Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Thực trạng khủng hoảng kinh tế mỹ năm 2009

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (241.46 KB, 28 trang )

I. Lý thuyết khủng hoảng kinh tế
Khủng hoảng kinh tế, là sự suy giảm các hoạt động kinh tế kéo dài và trầm
trọng hơn cả suy thoái trong chu kỳ kinh tế.
Một định nghĩa khác với cách hiểu ngày nay là trong học thuyết Kinh tế
chính trị của Mác-Lênin. Từ ngữ này chỉ khoảng thời gian biến chuyển rất nhanh
sang giai đoạn suy thoái kinh tế. Khủng hoảng kinh tế đề cập đến quá trình tái
sản xuất đang bị suy sụp tạm thời. Thời gian khủng hoảng làm những xung đột
giữa các giai tầng trong xã hội thêm căng thẳng, đồng thời nó tái khởi động một
quá trình tích tụ tư bản mới.
Một đặc điểm chủ yếu của những lý luận này là khủng hoảng không phải
ngẫu nhiên và không tự nhiên mà nó bắt nguồn từ bản chất của chủ nghĩa tư
bản với vai trò là một hình thái xã hội. Marx viết, “cản trở của nền sản xuất tư
bản chính là tư bản”.
Những lý luận này bao gồm:
 Xu hướng suy giảm tỷ suất lợi nhuận. Tích tụ tư bản gắn liền xu hướng
chung của mức độ tập trung tư bản. Điều này tự nó làm giảm tỷ suất lợi
nhuận rồi kìm hãm chủ nghĩa tư bản và có thể đưa đến khủng hoảng.
 Tiêu thụ dưới mức. Nếu giai cấp tư sản thắng thế trong cuộc đấu tranh giai
cấp với mục đích cắt giảm tiền lương và bóc lột thêm lao động, nhờ đó tăng
tỷ suất giá trị thặng dư, khi đó nền kinh tế tư bản đối mặt với vấn đề thường
xuyên là nhu cầu tiêu dùng không tương xứng với quy mô sản xuất và tổng
cầu không tương xứng với tổng cung.
 Sức ép lợi nhuận từ lao động. Tích tụ tư bản có thể đẩy nhu cầu thuê mướn
tăng lên và làm tăng tiền lương. Nếu tiền lương tăng cao sẽ ảnh hưởng đến tỷ
suất lợi nhuận và khi đạt đến một mức độ nhất định sẽ gây ra suy thoái kinh
tế.
Về mặt lý luận, ít nhất những quan điểm trên không mâu thuẫn với nhau và có
thể đóng vai trò là những nội dung trong một học thuyết tổng hợp về khủng
hoảng kinh tế
II. Diễn biến
Khủng hoảng kinh tế Mỹ năm 2009 không phải chỉ bắt đầu từ năm 2009 mà


nguyên nhân và diễn biến của nó đã nhen nhóm từ những năm trước đó.
1.Giai đoạn trước năm 2009
• 2004-2006: Lãi suất ở Mỹ tăng từ 1% lên 5,35%, thị trường địa ốc Mỹ bắt đầu
xuống giá. Các khoản vay địa ốc dưới chuẩn không trả được tăng vọt đến mức
báo động.
• 2007: Các ngân hàng lớn: Fannie Mae, IndyMac, Bear Stearns, Citigroup, lần
lượt báo cáo lỗ do dính vào các khoản vay loại này. Đây là những dấu hiệu
khủng hoảng đầu tiên.
+ Ngân hàng IndyMac lỗ 614 triệu USD.
+ Fannie Mae khoản lỗ 3,6 tỷ USD trong quý 4/2007, là một sự đảo ngược so
với khoản lãi 826 triệu USD trong quý 1/2007.
+Tháng 12, Bear Stearns công bố mức lỗ quí 4-2007 là 854 triệu đô la, tương
đương 6,9 đô la/cổ phiếu; đồng thời thất thoát 1,9 tỉ đô la đầu tư vào cổ phiếu
cầm cố.
+ Ngày 1/8: hai quỹ phòng hộ (hedge fund) của Bear Stearns, một trong những
tập đoàn môi giới chứng khoán và ngân hàng đầu tư hàng đầu của Phố
Wall, tuyên bố phá sản.
+ Ngày 15/10: Citigroup - Tập đoàn ngân hàng hàng đầu nước Mỹ - công bố
lợi nhuận Quý 3 bất ngờ giảm 57% do các khoản thua lỗ và trích lập dự phòng
lên tới 6,5 tỷ USD. Giám đốc điều hành Citigroup Charles Prince từ chức
vào ngày 4/11.
Theo báo chí, Mỹ có khoảng 6000 tỷ cho vay địa ốc, trong đó 2000 tỷ là
dưới chuẩn. Khoảng 700 tỷ dưới chuẩn là do hệ thống ngân hàng Mỹ nắm giữ.
Nếu các khoảng cho vay dưới chuẩn của ngân hàng Mỹ mất hết vốn tự có cũng
sẽ gần bằng không.
• 2008: thời điểm này, cuộc khủng hoảng đã khiến:
+ Ngày 11/1: Bank of America - ngân hàng lớn nhất nước Mỹ về tiền gửi và
vốn hoá thị trường - đã bỏ ra 4 tỉ USD để mua lại Countrywide Financial sau
khi ngân hàng cho vay thế chấp địa ốc này thông báo phá sản do các khoản
cho vay khó đòi quá lớn.

+ Ngày 11/7: Ngân hàng IndyMac Bancorp với tài sản 32 tỉ bị đặt dưới quyền
kiểm soát của Fed, sau đó tuyên bố phá sản. Đây là một trong những vụ đóng
cửa ngân hàng lớn nhất từ trước tới nay sau khi những người gửi tiền đã rút ra
hơn 1,3 tỷ USD trong vòng 11 ngày
+ Ngày 6/9: Fed nắm quyền kiểm soát Fannie Mae và Freddie Mac, hai tập
đoàn bảo lãnh tín dụng địa ốc lớn nhất Mỹ.
+ Ngày14/9: Bank of America cho biết sẽ mua Merrill Lynch với giá 29
USD/cổ phiếu sau khi từ chối đề nghị m u

a lại của Le h

man B r

ot h

er s

. FED bơm
70 tỷ USD vào hệ thống ngân hàng của Mỹ.
+ Ngày 15/9:Ngân hàng đầu tư Lehman Brothers với giá cổ phiếu sụt giảm
45% sau khi nỗ lực tìm kiếm đối tác bán lại chính mình đã tuyên bố phá sản.
Đánh dấu vụ phá sản lớn nhất nước Mỹ. FED tiếp tục bơm thêm 70 tỷ USD
vào hệ thống ngân hàng của Mỹ. Thêm vào đó, FED cũng cung cấp cho thị
trường những khoản vay trực tiếp bằng tiền mặt và trái phiếu kho bạc.
+ Ngày 18/9 : Fed cùng 5 ngân hàng trung ương của các nước phát triển (ECB
của Châu Âu, Thụy Sỹ, Nhật, Anh, Canada) bơm 300 tỉ US D để tháo băng
tín dụng ngân hàng.
+ Ngày 19/9:SEC đã tạm thời cấm nghiệp vụ bán khống với 799 loại chứng
khoán FED tiếp tục bơm 20 tỉ USD vào thị trường tín dụng.
+ Ngày 20/09 :Chính phủ Mỹ tuyên bố một kế hoạch tổng thể để cứu hệ

thống tài chính, gồm một chương trình mua lại các khoản vay thế chấp xấu với
chi phí ước tính lên đến 700 tỉ đô la.
+ Ngày 21/09:
Hai ngân hàng đầu tư độc lập còn lại là Morgan Stanley và
Goldman Sachs chuyển đổi mô hình hoạt động sang tập đoàn ngân hàng tổng
hợp (bank holding company) đã kết thúc một giai đoạn lịch sử hoàng kim của
Phố Wall với mô hình ngân hàng đầu tư độc lập (financial holding company).
Phố Wall giờ đây đã thuộc về tay FED. Cuộc tranh giành quyền lực ảnh hưởng
của FED và SEC đối với Phố Wall vốn dai dẳng lâu nay, đã đến hồi kết thúc.
Văn phòng Giám sát tiết kiệm (OTS) của Mỹ đóng cửa ngân hàng
Ameribank (theo FDIC, có tổng tài sản 115 triệu USD và lượng tiền gửi của
khách hàng là 102 triệu USD), đánh dấu vụ ngân hàng thương mại phá sản thứ
12 trong năm 2008 ở nước này
+
Ngày
25/09:
Với tài sản 307 tỷ USD, Washington Mutual Inc (WaMu)- Ngân hàng
thương mại lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ có lịch sử 119 năm và 2.300 chi
nhánh tại 15 bang đã bị phá sản. Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi liên bang Mỹ
(FDIC) đã đoạt q u

y ền ki ể

m soát

W aM

u và

sau


đó

bán các

tài

sản

cho
JPMorgan Chase với giá 1,9 tỷ USD. Có thêm WaMu, JPMorgan Chase sẽ có
tổng cộng 5.400 văn phòng với 900 tỷ USD tiền gửi trở thành ngân hàng
thương mại lớn nhất nước Mỹ xét về số lượng tiền gửi của khách.
Trong khi đó tại Washington D.C., các thành viên chủ chốt trong quốc
hội đã đồng ý

về những điều khoản chính trong kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD.
+ Ngày 29/9: Hạ viện b ấ

t

ngờ

không

thông

qua

kế hoạch giải cứu thị trường

tài chính Mỹ. Phản ứng ngay lập tức với quyết định trên, chỉ số công nghiệp
Dow Jones tụt giảm gần 780 điểm - mức giảm trong một ngày mạnh nhất từ
trước tới nay.
+ Ngày 1/10: Th ư



ng vi ệ

n

M

ỹ thông

qua

bản kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD
(tỷ lệ 74-25) với một số điểm đã được thay đổi, bao gồm: gia hạn đạo luật
cắt giảm thuế thu nhập cho doanh nghiệp và cá nhân (tính sẽ làm ngân sách
thất thu 149 tỷ USD); tăng hạn mức bảo hiểm tiền gửi tại Cơ quan Bảo hiểm
tiền gửi Liên bang từ 100.000 USD lên 250.000 USD…
Kết Luận :Tính tới thời điểm này, cuộc khủng hoảng đã
khiến:
+Ngân hàng Lehman Brothers phá sản.
+Ngân hàng

Bear Stearns và Merrill Lynch bị bán lại.
+Ngân hàng


Goldman Sachs và Morgan Stanley buộc phải
chuyển đổi mô hình kinh doanh sang tập đoàn ngân hàng đa
chức năng.
+Fannie Mae, Freddie Mac và AIG bị Chính phủ Mỹ tiếp
quản.
+Thêm vào đó, cùng với vụ phá sản của WaMu, số ngân hàng
thuơng
mại
của
Mỹ lâm vào cảnh phá sản đã lên tới13.
2.Giai đoạn 2009.
• Tháng 1- 2: 9 ngân hàng của Mỹ phá sản.
• Tháng 2: Chính phủ Mỹ thông qua gói kích thích kinh tế 787 tỷ USD để cứu vãn
nền kinh tế
• Tháng 4: Thâm hụt ngân sách trong 6 tháng đầu năm 2009 chiếm 953 tỷ USD,
tăng 3 lần so với cùng kỳ 2008.Chính phủ Mỹ tiến hành điều tra 19 ngân hàng
nhằm đánh giá khả năng tồn tại trong trường hợp khủng hoảng tài chính kéo dài
và trầm trọng hơn.
• Tháng 5:
- 3/5/2009: Cục dự trữ liên bang Mỹ nhận định sự xuống dốc của kinh tế Mỹ đã
chậm lại, đồng thời những chỉ số kinh tế khả quan đã hỗ trợ cho giá cổ phiếu.
- 4/5/2009: mặc dù nền kinh tế có vài dấu hiệu tốt nhưng vẫn có thêm 3 ngân hàng
của Mỹ đóng cửa (Silverton, Citizens community, America West).
- 7/5/2009: Cục dự trữ liên bang Mỹ công bố kết quả sát hạch 19 ngân hàng lớn
nhất của Mỹ. Trong đó 9 ngân hàng được đánh giá hoạt động vững chắc, 10 ngân
hàng cần thêm 75 tỷ USD. Đồng euro tăng 7% so với đồng dollar.
- 29/5/2009: Bộ thương mại thông báo tổng sản phẩm quốc nội (GDP) giảm 5,7%
trong quý I năm 2009 thấp hơn quý IV năm 2008 (6,3%).
• 1/6/2009: Văn phòng ngân sách quốc hội Mỹ dự đoán thâm hụt ngân sách đến
30/9/2009 sẽ ở mức 1750 tỷ, tăng gấp 3,5 lần so với năm 2008.

• Tập đoàn công nghiệp ô tô lớn nhất của Mỹ và thế giới General Motors chính
thức nộp đơn tuyên bố phá sản.
Kết Luận: -Có 12 ngân hàng tiếp tục phá sản
- Cùng với đó, tập đoàn ô tô lớn nhất của Mỹ và thế giới
cũng tuyên bố phá sản
- Thâm hụt ngân sách trầm trọng
III. Nguyên Nhân
1.Nguyên nhân trực tiếp
+) Tình trạng kinh doanh thua lỗ và sự sụp đổ hàng loạt theo dây chuyền của
các tổ chức tài chính hàng đầu.
- Các tổ chức tín dụng phải đối mặt với nguy cơ mất vốn.
- Các ngân hàng rơi vào tình trạng khó khăn về tính thanh khoản.
- Do sự liên quan, đầu tư qua lại thông qua hình thức chứng khoán hóa
đã dẫn đến sự sụp có hệ thống.VD: Bear Stern, Indy Mac, Lehman
Brothers.
Citigroup
24,1
Merrill Lynch
22,5
HSBC
17,2
Morgan Stanley
10,3
Bank of America
9,4
Deutsche Bank
7,0
JP Morgan Chase
2,9
Societe Generale

3,0
Goldmatn Sachs
1,5
Thiệt hại của 1 số tổ chức tài chính ( đv : tỉ USD)
+) Khủng hoảng niềm tin của người dân vào kinh tế
Kinh doanh thiếu hiệu quả, rủi ro cao là mấu chốt làm suy yếu và đổ
vỡ ngân hàng. Bên cạnh đó, niềm tin của công chúng, người gửi tiền là một
trong số yếu tố quan trọng quyết định thành công và thất bại của ngân hàng.
Người gửi tiền thực hiện hành vi rút tiền theo phương thức “thà sớm còn
hơn quá muộn”, tạo nên “đột biến rút tiền gửi”. Nếu mức độ “đột biến rút
tiền gửi” trầm trọng có thể làm cho đơn lẻ thành hệ thống thì có thể dẫn
đến tình trạng phá sản như ngân hàng Bear stearn, IndyMac, WaMu vừa
qua.
2. Nguyên nhân sâu xa
a) Cho vay dưới chuẩn
Cuộc khủng hoảng này bắt nguồn hoạt động cho vay có phần dễ dãi
và ồ ạt được gọi là “cho vay dưới chuẩn” - của các ngân hàng đối với
người vay tiền mua nhà trả góp với hy vọng sau đó bán đi để kiếm lời.
-Định nghĩa:
Cho vay dưới tiêu chuẩn (subprime lending) là hình thức cho vay rất
phổ biến, đặc biệt tại Mỹ. Theo cẩm nang hướng dẫn của Bộ Tài chính Mỹ
năm 2001: “Những người đi vay dưới tiêu chuẩn thường có quá khứ tín
dụng yếu kém như thường có những khoản thanh toán quá hạn, và có thể có
những vấn đề nghiêm trọng như phải ra toà, phá sản. Họ cũng có thể có khả
năng thanh toán thấp xét trên những chỉ số như điểm tín dụng, tỷ lệ nợ trên
thu nhập, hoặc một số tiêu chí khác…”. Không có một tài liệu chính thức
nào quy định cụ thể về người đi vay dưới tiêu chuẩn nhưng ở Mỹ hầu hết
những người vay này có điểm tín dụng thấp hơn 620, chiếm gần 25% dân số
Mỹ. Do uy tín của người vay thấp và tình hình tài chính không mấy sáng sủa
nên nhìn chung các khoản vay dưới tiêu chuẩn có lãi suất cao hơn lãi suất

thị trường và điều này lại càng làm tăng thêm khó khăn tài
chính cho người vay, đặc biệt khi lãi suất thị trường gia tăng.

Trong giai đoạn 2004-2006, cho vay thế chấp dưới tiêu chuẩn
chiếm khoảng 21% tổng các khoản vay thế chấp, tăng so với mức 9% giai
đoạn 1996-2004, trong đó chỉ tính riêng năm 2006 tổng trị giá các khoản
vay thế chấp dưới tiêu chuẩn lên đến 600 tỷ USD, bằng 1/5 thị trường cho vay
mua nhà của Mỹ. Sự phát triển mạnh của hình thức cho vay thế chấp dưới
tiêu chuẩn đi kèm với sự bùng nổ thị trường nhà đất của Mỹ là hệ quả của
việc lãi suất giảm xuống mức thấp kỷ lục, các tiêu chuẩn cho vay nới lỏng và
hội chứng “thích mua nhà” của dân Mỹ. (xem biểu đồ 1)
800 30
25
600
20
400
15
10
200
5

0
0
Năm

Biểu đồ 1: Tăng
trưởng
cho vay
duới
tiêu chuẩn ở Mỹ (1994-2006)

Nguồn:
Fed
Năm 2001 đánh dấu sự hình thành của bong bóng nhà đất trên thị
trường
Mỹ sau khi Cục Dự trữ liên bang Mỹ 11 lần giảm lãi suất từ mức 6,5% xuống
mức 1,75% nhằm vực dậy nền kinh tế đang suy thoái. Bong bóng nhà đất kéo
dài suốt giai đoạn 2001-2005, lãi suất thấp đã khuyến khích người dân mua
nhà từ nguồn vay cầm cố, đẩy giá nhà liên tục leo thang, tăng 10% năm 2002
và tăng bình quân trên 25%/năm giai đoạn 2003-2005. Lãi suất lúc ấy lại rất
thấp nên mua xong, cứ cho thuê để lấy tiền trả góp ngân hàng, được giá là bán
lại, lấy lời. Sự bùng nổ giá nhà giai đoạn này là một yếu tố quan trọng đóng
góp vào sự phục kinh tế của Mỹ do lãi suất giảm làm giảm giá trị các khoản
thanh toán cầm cố hàng tháng của người dân trong khi giá nhà tăng giúp họ
có được những khoản vay mới lớn hơn để chi tiêu tiêu dùng, thực hiện khẩu
hiệu “đi mua sắm theo yêu cầu của Tổng thống và vì lòng yêu nước”, từ đó
kích thích tăng trưởng.
Thị trường lúc nào cũng chịu tác động của quy luật cung cầu. Khi việc
mua nhà không phải vì nhu cầu chỗ ở mà sử dụng nó như một công cụ đầu tư
thì chắc chắn sau một thời gian xây thêm nhà để bán, thị trường sẽ thừa nhà
Bên cạnh đó, sự phục hồi kinh tế của Mỹ cùng với nguy cơ lạm phát
gia tăng bởi cả những yếu tố từ cung, cầu đã thúc đẩy Cục Dự trữ liên bang
Mỹ tăng lãi suất trở lại, đến tháng 8/2005 lãi suất liên ngân hàng định hướng
của Mỹ (Fed Fund Rate) đạt mức 3,75%/năm và dự kiến còn tiếp tục tăng
nên không còn là mức lãi suất hấp dẫn đối với người mua nhà. Bong bóng
nhà đất bắt đầu xì hơi.
Năm 2006 thị trường sụt giảm mạnh, tháng 8/2006, chỉ số xây dựng nhà
của Mỹ giảm hơn 40% so với cùng kỳ năm trước, nhen nhóm lên nguy cơ
khủng hoảng tín dụng trên thị trường cho vay cầm cố dưới tiêu chuẩn. Các chủ
nhà đất lâm vào khó khăn tài chính do cùng với việc lãi suất tăng làm tăng giá trị
hóa đơn thanh toán cho khoản vay cầm cố hàng tháng thì giá nhà giảm làm giá

trị tài sản cầm cố giảm xuống thấp hơn mức tiền vay gốc để mua căn nhà. Tỷ lệ
vỡ nợ của người vay tăng lên, đặc biệt là những người vay dưới tiêu chuẩn vốn
thường xuyên ở trong tình trạng khó khăn tài chính, cùng với nó là sự gia tăng
nhanh chóng của hoạt động xiết nợ từ các công ty cho vay. Năm 2007, giá nhà
tiếp tục giảm, doanh số bán nhà chưa bao giờ “trượt dốc” như vậy kể từ năm
1989. Thị trường địa ốc Mỹ lại rơi vào thời kỳ đóng băng, người vay tiền để
mua nhà bán kiếm lời lại không thể bán được nhà, trong khi nhu cầu nhà ở lại
giảm mạnh (xem biểu đồ 2), cứ như thế món nợ vay mua nhà bỗng tăng vọt.
Đến lúc này các ngân hàng bắt đầu nhận thấy nợ xấu, nợ khó đòi tăng vọt. Số
lượng nợ xấu và khách hàng vỡ nợ cứ thế tăng, đẩy các tổ chức cho vay vào
cảnh thua lỗ đáng sợ, thậm chí đệ đơn xin phá sản, trong đó có cả New Century-
công ty cho vay cầm cố dưới tiêu chuẩn lớn thứ 2 của Mỹ.
Biểu đồ 2: Nhu cầu nhà ở Mỹ giai đoạn 1995-2007
(Nguồn: h t

tp:// w

ww.c u

na.or g

)
b) Chứng khoán hóa các khoản nợ cho vay
dưới
chuẩn
Nhiều chuyên gia tài chính cho rằng phát minh giá trị nhất trên thị
trường tài chính đầu thế kỷ XXI là việc chứng khoán hóa các khoản vay mua
nhà thế chấp qua đó cho phép các tổ chức tín dụng tiếp cận thị trường tài chính
để chia sẻ rủi ro và tăng tính thanh khoản của những hợp đồng cho vay. Tuy
nhiên, cũng qua kênh chứng khoán hóa (Securitization) này với hai công cụ là

chứng khoán bảo đảm bằng thế chấp MBS (Mortgage Backed Securities) và
trái phiếu có thế chấp CDO (Collateralized Debt Obligations) mà nhiều định
chế tài chính trên thế giới đã bị “vạ lây” khi bong bóng bất động sản ở Mỹ “xì
hơi”. Việc chứng khoán hóa này đã hình thành nên thị trường cho vay thế
chấp thứ cấp SMM (Secondary Mortgage Market).
Thị trường cho vay thế chấp sơ cấp PMM (Primary Mortgage Market)
có thể coi là thị trường bán lẻ trên đó người đi vay trực tiếp ký hợp đồng với
ngân hàng hay thông qua công ty công ty môi giới để vay tiền mua nhà và sử
dụng ngôi nhà như là tài sản thế chấp.
Tuy nhiên nếu tách biệt các hợp đồng cho vay khi đưa ra giao dịch trên
thị trường thứ cấp thì lợi nhuận thu được sẽ không đủ để trang trải chi phí. Do
đó, các tổ chức phát hành trên thị trường thứ cấp SMM đã kết hợp nhiều hợp
đồng cho vay riêng lẻ thành một “rổ tài sản” và sử dụng như tài sản đảm
bảo để phát hành MBS hay CDO trên thị trường thứ cấp. Để đảm bảo giá trị
tài sản thế chấp trong “rổ tài sản”, tổ chức phát hành sẽ chuyển giao toàn bộ
tài sản này sang bên thứ ba là Quỹ ủy thác (Trustee) chịu trách nhiệm quản lý
và giám sát các tài sản đó
Trong giai đoạn 2001- 2007, sự bùng nổ của thị trường nhà đất với giá
nhà liên tục tăng cao (124% năm 2006 so với 1997) cùng với sự dễ dãi của
hệ thống ngân hàng đã làm cho bong bóng mua nhà thế chấp phình to đạt mức
11,03 nghìn tỷ đôla vào quý 3/2007, trong đó 57% đã được chứng khoán hóa.
Các loại chứng khoán này được mang bán rộng rãi cho các nhà đầu tư trên
khắp thế giới. Tuy nhiên bắt đầu từ năm 2007, số lượng nhà tồn kho của
ngành xây dựng Mỹ đã tăng cao trong khi tỷ lệ tịch thu tài sản thế chấp cũng
liên tục tăng, đặc biệt là đối với vay ARM, đã dẫn đến sự ế ẩm của thị trường
nhà đất gây áp lực giảm giá nhà khoảng 8% so với năm 2006. Bong bóng bất
động sản đổ vỡ. Tỷ lệ vỡ nợ, thu hồi tài sản thế chấp tăng cao theo một vòng
xoáy khi cho vay ARM chỉ chiếm 6,8% dư nợ tín dụng nhưng chiếm đến 43%
số vụ tịch thu tài sản thế chấp riêng trong quý 3/2007. Cùng với sự rối loạn
của nhiều ngân hàng lớn tại Mỹ như Citigroup, Morgan Stanley, Merrill

Lynch, Goldman Sachs, Bank of America, nhiều ngân hàng lớn trên thế
giới như UBS, Deutsche Bank, HSBC, Societe Generale, BayernLB,…
tưởng chừng như vô can với sự hỗn loạn trên thị trường nhà đất Mỹ cũng
chịu thiệt hại không nhỏ vì gián tiếp cho vay khi đầu tư vào MBS/CDO. Theo
ước tính của IMF, đến đầu tháng 4/2008, nhà đất mất giá và các ngân hàng
không thu được nợ đã làm thiệt hại 565 tỷ đôla. Cộng với sự mất giá của cổ
phiếu công ty địa ốc và thiệt hại từ khủng hoảng tín dụng thì tổng thiệt hại của
nền kinh tế toàn cầu đã lên tới 945 tỷ đôla.
c) Vai trò của các cơ quan quản lý
Có thể nói thiếu sót lớn nhất của hệ thống cơ quan quản lý thị trường
tài chính Mỹ là đã không thể kiểm soát hoạt động cho vay gian dối của các
tổ chức không nằm dưới sự giám sát chính thức của Fed hay các cơ quan
giám sát hệ thống ngân hàng truyền thống khác trên thị trường sơ cấp thông
qua những hợp đồng cho vay bất lợi và tù mù mà chủ yếu nhằm vào các
nhóm đối tượng thiếu kiến thức và có mức thu nhập trung bình thấp. Các tổ
chức này đưa ra những mức lãi suất hấp dẫn để thu hút khách hàng, lờ đi
những khai báo không trung thực của khách hàng về thu nhập và chấp nhận
mức đặt cọc thấp, thậm chí không cần đặt cọc với điều kiện là khách hàng
có thể phải trả mức phạt nặng nếu không trả góp đúng hạn và phải chấp nhận
điều chỉnh mức lãi suất ARM rất cao chỉ sau 1 đến 2 năm. Trên thị trường sơ
cấp có khoảng 50% dư nợ cho vay thế chấp dưới chuẩn được thực hiện bởi
các tổ chức nói trên đã làm cho nhiều người Mỹ mắc bẫy và không thể tiếp
tục trả tiền nhà, chấp nhận bị thu hồi nhà thế chấp và gây ra 278 vụ kiện cho
vay gian dối trong năm 2007.
Việc lỏng lẻo trong giám sát của Fed và các cơ quan có trách nhiệm
cấp liên bang còn tạo môi trường và thói quen cho vay không xem xét thấu
đáo các nguyên tắc và chuẩn mực đã quy định mà chủ yếu dựa vào giá trị tài
sản thế chấp để cho vay, không đánh giá thận trọng khả năng chi trả thực tế
của người đi vay gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính thanh khoản và khả
năng thu hồi nợ của các ngân hàng khi bong bóng đổ vỡ. Cho vay gian

dối làm thiệt hại cho nước Mỹ trung bình 9 tỷ đôla/ năm.
Trên thị trường thứ cấp, Ủy ban Chứng khoán (Securities and
Exchange Commission- SEC) luôn khẳng định là giám sát chặt chẽ quy
trình cũng như phương pháp đánh giá MBS của các tổ chức định mức tín
nhiệm nhưng trên thực tế việc giám sát cũng rất lỏng lẻo và đã gây ra hậu quả
nghiêm trọng. Trong giai đoạn thị trường bùng nổ, các tổ chức này dễ dãi đánh
giá cao nhiều MBS/CDO được đảm bảo bằng tài sản thế chấp dưới chuẩn dẫn
tới giá trị các chứng khoán này được thổi phồng lên so với giá trị của chúng.
Khi thị trường lâm vào khó khăn, các tổ chức định mức tín nhiệm lại định giá
thấp đối với nhiều MBS/CDO (tính đến tháng 11/2007) buộc các nhà đầu tư có
tổ chức mà phần lớn trong số đó chỉ được phép giữ những tài sản bảo đảm như
„AAA‟
phải bán tống bán tháo gây ra dư thừa cung và sự mất giá của nhiều
MBS/CDO.
Như vậy, Fed đã thất bại ở cả hai mặt: áp dụng chính sách nới lỏng
tiền tệ, duy trì lãi suất thấp trong thời gian dài để khuyến khích tiêu dùng và
quản lý lỏng lẻo, là nguồn của cơn khủng hoảng tài chính hiện nay.
IV.Tác động
1. Tác động đến Mỹ
- Nền kinh tế suy thoái :Cuộc khủng hoảng này là nguyên nhân chính
làm cho kinh tế Hoa Kỳ rơi vào suy thoái từ tháng 12 năm 2007. NBER dự
đoán đây sẽ là đợt suy thoái nghiêm trọng nhất ở Hoa Kỳ kể từ sau Chiến
tranh thế giới thứ hai. Hàng loạt tổ chức tài chính trong đó có những tổ chức
tài chính khổng lồ và lâu đời bị phá sản đã đẩy kinh tế Hoa Kỳ vào tình
trạng đói tín dụng. Đến lượt nó, tình trạng đói tín dụng lại ảnh hưởng đến khu
vực sản xuất khiến doanh nghiệp phải thu hẹp sản xuất, sa thải lao động, cắt
giảm các hợp đồng nhập đầu vào. Nhiều doanh nghiệp bị phá sản hoặc có
nguy cơ bị phá sản, trong đó có cả 3 nhà sản xuất ô tô hàng đầu của Hoa Kỳ
là General Motors, Ford Motor và Chrysler LLC. Các nhà lãnh đạo 3 hãng ô
tô này đã nỗ lực vận động Quốc hội Hoa Kỳ cứu trợ, nhưng không thành

công. Hôm 12 tháng 12 năm 2008, General Motor đã phải tuyên bố tạm thời
đóng cửa 20 nhà máy của hãng ở khu vực Bắc Mỹ. Tiêu dùng giảm, hàng hóa
ế thừa đã dẫn tới mức giá chung của nền kinh tế giảm liên tục, đẩy kinh tế
Hoa Kỳ tới nguy cơ có thể bị giảm phát.
-Tình trạng thất nghiệp gia tăng : Do nhiều doanh nghiệp ở trong tình
trạng phá sản hoặc gần phá sản nên họ đã thu hẹp sản xuất,lao động không có
việc làm ngày càng tăng.Bình quân mỗi tháng từ tháng 1 tới tháng 9 năm
2008, có 84 nghìn lượt người lao động Hoa Kỳ bị mất việc làm
-Dollar Mỹ lên giá :Cuộc khủng hoảng còn làm cho dollar Mỹ lên giá.
Do dollar Mỹ là phương tiện thanh toán phổ biến nhất thế giới hiện nay, nên
các nhà đầu tư toàn cầu đã mua dollar để nâng cao khả năng thanh khoản của
mình, đẩy dollar Mỹ lên giá. Điều này làm cho xuất khẩu của Hoa Kỳ bị thiệt
hại.
2.Tác động đến thế giới – Hiệu ứng Domino

Cuộc khủng hoảng tài chính đã lan truyền trên thế giới một lần nữa cho
thấy sự phụ thuộc lẫn nhau của các nền kinh tế trên thế giới
Hoa Kỳ là thị trường nhập khẩu quan trọng của nhiều nước, do đó khi kinh
tế suy thoái, xuất khẩu của nhiều nước bị thiệt hại, nhất là những nước theo
hướng xuất khẩu ở Đông Á. Một số nền kinh tế ở đây như Nhật Bản, Đài
Loan, Singapore và Hong Kong rơi vào suy thoái. Các nền kinh tế khác đều tăng
trưởng chậm lại.
Châu Âu vốn có quan hệ kinh tế mật thiết với Hoa Kỳ chịu tác động
nghiêm trọng cả về tài chính lẫn kinh tế. Nhiều tổ chức tài chính ở đây bị phá sản
đến mức trở thành khủng hoảng tài chính ở một số nước như Iceland, Nga. Các
nền kinh tế lớn nhất khu vực là Đức và Ý rơi vào suy thoái, Anh, Pháp, Tây Ban
Nha cùng đều giảm tăng trưởng. Khu vực đồng Euro chính thức rơi vào cuộc suy
thoái kinh tế đầu tiên kể từ ngày thành lập.
Các nền kinh tế Mỹ Latinh cũng có quan hệ mật thiết với kinh tế Hoa Kỳ,
nên cũng bị ảnh hưởng tiêu cực khi các dòng vốn ngắn hạn rút khỏi khu vực và

khi giá dầu giảm mạnh. Ecuador tiến đến bờ vực của một cuộc khủng hoảng nợ.
Kinh tế các khu vực trên thế giới tăng chậm lại khiến lượng cầu về dầu mỏ cho
sản xuất và tiêu dùng giảm cũng như giá dầu mỏ giảm. Điều này lại làm cho các
nước xuất khẩu dầu mỏ bị thiệt hại. Đồng thời, do lo ngại về bất ổn định xảy ra
đã làm cho nạn đầu cơ lương thực nổ ra, góp phần dẫn tới giá lương thực tăng
cao trong thời gian cuối năm 2007 đầu năm 2008, tạo thành một cuộc khủng
hoảng giá lương thực toàn cầu. Nhiều thị trường chứng khoán trên thế giới gặp
phải đợt mất giá chứng khoán nghiêm trọng. Các nhà đầu tư chuyển danh mục
đầu tư của mình sang các đơn vị tiền tệ mạnh như dollar Mỹ, yên Nhật, franc
Thụy Sĩ đã khiến cho các đồng tiền này lên giá so với nhiều đơn vị tiền tệ khác,
gây khó khăn cho xuất khẩu của Mỹ, Nhật Bản, Thụy Sĩ và gây rối loạn tiền tệ ở
một số nước buộc họ phải xin trợ giúp của Quỹ Tiền tệ Quốc tế. Hàn Quốc rơi
vào khủng hoảng tiền tệ khi won liên tục mất giá từ đầu năm 2008.

3.Tác động đến Việt Nam
- Đối với lĩnh vực sản xuất nông nghiệp: Năm 2009, sản xuất lương thực
thực phẩm cũng ở mức ổn định, không bị ảnh hưởng lớn của khủng hoảng kinh
tế Mỹ và thế giới.
- Đối với sản xuất công nghiệp :cũng có khó khăn, nhưng những khó
khăn hiện nay là do lạm phát cao đem lại, đặc biệt là khó khăn trong lĩnh vực
xây dựng. Năm 2009, khi giá cả thế giới ở mức thấp và giá trong nước ổn định,
đặc biệt đi theo đó là lãi suất tín dụng ngân hàng đã giảm xuống tương ứng thì
các doanh nghiệp đã có cơ hội khôi phục và phát triển sản xuất, ảnh hưởng từ
khủng hoảng kinh tế thế giới cũng sẽ không nhiều vì sức mua trong dân vẫn
cao, mức tiêu thụ hàng hoá trong các tháng vẫn ở trong phạm vi khả quan.
- Đối với dịch vụ, về cơ bản có ảnh hưởng nhưng không lớn vì khi giá
cả giảm xuống thì nhu cầu dịch vụ sẽ tăng lên và người tiêu dùng sẽ được
hưởng thụ nhiều hơn các loại hình dịch vụ. Đối với dịch vụ tài chính, ngân
hàng sẽ tốt hơn khi lãi suất tín dụng ngân hàng giảm xuống, chi phí dịch vụ
ngân hàng ở mức thấp thì nhiều doanh nghiệp và cá nhân sẽ có điều kiện vay

vốn và sử dụng các dịch vụ này nhiều hơn.
- Đối với xuất - nhập khẩu thì có ảnh hưởng trên các mặt như: do nhập
khẩu các nước giảm nên xuất khẩu của ta giảm, hơn nữa giá cả các mặt hàng
giảm nên mặc dù tổng sản lượng hàng xuất khẩu vẫn tăng nhưng tổng kim
ngạch xuất khẩu vẫn giảm. Đó là chưa kể các doanh nghiệp kinh doanh xuất
khẩu và sản xuất hàng xuất khẩu gặp khó khăn trong huy động vốn cho các
hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Hầu hết các mặt hàng xuất khẩu đều
gia tăng về số lượng trung bình trên 10% nhưng lại gặp bất bợi khi mức giá chỉ
bằng 40% của năm 2008. Chính điều này khiến cho kim ngạch xuất khẩu giảm
sút. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu giảm 20- 30%. Năm 2009, cả nước kim
ngạch xuất khẩu ước khoảng hơn 56,5 tỷ USD.
- Hệ thống ngân hàng: Có 3 chi nhánh ngân hàng Mỹ hiện đang hoạt
động tại Việt Nam là JP Morgan Chase, Citibank và FENB. Một số tác động có
thể là: diễn biến của tỷ giá và lãi suất USD. Tuy nhiên, Chính phủ và Ngân
hàng Nhà nước đã có một số giải pháp chỉ đạo, điều hành để ổn định tỷ giá, hạ
lãi suất cơ bản để hỗ trợ vốn cho doanh nghiệp, rà soát và kiểm soát nợ xấu của
các ngân hàng thương mại…
- Về tài chính, ngân sách và bảo hiểm có một số tác động nhẹ như giảm
nguồn thu NSNN, hay người dân sẽ giảm các hoạt động bảo hiểm nhưng
những vấn đề này về cơ bản là ổn định.
- Đầu tư nước ngoài vào nước ta: có thể được xem xét ở trên các góc độ
và các mặt như: Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nước ta (FDI); đầu tư gián
tiếp qua thị trường chứng khoán (FII), Viện trợ phát triển chính thức (ODA),
Vay nợ nước ngoài và các nguồn khác.
+Đối với nguồn vốn FDI đã bắt đầu bị ảnh hưởng nhẹ. Bộ Kế hoạch và
Đầu tư vừa cho biết vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đăng ký vào Việt
Nam cả năm 2009 đạt 21,48 tỷ USD, vốn thực hiện đạt 10 tỷ USD. Đây là mức
suy giảm khá mạnh và chỉ bằng 30% so với năm 2008.
+Về nguồn vốn ODA, tháng 10/2008, giải ngân đạt thấp, năm 2008
giải ngân không đạt như dự báo 2,3 tỷ USD vì các nguồn vốn cũng gặp các khó

khăn và hạn hẹp khi các nước đang tập trung chống khủng hoảng tại nước
mình.Nhưng đến năm 2009,số vốn ODA được kí kết đạt trên 6,1 tỉ USD do các
biện pháp ngăn chặn, phục hồi kinh tế cùng với các chính sách đối ngoại đã
làm cho cộng đồng quốc tế có sự tin tưởng khi đầu tư vào Việt Nam
+Nguồn vốn đầu tư gián tiếp (FII), chúng ta có thể thấy: trong bối cảnh
cuộc khủng hoảng tài chính Mỹ đang lan rộng ra toàn cầu, các định chế tài
chính sẽ phải xem xét lại chiến lược đầu tư và danh mục đầu tư của mình. Song
với thị trường Việt Nam, nhiều nhà đầu tư đánh giá cao. Do đó, dù việc huy
động vốn vẫn rất khó, nhưng nhà đầu tư đã bắt đầu trở lại và xem xét để rót
thêm vốn vào những doanh nghiệp có khả năng tăng trưởng tốt.Năm 2009, đầu
tư FII là trên 5t tỉ USD.
- Thị trường chứng khoán Việt Nam Năm 2009 đã để lại những dấu ấn
quan trọng trong lịch sử 9 năm phát triển của TTCK. Những kỷ lục mới, cột
mốc quan trọng đã lần lượt được thiết lập: phiên giao dịch ngày 24-2, VN-
Index đã rơi xuống mức đáy 235,5 điểm, HNX-Index lùi về dưới mốc 100
điểm khi xuống mức thấp nhất trong lịch sử là 78,06 điểm. Tuy nhiên, bước
sang tháng 3-2009, các nhà đầu tư đã lấy lại được niềm tin khi TTCK có một
tháng tăng điểm ấn tượng nhất kể từ tháng 11-2008: VN-Index không chỉ khởi
sắc về điểm số mà khối lượng giao dịch cũng tăng mạnh. Tính đến hết ngày 30-
6, VN-Index đã tăng 132,67 điểm (42,03%), HNX-Index tăng 44,57 điểm
(42,66%) so với thời điểm kết thúc năm 2008
- Khủng hoảng kinh tế Mỹ và toàn cầu cũng gây khó khăn cho việc phát
hành trái phiếu và chứng khoán huy động vốn trên thị trường quốc tế vì chi phí
tăng cao và ít nhà đầu tư hơn do dòng vốn khan hiếm. Nếu chúng ta phát hành
để huy động với lãi suất quá cao thì đưa về đầu tư trong nước sẽ không hiệu
quả hoặc hiệu quả thấp sẽ dẫn đến khó có khả năng trả nợ khi đến hạn.
V. Giải pháp
Nước Mỹ đang gặp phải 3 vấn đề lớn về tài chính:
- Sự phát triển không kiểm soát của thị trường cho vay địa ốc dưới
chuẩn, có nghĩa là không cần đặt cọc, không cần đủ thu nhập để chi

trả mà vẫn được vay.
- Cho vay tiêu dùng qua thẻ tín dụng quá mức (City Group là nạn nhân
đầu tiên, lỗ 18 tỉ USD).
- Khủng hoảng tín dụng đã lan rộng đến cả khu vực đầu tư địa ốc văn
phòng, chứ không chỉ tập trung vào khu nhà ở.
Trước những vấn đề này, chính phủ Mỹ đã đưa ra 1 số biện pháp để nền kinh
tế thoát khỏi tình trạng khủng hoảng.
1. Chính phủ Mỹ:
-Nới lỏng chính sách tài khóa, với hàng loạt gói cứu trợ kinh tế giá
hàng trăm tỷ USD nhằm cứu nền kinh tế khỏi suy thoái.
-Ngay sau khi lên cầm quyền, tổng thống mỹ barack Obama đã được
quốc hội thông qua và ký thành luật gói kích thích kinh tế giá 787 tỷ usd. Mục
đích cứu vãn và tạo dựng 3,5 triệu công ăn việc làm, thúc đẩy tiêu thụ, kiến
thiết cơ sở hạ tầng. gói cứu trợ này sẽ chia 36% là giảm thuế, 64% là chi tiêu
và chương trình xã hội. viêc này hy vọng sẽ khơi thông dòng chảy tài chính
của liên bang vào các dự án cơ sở hạ tầng, y tế, phát triển năng lượng tái tạo
và bảo tồn thiên nhiên.
-17/3/2009, tổng thống đã quyết định chi 15 tỷ USD trong gói cứu trợ
787 tỷ USD để hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc tiếp cận vốn
vay và công nghệ sản xuất,tin rằng các doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng góp
70% mức tăng trưởng việc làm mới trong 10 năm qua sẽ đưa nên kinh tế Mỹ
thoát khỏi tình trạng suy thoái.
2.Cục dự trữ liên bang (Fed)
Là cơ quan trực tiếp quản lý, điều tiết hệ thống tài chính mỹ, bên cạnh
cắt giảm lãi suất chủ đạo, Fed còn liên tiếp đưa ra các biên pháp khác nhằm nới
lỏng chính sách tiền tệ, ổn định kinh tế vĩ mô, tránh cho hệ thống tài chính mỹ đổ
vỡ.
-Fed liên tục bơm thêm tiền vào hệ thống với nhiều biện pháp vay khẩn
cấp để đảm bảo thanh khoản của hệ thống ngân hàng, mở rộng danh mục giấy
tờ có giá được cầm cố để vay vốn tại Fed.

-Cho phép một số ngân hàng đầu tư được phép huy động vốn như
NHTM để giảm căng thẳng về vốn, nới lỏng các quy tắc giao dịch giữa các
ngân hàng và các nhà giao dịch môi giới.
-Thực hiện các cam kết hoán đổi tiền tệ với các NHTW các nước phát
triển để đảm bảo thanh khoản USD trên thị trường tiền tệ các nước.
-Fed thực hiện trả lãi tiền gửi dự trữ bắt buộc.
-Tập trung thu hẹp chênh lệch lợi tức giữa Trái phiếu kho bạc Mỹ và lãi
từ hoạt động mua lại các khoản nợ của doanh nghiệp và tiêu dùng do việc cắt
giảm lãi suất xuống gần bằng 0% đã không có tác dụng gì trong việc kích
thích tín dụng. Fed cũng có các biên pháp khác thông qua việc mua lại những
khoản nợ và trái phiếu mà các nhà đầu tư không muốn mua.
-Mua lại tài sản trong chương trình TARP (chương trình hỗ trợ các tài
sản xấu) trị giá 700 tỷ USD kết hợp bơm thêm vốn vào các ngân hàng, giúp các
chủ sở hữu nhà đất tránh nguy cơ bị tịch biên.
 Ngày 20-9 theo giờ địa phương, Văn phòng Nghiên cứu kinh tế quốc gia Mỹ
(tổ chức nghiên cứu kinh tế phi lợi nhuận) đã chính thức công bố: Kinh tế Mỹ
đã thoát khỏi khủng hoảng từ tháng 6-2009.
 Đây là cuộc khủng hoảng kéo dài nhất kể từ cuộc khủng hoảng những năm
1930, kéo dài 18 tháng từ tháng 12/2007 đến tháng 7/2009





×