trước đời anh. Tại sao sống bên vàng bạc lại
túng thiếu, bên cánh đồng mà không đủ thóc. Tại sao suối đầy nước mà ruộng mình cứ nắng hạn. Đời
anh dang dở quá. “Tất cả của cha là của con”. Câu này mang ý nghĩa là nó muốn giết con dê nào thì
giết.”Nếu anh em để cho Thần Khí hướng dẫn thì anh em không còn lệ thuộc lề luật nữa” (Gal. 5:18).
“Nếu gia nghiệp dành cho những kẻ lệ thuộc lề luật thì đức tin thành vô nghĩa và Lời Thiên Chúa bị huỷ
bỏ” (Rom. 4:11).
Mà đời người cũng bi thương khôn cùng. Con sống bên mình mà không biết tâm tư của mình.
Cha con cứ xa nhau.
Người con thứ chỉ xúc phạm cha một câu: “Xin chia phần tài sản con được hưởng”. Người con
trưởng xúc phạm đến cha nhiều quá.
Không thấy người con thứ xúc phạm đến anh nó. Nhưng người con trưởng xúc phạm cả em nó.
Tại sao nó đương nhiên kết luận em nó nuốt hết của cải với “bọn điếm”.
Người con thứ ra đi, cha nó thương vì có nhớ. Hoặc vì nhớ nên thương.
Người con trưởng ở nhà, nên không thể nhớ. Không nhớ, nhưng cha có thương không? Điều
này chắc chắn có. Vì: “Tất cả những gì của cha đều là của con”.
Cái bất hạnh của người con trưởng là không nhận ra tình thương của cha. Trong tình yêu, khi
không nhận ra thì cũng không nhận được.
Nếu người con trưởng không nhận ra, không nhận được tình thương của mình, thì tình thương
của người cha lại trở về với ông ta mà thôi. Cho mà không có người nhận, đó là cô đơn.
Cuộc đời người cha trong câu chuyện này cũng quá dở dang. Một nỗi cô đơn của kẻ cho mà
không có người nhận. Của kẻ gầm mà quá xa.
Cha anh ta ra năn nỉ:
- Chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại
tìm thấy (Lc. 15:32).
Lời người cha nói: “Em con đây”, vừa êm ái vừa tha thiết. Nhưng với người con trưởng có là “em
con đây” hay vẫn là “thằng con của cha đó”.
Câu chuyện thật là dang dở ở đoạn kết. Sau khi người cha nói với anh ta như vậy, Luca chấm
dứt câu chuyện. Đọc xong rồi, người đọc băn khoăn:
- Vậy sau cùng, người con trưởng có vào nhà không?
Luca không cho người đọc biết quyết định của anh ta.
Tôi giả sử: Nếu anh vào thì mọi chuyện quá đẹp.
Nếu anh ta không vào. Bao nhiêu vấn nạn được đặt ra. Liệu bữa tiệc có tiếp tục? Tiếp tục thế
nào? Chiều đến, từ xa vẫn nghe “tiếng đàn ca nhảy múa”. Các người dự tiệc sẽ hỏi gia chủ:
- Thưa ông, thế cậu hai đâu?
Người cha biết trả lời khách làm sao. Nếu chiều về, người con thứ vẫn không thấy mặt anh mình
trong bữa tiệc. Người cha sẽ nói gì với nó khi ông biết rõ anh nó đang “nổi giận”, và không chịu vào nhà.
Câu chuyện thật dang dở. Liệu bữa tiệc có dở dang không?
Tại sao Luca, khi viết chuyện này không cho đoạn kết? Tại sao lại bỏ lửng câu chuyện ngang
chừng? Đọc xong, người đọc không biết người con cả có vào nhà hay tiếp tục ở ngoài.
Đọc xong, ta thấy một trời bơ vơ.
Tâm trạng người cha thế nào? Nó không vào, ông trả lời khách sao đây? Ông tìm cách nào để
cắt nghĩa cho người con thứ về sự kiện anh nó nổi giận không chịu vào nhà? Tâm trạng người con thứ
nữa, nó có điên tiết, anh em đánh nhau ngay bữa tiệc? Lối xóm phản ứng ra sao? Câu chuyện trong bữa
tiệc chuyển đề về đâu? Tất cả rối bời.
Gỉa sử Luca cho người con trưởng hối hận rồi nghe cha vào nhà, câu chuyện có toàn bích hơn
không? Vì sao Luca không viết rõ?
Đọc xong, băn khoăn không biết hỏi ai.
Một trời bơ vơ.
Phải chăng vì tác giả biết có ngày người ta sẽ băn khoăn đặt câu hỏi. Phải chăng Luca muốn cho
cái dang dở ấy hết dở dang khi người ta tự thắc mắc với chính lòng mình:
- Nếu tôi là người anh cả tôi sẽ vào hay không? Nếu tôi là người con thứ, tôi phản ứng thế nào?
Đây cũng là đường đi một mình, vì chỉ tôi biết rõ lòng tôi. Chỉ tiêng tôi có câu trả lời cho tôi.
Luca phải để cho câu chuyện dở dang, vì dở dang này chỉ chấm dứt trong tim người đọc chứ
không thể hết dở dang bằng ngòi bút.
Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj.
ĐOẢN KHÚC 80: LỜI CHIẾC GIÂY THỪNG
Tôi là chiếc dây thừng.
Tôi thắt cổ Giuđa. Tôi nghe rõ tiếng khò khè nơi cuống họng nhân vật này.
Nhớ lại đi, ngày Đức Kitô vào đền thờ Jêrusalem, tôi cũng là chiếc giây thừng.
Ngài lấy giây làm roi xua đuổi tất cả bọn họ. Tôi nghe rõ những gì xảy ra ở đền thờ
ngày hôm đó. Chuyện không đơn giản như nhiều người nghĩ.
Mọi người cứ nghĩ như thế là xong, cứ nghĩ Đức Kitô ra khỏi đền thờ là xong. Ai là
người buôn bán trong đền thờ? Còn ai nữa, nếu không được phép của các thầy tư tế. Ai lọt
được vào đền thờ, nếu không có thế lực bảo chứng? Còn chỗ nào kiếm tiền tốt nhất trong
những ngày đại lễ, nếu không là đền thờ?
Tiền bạc là thế lực âm thầm mà cuồn cuộn như dòng sông. Tôi là chiếc giây thừng
trong ngày đó. Tôi nghe rõ những gì xảy ra:
- Nhóm tư tế ít thế lực ghen tức với nhóm thày cả có đông tín đồ.
- Nhóm tư tế quyên tiền gây quỹ được ít, nói xấu nhóm đổi tiền.
- Các tiền tiêu ngoài chợ phải đổi thành tiền riêng mới được bỏ vào hòm thánh. Vì thế,
nhóm đổi tiền cho công việc của mình mới chính đáng.
- Nhóm bán chiên cừu tố cáo nhóm đổi tiền giả hình.
- Nhóm tư tế phục vụ bàn thánh bất mãn vì đền thánh chỉ là đền thánh, gây chiến với
nhóm chủ trương phải kinh tài.
- Nhóm tín đồ từ vùng Galilê chủ trương vai trò ngôn sứ là công bố Lời Thánh, tư tế
phải trở về bục giảng. Tín đồ chống đối tư tế.
Nhóm nào cũng cho mình mới là đáng tin, họ cạnh tranh nhau. Giữa lúc xôi đậu như
thế, Đức Kitô xuất hiện.
Ngài chẳng thuộc nhóm nào.
Vì không thuộc nhóm nào nên càng dễ chết.
Tôi là chiếc giây thừng.
Tôi nghe nhiều bí mật của cuộc đời. Tôi xin kể về những lễ vật. Tôi theo những người
nghèo không có tiền. Họ không thể lên đền thờ mới mua của lễ. Ở đó mắc hơn. Họ dắt con bê
từ mấy mùa cắt cỏ chăn nuôi. Họ vất vả kiếm nước cho nó uống dọc đường. Nắng sa mạc
hiếm cỏ. Những của lễ như thế, quý lắm. Tôi là chiếc giây thừng, tôi biết rõ lắm về lòng chân
thành. Họ nuôi chúng cả năm trời.
Tôi cũng là chiếc giây thừng người ta vừa mua tôi về cột vào con bê bệnh. Rất nhiều
con vật bệnh hoạn, họ mua về tắm rửa, đem vào đền thờ bán vội cho những người lười không
muốn vất vả dắt chiên theo đường dài. Nhiều kẻ hành hương mua lầm của lễ. Họ dâng hiến
Giavê những chiên cừu bệnh hoạn. Trong đền thờ ngày đó, đủ thứ của lễ, trong sạch có, què
quặt có, lười biếng có, thánh thiện có.
Tôi là chiếc giây thừng, tôi biết rõ về của lễ. Những ai múc nước, đem cỏ, dắt của lễ
theo thì biết rõ của lễ của mình trong sạch. Còn những người đến đền thờ mới mua, ôi, nhiều
của lễ quá bệnh hoạn. Họ mua lầm. Làm thân giây thừng, tôi khám phá nhiều chân lý về cuộc
đời và của lễ. Tôi thấy rất nhiều của lễ được bao bọc bằng lòng lười biếng. Những của lễ trong
sạch bao giờ cũng phải trả một giá về sự thanh tẩy, lòng cố gắng và nhiệt thành.
Không phải Đức Kitô vào đền thờ đơn giản đâu. Ngài cũng thấy quyết định này có thể
đưa Ngài đến cái chết. Qủa thật, sau này, cái chết của Ngài đã chứng minh điều đó. Cái chiều
nắng quái kinh hồn đó, lũ người này có mặt trên đường Núi Sọ. Làm sao mà họ không reo
mừng, nhớ lại cái ngày bị đuổi khỏi đền thờ, mất chỗ làm ăn.
- Thưa Thầy, chuyện Thầy tính làm nguy hiểm quá.
Phêrô, người môn đệ thân cận lại can ngăn Thầy mình như mọi khi.
- Thưa Thầy, con đã thăm dò tình hình. Có cả một uỷ ban gây quỹ. Bao nhiêu năm nay,
truyền thống này như lời kinh rồi.
Những ngọn ô liu không gió, đứng im lặng, không thản nhiên vô tư, nhưng chúng cũng
không biết phải phản ứng thế nào. Thỉnh thoảng dăm ba chiếc lá già lìa đời. Một chút xào xạc
bước chân con chồn nhỏ chạy qua. Đức Kitô nhìn người môn đệ thân cận. Không trả lời. Trong
tâm tư Đức Kitô cũng biết, đó là sự thật. Người môn đệ này thương mình. Đã qua mấy đêm rồi,
Thầy trò nói với nhau về đền thờ.
Đức Kitô hỏi người môn đệ:
- Bây giờ phải làm sao?
Người môn đệ ấy trả lời:
- Thưa Thầy, cứ kệ họ.
Đức Kitô nói tiếp:
- Nhưng đây là đền thờ.
Người môn đệ đáp trả:
- Mình cứ lên đền thờ tế lễ theo luật là đủ rồi.
Đức Kitô không nói gì thêm, nhìn bầu trời đêm không ánh sao. Những tàng ôliu không
gió phẳng lì như những tấm chiếu dán trên khung trời. Phêrô tựa lưng, ngả đầu bào thân già
của cây ôliu đã gẫy, cũng thinh lặng. Tâm trạng Phêrô, một mảnh đời mệt mỏi, muốn tránh né
những đụng chạm liên hệ xã hội.
Tôi là chiếc giây thừng trong ngày kinh hoàng đó. Lúc Đức Kitô cầm tôi quật xuống
chiếc bàn của thầy tư tế đang đổi tiền, không ai ngờ, họ hét lên. Toàn thể kinh hoàng. Họ
không thể ngờ, có người điên mới dám hành động như vậy. Nhưng điên làm sao được, họ biết
rõ người này là ai.
Họ không tin sự việc có thể xảy ra. Nơi này, người ta đã được phép buôn bán từ xa xưa
rồi. Có cả một thế lực truyền thống. Ai là người dám thay đổi cục diện. Nhưng Đức Kitô nói:
“Đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán.” Khi Người lật nhào bàn ghế, đổ tung hòm
tiền thì người ta biết đây không phải chuyện nói cho qua.
Các kẻ thuê đất, các hội trưởng nhốn nháo chạy báo tin cho các thấy thượng phẩm.
Không phải họ xách bàn chạy dễ dàng đây. Tôi là chiếc giây thừng. Tôi bị bọn họ chặt tôi đứt
nhiều khúc. Thân tôi bị xé cũng đau đớn tan tác.
- Giết nó đi. Đóng đinh nó đi.
Tiếng kèn báo động như tù và rú trên tháp canh. Đám đông xúm lại hét to:
- Ai cho ông có quyền làm như thế?
Họ không dám đến gần Đức Kitô. Tôi là chiếc giây thừng trong tay Ngài. Họ nhìn tôi
chằm chằm.
Làm thân giây thừng, tôi ở trong tay Chúa, cũng như thắt cổ Giuđa. Tôi dắt những con
chiên trong sạch từ vườn nhà, vượt qua đồi, qua suối lên đền thờ. Tôi cũng bị người ta mua
vội thắt cổ vào cổ con bê bệnh hoạn bán cho nhau làm của lễ. Họ lấy của lễ lừa dối nhau, họ
lầm lẫn về của dâng cúng. Tôi nghe những tay lưu manh đứng rình mò trong đền thờ. Tôi nghe
bày thú tranh nhau ăn, cắn nhau đổ máu dính lên người tôi. Chúng là tiếng sủa thương đau
của nhiều loài thú khác nhau. Những vết máu dính lên người tôi cũng chẳng khác gì những vết
thương mà con người mang hồn do chính họ tạo nên bởi đam mê tội luỵ.
Nơi nào có súc vật mà không có mùi hôi? Vậy mà tôi thấy những con buôn ngồi thản
nhiên hít thở hàng ngày. Tôi thấy không biết bao nhiêu ý nghĩ về con đường lên đền thờ.
Khi thầy tư tế bán của lễ thì thiên thần đứng khóc.
Khi tín đồ mua lầm của lễ thì quỷ dữ đứng cười.
Khi linh hồn không được thanh tẩy thì của lễ là lười biếng.
Khi của lễ thành buôn bán thì tình nghĩa anh em, bạn hữu chỉ là tính toán.
Khi tâm hồn không siêu thoát thì của lễ thành cạnh tranh.
Khi của lễ là đơn vị kinh tế thì lòng thật thà thành rình mò.
Khi lười biếng che đậy thì của lễ thành trình diễn.
Làm thân giây thừng tôi mới hiểu hơn về con đường tu đức thiêng liêng. Tôi chỉ kể
chuyện đời tôi hai nghìn năm trước. Từ hai nghìn năm trước, kể chuyện đời mình cho hai
nghìn năm sau. Thời gian nào cũng có những của lễ, có những chiếc giây thừng.
Chuyện đời tôi hai nghìn năm trước đã qua. Tháng ngày còn lại, tâm sự tôi đang dang
dở. Hôm nay, tôi cũng vẫn là chiếc giây thừng. Nhưng Đức Kitô không có mặt ở đây, nên tôi
không rõ có gì đang xảy ra ở đền thờ không.
Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj.
ĐOẢN KHÚC 81: LỐI ĐI CỦA ƠN SỦNG
Không có ơn sủng ta không biết lối nào đi. Giuđa đã đi, nhưng đi thắt cổ tự tử chết.
“Ai đi trong tăm tối không biết mình đi đâu.” (Jn. 12:35)
Đi trong ơn sủng thì ơn sủng thành một đường đi.
Người ta thường lẫn lộn lấy ơn sủng làm lối đi, và – đi, rồi bắt ơn sủng làm lối cho mình.
Trong Tuần Thánh, ta suy niệm Đường Thánh Gía. Lên Núi Sọ là một lối đi. “Lạy Cha, nếu được,
xin cất chén đắng này khỏi con” (Mt. 26:39). Đức Kitô cầu xin như thế, nhưng chén đắng đã không được
cất nhắc. Ngài không đi con đường khác rồi tìm ơn sủng làm lối cho mình. Ngài làm theo ý Chúa Cha để
đi trong ơn sủng. Đức Kitô lấy ơn sủng làm lối lên Đường Thánh Gía. Và chính ơn sủng này làm thành lối
riêng Ngài đi.
Như thế, ơn sủng không cất nhắc khó khăn, nhưng biến đổi bước chân ta, để ta đi được trong
khó khăn đó. Trong một vài trường hợp, ơn sủng có cất nhắc những khó khăn, ta gọi đó là phép lạ. Ơn
sủng không làm phép lạ cho đêm nay hết mưa. Gío cứ lạnh. Ơn sủng không làm cho lá rừng thôi ướt. Lối
đi của ơn sủng là đưa những đêm mưa ấy thành thi ca trong lòng người. Tâm hồn thi ca, nhờ đêm mưa
mà có những nốt nhạc tuyệt vời về mưa rừng. Nhờ đêm mưa mà tâm tư mới có giây phút hỏi lòng:
“Chiều mưa biên giới anh đi về đâu”. Khi hiểu lối đi của ơn sủng như thế, ta không trách tại sao đêm nay
trời cứ rỉ rả. Ta không buồn tại sao đêm nay trời cứ lạnh. Lối đi của ơn sủng là biến đổi hồn ta. Để khi
mưa, ta viết những bài thơ có se sắt cõi lòng. Để khi nắng, ta viết những bài thơ về ánh bình minh. Khi đi
theo ơn sủng, mùa đông lạnh, ta đốt lò sưởi đọc lại những tờ thư cũ, xem lại tấm hình năm xưa. Lúc
nắng hạ về, ta nhìn con diều bay, ta ra dòng sông thả ước mơ xuống. Ta nhận ơn sủng để đi trong đời
chứ không đi trong đời rồi bắt ơn sủng đi theo. Khi hiểu thế, lối đi nào trong cuộc sống, dường như cũng
có nhiều hương hoa.
Thế nhưng, có những nghịch cảnh khổ đau thì sao?
Bà nói với tôi:
- Cha không ở trong hoàn cảnh con, Cha không thể hiểu được nỗi đau.
Nói về đau khổ, tôi luôn kính trọng những nỗi đau. Cho dù có những nỗi đau dư thừa. Cho dù dư
thừa đó, nhưng khi người ta chưa biết nó dư thừa, người ta không hiểu rõ, thì nó vẫn là nỗi đau. Huống
chi là những nỗi đau có thật.
Ai là cha mẹ không muốn con mình hạnh phúc, hạnh phúc của con cũng là hạnh phúc của mình.
Giữa những ước mơ rất hiền hoà ấy, đây là câu chuyện riêng bà. Con bà chưa học xong trung học đã
mang thai. Bà tâm sự với tôi:
- Cha không thể hiểu được nỗi đau của con. Bây giờ con trốn đi đâu được, cả giáo xứ xầm xì về
gia đình con. Có con hư, bố mẹ nào không đau đớn. Bây giờ làm sao con dám đến nhà thờ. Chỉ có nước
chết đi thôi.
Những nỗi đau ấy, nó rất thật. Chân ai gặp nó, sẽ rất khốn cùng. Trong gian nan như thế, đâu là
lối đi của ơn thánh? Ơn thánh không cất nhắc khó khăn. Ơn thánh không làm cho sự sống trong bào thai
ấy biến đi. Trước những khổ tâm như thế, Đức Kitô cũng khổ đau. Ngài khóc.
Rồi bà kể cho tôi.
Một đêm nọ. Tuyết thinh lặng rơi. Đèn đường sáng lù mù không bóng người. Trời về khuya lắm
mà bà trằn trọc. Giữa lúc nửa tỉnh, nửa mơ, có tiếng gõ cửa. Ai gõ cửa giờ này? Hé nhìn qua tấm phiên
che. Bà thấy một cháu gái bụng mang thai, trời lạnh đứng nép ngoài cửa tránh gió tuyết. Tội nghiệp, cháu
đi đâu giờ này? Lỡ đường hay sao?
- Bác ơi…
Chưa nói nửa lời, cháu đã khóc. Linh tính hiểu rằng với mớ quần áo kia, cháu có thể phải đi vì
chửa hoang. Bà thấy ứa nước mắt. Cuộc đời sao quá nhiều gian truân. Một thân bơ vơ. Vừa bước vào,
cánh cửa chưa khép kín, bóng người con gái biến nhẹ như một làn sương. Và bàng hoàng, không biết
chuyện gì đang xảy ra. Người hay ma? Bóng người biến đâu? Hình ảnh chuyển biến đứt quãng, chắp nối
như cố dán lại cho thành câu chuyện. Chắp vá những mảnh vỡ của một tấm gương. Đường phản chiếu
dị kỳ hoang mang. Chỗ nào cũng là bóng người nhìn mình.
Đó chỉ là giấc mơ.
Tỉnh trí lại, nỗi đau lại về, dầy vò bà trong đêm tối. Thực tại, con bà đang mang thai. Đã bao đêm
bà không ngủ, dầy vò bằng những cơn ác mộng. Đêm nay cũng vậy, tiếng thở dài và nặng nề trong đêm.
Thực tế không trốn chạy được . Làm sao giải quyết bào thai kia. Có lúc bà ước ao bào thai ấy
chết đi. Đi xa mà sinh đẻ cho khuất mắt. Những lúc nỗi đau dằn vặt, bà nguyền rủa con. Bà muốn tống
khứ nó. Nó là oan kiên cho danh dự gia đình.
Giữa đêm, bà bước sang phòng người con gái. Con bà đang ngủ, cũng độ tuổi người con gái bà
thấy trong giấc mộng:
- Tại sao trong giấc mộng mẹ thương đứa con gái đó, bơ vơ đường đời một mình, mẹ muốn đem
vào nhà, mà đây là con của mẹ, mẹ lại muốn đuổi đi?
Từ trong tâm gọi cho trí, rồi trí gọi cho tâm. Bà thấy mơ hồ một ánh sáng khá lạ chợt đến. Trí
đang cắt nghĩa cho tâm hiểu nỗi đau. Và nỗi đau của tâm đang gọi trí nâng đỡ cho nhẹ bớt gánh nặng.
Bà đứng im lặng giữa căn phòng hoang vu. Thứ hoang vu trong tâm hồn. Chiếc đồng hồ tí tách trên
trường rõ mồn một. Nhờ đó, che bớt tiếng thở của người con gái, dường như cũng nặng nề trong giấc
ngủ kia. Bà đứng bên cạnh giường, con không hay biết gì. Nước mắt bà chảy. Đau nhói trong tim. Bà
nghe trong linh hồn vang lên lời than thở:
- Tại sao trong giấc mộng mẹ thương đứa con gái đó, bơ vơ đường đời một mình, mẹ muốn đem
vào nhà, mà đây là con của mẹ, mẹ lại muốn đuổi đi?
Tiếng ấy đến từ tâm trí nào mà bà thấy như nát ruột gan. Nước mắt tiếp tục chảy. Nếu bỏ nhà đi,
con đi đâu? Ai săn sóc con? Đôi chân bà như quỵ xuống, quỳ cạnh giường nhìn con ngủ. Bà không nói
mà như linh hồn bà đang nói thay bà:
- Con ơi, thôi con cứ ở lại nhà, mẹ sẽ săn sóc con. Đường đời bơ vơ lắm con ạ.
Bà không nói thành lời, đó chỉ là tiếng lòng, mà nghe như có một nguồn sinh lực nào đó rất lạ
đến với bà. Nỗi đau còn đó, khó khăn còn đó, nhưng bà cảm thấy một mơ hồ xót xa đang đến. Một thứ
ánh sáng nhẹ, kín đáo và rất có thể sẽ cứu bà. Đó là lòng xót thương. Bà gọi chồng dậy, kể giấc mơ kia,
rồi hai người sang phòng con, nhìn con ngủ:
- Lạy Chúa, Chúa hiểu nỗi đau khổ của chúng con không. Nhưng đây là con của chúng con. Con
sẽ săn sóc cháu…
Bà gạt nước mắt nói như tâm sự với Chúa:
- …săn sóc với trái tim người mẹ. Vì lỡ dại của cháu chứ Chúa không gởi chúng con những gian
nan này.
Bà kể với tôi rằng, Chúa như khóc với bà. Từ đêm đó, bà thấy một ánh sáng mới, lòng thương
xót của Chúa xoá bớt đi nhục nhã vì dư luận, nỗi chịu đựng của Chúa như một năng lực đến với bà.
Câu chuyện chưa dừng lại ở đây.
Sau khi xảy ra chuyện cháu mang thai. Bà rút khỏi sinh hoạt trong nhóm gia đình. Bà mắc cỡ vì
con, bà so sánh gia đình mình với gia đình người ta. Thế nhưng ơn sủng có lối đi riêng. Và lạ lùng thật,
khi đi trong ơn sủng thì ơn sủng làm thành đường đi cho mình. Thay vì rỉ tai xầm xì, mấy anh chị em
trong nhóm này vây lấy bà, thương bà. Vây lấy cháu, thương cháu. Cái tình thương ấy nâng đỡ bà, nâng
đỡ cháu. Những chuyện bất ngờ đã đến. Nhóm người này nói với tôi:
- Bây giờ cháu là viên ngọc quý của chúng con. Cháu đem kinh nghiệm ấy nói cho những đứa
khác trong nhóm gia đình chúng con. Nó thấy bây giờ mới khó khăn, không phải tình yêu mà chỉ là dại
dột.
- Thưa cha, chúng con nói thì chúng nó không nghe. Nhưng bây giờ cháu nói thì tất cả đứa khác
lắng nghe.
Họ đã kể với tôi.
Lối đi của ơn sủng là transform, là biến đổi, là tìm những ngõ ngách để chữa lành. Khi cây hồng bị
gẫy thì lối đi của ơn sủng là làm cho nó mọc ra nhiều nhánh khác để nó trổ sinh nhiều hoa hơn. Ơn sủng
không cất nhắc khó khăn. Khi Phaolô cầu xin để Chúa cất nhắc những yếu đuối, Chúa không cất, Chúa
bảo ơn thánh của ta đủ cho ngươi (2 Cor. 12:9). Từ ngày biến cố xảy ra, nhóm gia đình này họ thương
và nâng đỡ nhau. Ơn sủng làm họ gần nhau hơn. Trong lầm lỡ vụng đại của con người. Ơn sủng Chúa
đến chữa lành thương đau, transform, biến đổi để qua thương đau họ có nhau, cần nhau và gần nhau.
Đi trong ơn sủng thì ơn sủng thành một hướng đi.
Người ta thường lẫn lộn lấy ơn sủng làm lối đi, và – đi, rồi bắt ơn sủng làm lối cho mình.
Đi trong ơn sủng là tìm vào ơn sủng mà đi. Là đến để ơn sủng Chúa chữa lành. Còn bắt ơn sủng
đi theo mình là từ chối mọi khó khăn. Ơn sủng phải cất nhắc họ khỏi mọi gian nan. Điều này là nghịch lý
của cuộc sống. Làm sao ta đòi ơn sủng cất nhắc ta khỏi mọi khó khăn như bệnh tật, như sự chết?
Không có ơn sủng, người ta sẽ đau đớn dằn vặt chính mình. Nỗi đau này thường đến có khi
không hẳn do chính mình, mà do người chung quanh. Bà mẹ đau vì con thì ít mà vì những bà mẹ khác
xầm xì thì nhiều. Khi không đi trong ơn sủng, họ không lấy nỗi đau người khác làm của mình nên đem
chuyện gia đình người khác phơi nắng. Bởi đó, họ xa nhau, có khi thù hận nhau.
Lối đi của ơn sủng là chữa lành. Khi một cộng đoàn Kitô hữu mà không chữa được những vết
thương cho nhau, nhất là vì cộng đoàn mà nỗi đau của cá nhân nọ, của gia đình kia càng đau đớn thì ta
biết rõ họ không đi trong ơn sủng. Đấy không phải là cộng đoàn Kitô hữu. Thánh Phaolô nói về dấu chỉ
của những gì thuộc về ơn sủng như sau. Hoa quả của Thần Khí phải là: Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn
nhục, nhân hậu, từ tâm, hiền hoà (Gal. 5:22).
Ai đi trong tâm tối không biết mình đi đâu. (Jn. 12:35).
Đi trong ơn sủng thì ơn sủng thành một đường đi.
Không có ơn sủng ta không biết lối nào đi. Thì cũng vậy, không đi trong ơn sủng ta sẽ không biết
đi lối nào. Giuđa đã đi, nhưng đi thắt cổ tự tử chết.
Lạy Chúa,
Xin cho con hiểu đi trong ơn sủng là để ơn sủng biến đổi, thì đời con có khi là những đường
vòng, có khi lắm núi đồi hơn. Nhưng đường đi bao giờ cũng đẹp, cũng tới bến, tới bờ. Còn bắt ơn sủng
đi theo đường của mình thì con quằn quại, đường đi chẳng thấy bến, lối đi chẳng thấy bờ. Cứ thấy bơ vơ
và chán chường mà thôi.
Xin cho con đi trong ơn sủng chứ đừng bắt ơn sủng đi trong lối đi của con.
Xin ơn sủng nhắc cho con biết gió đông về con có bài ca của bếp lửa tí tách. Có khoảng đời nhìn
tuyết rơi bên song cửa. Lặng lẽ của cánh khô lá nói về sức cuộc mình chịu đựng chờ mùa xuân của tàng
cây. Xin cho con biết cái ngắn ngủi đời một cánh ve không là bài ca than van mà là tràn ngập cung nhạc
quý báu với thời gian.
Tác giả Nguyễn Tầm Thường, sj.
ĐOẢN KHÚC 82: NGÀY LỄ BẠC
Tôi chết được 25 năm rồi. Hôm nay tôi trở lại tảo mộ lần thứ hai. Tôi gọi là Ngày Lễ Bạc.
Sau khi chết được ba năm. Tôi tảo mộ lần thứ nhất. Lần đó tôi kể trong trong tập sách Cô Đơn và
Sự Tự Do, đoản khúc số 59. Ngày đó mộ tôi không có hoa. Không có ai đến mộ tôi cả. Tôi đứng đó hồi
hộp suốt buổi chiều. Mây xuống thấp, xám một hoàng hôn. Rồi trời tắt nắng phía sau hàng cây. Tôi còn
nhớ rõ hôm ấy trời không gió. Nghĩa trang im lìm. Sau ba năm tôi chết, vẫn còn ít người nhớ và cầu
nguyện cho tôi. Nhưng không ai ra nhìn mộ tôi.
Tôi biết nếu trở lại vào năm sau thì cũng thế. Thản nhiên như một cánh chuồn chuồn đậu hờ
hững trên một bờ giậu thưa nào đó. Không có gì hồi hộp nữa nên tôi không trở lại. Đợi 25 năm sau. Một
kỷ niệm đặc biệt hơn. Ngày Lễ Bạc.
Tôi đang đứng trong nghĩa trang, chỗ tôi đứng lần thứ nhất cách đây 20 năm về trước.
Trên tôi vẫn còn. Tên được khắc vào mộ đá. Nhưng rêu lắm rồi, dơ bẩn nữa. Mộ đá không còn
sạch như ba năm sau khi tôi chết. Bây giờ sần sùi, mốc rêu xanh. Ngày xưa không có cây cổ thụ ở chỗ
này. Họ trồng bao giờ thế? Cả cái nghĩa trang này bây giờ cũng khác. Ngôi mộ cạnh tôi không còn. Họ
bốc đem đi hồi nào mà bây giờ có một cái tên lạ hoắc.
Trên cành cây già, một loại côn trùng nào đó rỉ rả tiếng kêu cuối mùa. Hôm nay cũng không có
gió như lần trước. Những chiếc lá lặng lẽ. Nghĩa trang cũng yên tĩnh như ngày xưa.
Tôi đến gần mộ, nhìn xác tôi dưới đất sâu. Chiếc quan tài gỗ mục từ bao giờ? Đất sập kín lẫn với
xương. Đất dưới đó ẩm ướt. Có bùn sền sệt. Nước quanh năm. Tôi không còn hình hài gì cả. Có những
con trùng trườn qua trườn lại trên khúc xương. Người ta bảo trắng như xương. Thật không phải thế,
xương lấm dơ đen, rỗ những vết bọ ăn, bùn cắn chặt vào những kẽ nứt. Bọ ăn làm các xương không còn
nhẵn nhụi. Chiếc sọ đầu còn nguyên vẹn hơn cả. Hai cuồng mắt rất to. Tôi nhìn xuống, chiếc sọ cũng
giống như trăm nghìn chiếc sọ khác. Tôi không thể phân biệt được. Ngày còn sống, tôi băn khoăn về làn
da. Nhìn kìa! Chỉ tuần lễ sau khi chết. Nó rữa ra. Ngày còn sống, tôi chải chuốt mái tóc. Tôi tìm cách
nhuộm cho người ta thấy mình trẻ. Tôi băn khoăn về cái nhìn. Tôi muốn chinh phục. Bây giờ cái sọ trọc,
rỗng, nhúc nhích loại giun nào trong đó? Tôi đứng nhìn tôi, tôi nhìn sang tất cả những xác chung quanh
và tôi sợ. Tôi thấy xa lạ với chính mình. Hình hài thân xác tôi đấy ư? Tôi đang mừng 25 năm, Lễ Bạc
sao? Còn đâu những lúc băn khoăn mùi nước hoa nào, Chanel 5 hay 8?
Tôi biết chắc là không có ai đến mộ tôi 25 năm sau. Tôi biết là không có hoa ở mộ. Tôi không hồi
hộp gì cả, tôi không chờ đợi gì cả khi trở về đây. Kỷ niệm 25 năm ngày tôi chết là của riêng tôi. Hôm nay
tôi có thì giờ nhìn ngắm tôi và những gì xảy ra nơi đây.
Ở một góc kia, người ta đang khóc. Một đám tang đang chôn. Có linh mục mặc áo lễ. Lại cũng có
ca đoàn hát. Sao mà giống tôi 25 năm về trước thế. Hoa chung quanh mộ, rồi mấy hôm nữa hoa sẽ rữa,
người được thuê làm vệ sinh lại hốt đổ vào thùng rác.
Có những mộ bia không còn hình dạng. Họ ra đi trước tôi lâu rồi. Có người mới chôn vài năm
nay, có người mười năm, có người hai mươi năm, có người cả trăm năm. Ghê nhất là những người mới
chôn. Ngôi mộ này của một người đàn bà. Chết đã tháng nay. Áo quần còn mới, nhưng xác rữa rồi, lúc
nhúc dòi bọ. Chiếc quan tài còn cứng, xác trong đó phồng căng, sình rữa. Tóc bết lại. Áo nhung và thịt
kết dính chặt lại. Những con dòi trắng cắn loang lổ nhiều vùng vải lỗ chỗ. Đấy cũng là hình hài tôi 25 năm
về trước.
Ngày còn sống tất cả những người đang nằm đây xum xuê từng ngọn tóc, mà bây giờ thế ư?
Tôi đi tìm xem ai là người trí thức. Không thấy ai cả. Chết được vài ngày, tất cả sọ người đều
nồng nặc hôi thối.
Tôi đi tìm xem ai là người nổi tiếng. Tất cả chỉ là những mảnh xương dính bùn đen đủi và toàn
dòi bọ ở trong.
Tôi đi tìm xem ai là người giầu có. Không thấy ai cả. Tất cả đều trần trụi không còn manh áo che
thân. Tôi không thấy kim cương, vàng bạc. Tôi tưởng người thân chôn theo, nhưng không, người ta giữ
lại hết. Người ta chỉ chôn xác thôi.
Tôi đi tìm xem ai là người lúc sống họ lên tiếng phải xây dựng Giáo Hội thế này, phải cải tổ Giáo
Hội thế kia. Không thấy ai cả. Lúc đương thời, họ sống chết, ăn thua đủ với nhau chỉ vì “bảo vệ đức tin.”.
Trong cái nghĩa trang này thân xác nào cũng hôi tanh.
Tôi lại nhìn tôi dưới ngôi mộ sâu.
Cái sọ kia ngày xưa đã bao nhiêu suy nghĩ. Những giấc mơ ấy bay về đâu? Còn dưới đó không?
Trái tim ôm ấp bao nhiêu tình cảm. Cái mùi tanh hôi nồng lên khi nó rữa ra.
Tôi lại nhìn tôi dưới ngôi mộ sâu.
Tôi nghe chung quanh tôi, trăm nghìn tiếng động xèo xèo. Nhiều xác mới chôn đang rữa. Tiếng
những con bộ ăn vào xương. Những xác chết đang xảy ra giống tôi 25 năm về trước.
Ở phía kia, đám tang đã xong. Nhiều người đứng xa mộ để có thể ra về sớm hơn. Họ còn nhiều
việc phải làm. Họ rất bận rộn. Họ không muốn ở đây lâu. Chiều xuống tối rất mau. Người ta phải về. Xác
mới chôn nằm đó. Vài ngày nữa sẽ có ai đó tiếc thương đem hoa ra mộ. Rồi ba năm sau không còn ai.
Rồi 25 năm sau nếu trở về đây cũng sẽ giống tôi bây giờ. Lần lượt ra đi theo con đường đó. Giống nhau.
Bỏ nghĩa trang, tôi đi tìm lại con đường tôi đi năm xưa. Phần lớn còn đó những chỗ này mới hơn
thì chỗ kia cũ kỹ đi. Nhiều toà nhà bỏ trống hoang phế. Tôi không còn gặp mấy người quen. Một vài
người tôi tìm mãi mới thấy. Vì họ thay đổi quá nhiều rồi. Họ chậm chạm, đau yếu. Họ lẩn thẩn. Cái thế
giới 25 năm về trước không còn. Đất trời còn đó. Mặt trăng vẫn thế. Cả gió biển và mầu xanh của sóng
nữa. Nhưng con người và thế giới lúc họ trẻ hết rồi. Đời họ bây giờ ai cũng lầm lũi. Tôi đứng nhìn họ mà
không muốn hỏi chuyện vì bắt họ nhớ lại những ngày quá xa. Bây giờ họ chỉ muốn thầm lặng sống qua
ngày thôi. Vài người sót lại trong viện dưỡng lão, lặng lẽ. Người tôi quen ngày xưa, chết hầu hết rồi.
Những tờ thư cũ, tấm hình năm xsưa sau khi tôi chết, có vài người giữ nó ít năm. Đến lúc họ
chết thì kẻ sau dọn phòng không biết tôi là ai. Tất cả vào thùng rác sau khi người đó chết ít ngày. Bây giờ
tôi không còn dấu vết là bao.
Tôi đi tìm những chữ nghĩa ngày xưa tôi học. Vất vả toan tính. Ngày ấy nuôi bao nhiêu mộng mị
ở miếng bằng ra trường. Bám vào tên tuổi muốn xã hội tặng ban. Cần treo tấm bằng ở nơi làm việc.
Chụp chung tấm hình với nhân vật tiếng tăm. Bây giờ chả còn gì.
Đã 25 năm rồi, tất cả đồ dùng của tôi đã biến mất. Chiếc xe ngày xưa tôi đau buồn vì trầy vết
sơn. Ngày ấy không dám cho người khác mượn, tôi lau chùi thật bóng. Bây giờ là bụi rác ở đâu? Tôi
đứng đây nhìn lại cuộc đời. Tất cả qua đi như con gió thoảng mà sao ngày ấy lòng tôi bồn chồn, lo lắng,
tiếc nuối những thứ này thế.
Tôi đi tìm những công trình tôi để lại. Người để công trình này, người để công trình kia. Tôi để lại
những bài diễn văn. Ai còn nhớ? Họ quên ngay khi tôi rời cái mai-cô-phôn cơ mà. Ngay khi ra khỏi phòng
họp, ngay mấy phút sau. Vậy mà hôm nay tôi đi tìm nó như một công trình để lại sao? Giật mình. Tôi thấy
mình quá ngớ ngẩn. Vậy tôi đi tìm gì hôm nay? Còn gì không? Ngay cả những người tôi quen biết cũng
không còn, thì tôi còn gì? Ai mà giữ những kỷ niệm của tôi khi họ không biết tôi là ai?
Tôi không ngờ ngày lễ bạc này buồn tẻ hơn ngày tảo mộ lần thứ nhất. Ngày ấy sau có ba năm tôi
chết. Đứng một mình ngoài nghĩa trang, không có ai ra mộ tôi như hôm người ta chôn tôi. Nhưng ngày ấy
trở về tôi còn nhìn thấy nhiều bóng hình tôi quen. Tôi còn gặp vài tờ như tôi viết cho họ. Có kẻ còn giữ
tấm hình tôi. Lần này hoang vu quá. Trống trải. Ngày 25 năm Lễ Bạc mà vắng thật vắng.
Bây giờ tôi hiểu, Ngày Lễ Bạc là của chính mình. Một mình mình thôi.
Nhiều điều chết rồi mới thấy rõ. Lúc sống sao tôi không nhìn thấy. Chẳng hạn như tôi băn khoăn
làm sao để lại công danh cho đời. Đời chả cần gì tôi. Cần hay không, tiếng kêu của một cánh ve trong
chiều hè trống trải mênh mông? Chẳng hạn như tôi lo lắng ngày mai ra sao, tôi phải tích góp bao nhiêu
cho đủ? Bây giờ thấy quá rõ rồi, ngày mai, tức là bây giờ tôi đang đứng đây. Trong nghĩa trang người ta
không không còn nhan sắc, người ta không cần chỗ ở.
Nếu bây giờ sống lại kiếp người, tôi sẽ rong chơi, tôi sẽ ca hát với suối xanh, tôi sẽ với mây trời
cho trái tim tôi bao dung. Nhưng trễ quá rồi.
Tất cả những gì nhìn thấy đều không mang theo được khi tôi chết. Son phấn. Sự nghiệp. Cũng
không phải tất cả những gì thuộc tinh thần là mang theo được đâu. Những điều thuộc tinh thần như tình
yêu, lòng thù ghét, niềm kiêu hãnh, sự ghen tị, giận dữ, bao dung cũng tuỳ đó. Chỉ những gì tinh thần mà
thuộc về Đức Kitô mới tồn tại.