Điện ảnh ( phần I )
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Anh em nhà Lumière, cha đẻ của nghệ thuật điện ảnh
Điện ảnh là một khái niệm lớn bao gồm các bộ phim tạo bởi những
khung hình chuyển động (phim); kỹ thuật ghi lại hình ảnh, âm thanh và
ánh sáng để tạo thành một bộ phim (kỹ thuật điện ảnh); hình thức nghệ
thuật liên quan đến việc tạo ra các bộ phim và cuối cùng ngành công
nghiệp và thương mại liên quan đến các công đoạn làm, quảng bá và phân
phối phim ảnh (công nghiệp điện ảnh).
Trong tiếng Việt, điện ảnh đôi khi còn được gọi là Xi-nê, xuất phát từ
"cinéma" (điện ảnh trong tiếng Pháp) vốn là từ rút gọn của
"cinématographe". "Cinématographe" (xuất phát từ tiếng Hy Lạp κίνημα
- kínēma có nghĩa là chuyển động, còn γράφειν - gráphein có nghĩa là ghi
lại) là cái tên được Léon Bouly đặt cho chiếc máy ghi lại hình ảnh của
ông trong đăng ký bằng sáng chế số 219 350 năm 1892, một trong những
mốc sự kiện khai sinh ra ngành điện ảnh.
Khi mới được phát minh, điện ảnh chỉ được coi là các bộ phim ghi lại
cảnh sinh hoạt đời thường, nhưng chỉ ít lâu sau, các bộ phim đã được tạo
ra với những ý đồ văn hóa nhất định và nhanh chóng trở thành một loại
hình nghệ thuật quan trọng. Điện ảnh cũng trở thành một hình thức giải
trí không thể thiếu trong đời sống thường nhật, đôi khi còn phát triển
thành những hiện tượng văn hóa hoặc được sử dụng như các phương tiện
tuyên truyền.
Xét trên phương diện nghệ thuật, điện ảnh thường được gọi là nghệ thuật
thứ bảy. Sáu nghệ thuật trước đó theo phân loại của Hegel là kiến trúc,
điêu khắc, hội họa, âm nhạc, múa và thi ca. Điện ảnh được dùng để nói
đến những bộ phim trình chiếu ở rạp, khác với những phim truyền hình.
Vì lý do đó, từ "màn bạc" hay "màn ảnh lớn" cũng được dùng để chỉ
điện ảnh (màn ảnh rạp chiếu phim có màu trắng), phân biệt với truyền
hình, được gọi là màn ảnh nhỏ.
Trong tiếng Việt, các phim điện ảnh được gọi là "phim nhựa", phân biệt
với phim video. Nhưng thực tế, phim nhựa không phải là chất liệu duy
nhất của điện ảnh. Có những phim dùng chất liệu video đã được làm lại
để trình chiếu ở rạp và ngược lại, một số phim truyền hình cũng sử dụng
chất liệu phim nhựa. Đặc biệt với sự phát triển của kỹ thuật số, có cả
những phim điện ảnh và phim truyền hình đều dùng công nghệ này.
Lịch sử
Bài chi tiết: Lịch sử điện ảnh
La Sortie de l'usine Lumière à Lyon, một trong những "bộ phim" đầu tiên
của lịch sử điện ảnh
Điện ảnh ra đời nhờ rất nhiều những tìm tòi và phát triển kĩ thuật vào nửa
cuối thế kỉ 19 tập trung vào việc ghi lại hình ảnh chuyển động, đó là
những phát minh của Louis Le Prince, Eadweard James Muybridge,
Étienne-Jules Marey hay Thomas Edison. Tuy vậy, các nhà sử học
thường coi ngày khai sinh ra nghệ thuật điện ảnh là ngày 28 tháng 12 năm
1895, khi buổi chiếu phim chuyển động và có thu tiền đầu tiên được anh
em Auguste và Louis Lumière tổ chức tại Salon Indien (Phòng Ấn Độ)
nằm dưới tầng hầm của quán cà phê Grand Café ở Paris, Pháp. Những
khách vào xem buổi chiếu này phải trả 1 franc để xem chừng 10 đoạn
phim ngắn dài 1 phút. Đoạn phim đầu tiên trong số này được Anh em
Lumière (lumière trong tiếng Pháp có nghĩa là ánh sáng) quay vào
khoảng tháng 8 năm 1894 tại tầng trệt căn hộ của họ ở đường Saint Victor
(Lyon), nay đã được đổi tên thành đường Premier Film (Bộ phim đầu
tiên). Được biết tới nhiều nhất trong buổi chiếu này là đoạn phim La
Sortie de l'usine Lumière à Lyon (Buổi tan ca của nhà máy Lumière ở
Lyon), được quay vào mùa hè năm 1895, ghi lại cảnh các công nhân rời
khỏi nhà máy của nhà Lumière ở Lyon. Do đây chỉ là những đoạn phim
ghi lại cảnh sinh hoạt thường ngày nên nó gần với các bộ phim tài liệu
hơn là phim điện ảnh.
Sự ra đời của "cinématographe" nhanh chóng được công chúng đón nhận
nhiệt tình. Ngay lập tức điện ảnh được thương mại hóa và công nghiệp
điện ảnh ra đời. Mặc dù từ ngày 11 tháng 1 năm 1888, Louis Le Prince đã
đăng ký bằng sáng chế về chiếc máy quay hoàn chỉnh có thể ghi lại
những hình ảnh chuyển động, nhưng trong cuộc chiến thương mại đầu
tiên liên quan đến điện ảnh, Thomas Edison mới là người chiến thắng và
hầu như việc sản xuất máy quay đều nằm dưới nhãn hiệu Trust Edison
cho đến tận năm 1918.
Không chỉ dừng lại ở việc ghi lại chính xác các hình ảnh thực tế, các nhà
làm phim bắt đầu tạo ra các kĩ xảo điện ảnh cho các bộ phim của mình,
một trong những kĩ xảo đáng nhớ nhất là hình ảnh Mặt Trăng có khuôn
mặt người trong bộ phim Le Voyage dans la lune (Cuộc du hành lên Mặt
Trăng) do Georges Méliès thực hiện năm 1902.
Một cảnh dẫn trong The Birth of a Nation của D.W. Griffith
Vào thập niên 1910, đạo diễn Hoa Kỳ D.W.Griffith đã đưa điện ảnh tiến
thêm một bước mới khi chuẩn hóa các thuật ngữ điện ảnh và các công
đoạn làm phim cũng như cho ra đời bộ phim mang tính cách mạng về kỹ
thuật dàn dựng và kịch bản The Birth of a Nation.
Những năm 1920 là giai đoạn hoạt động tích cực của các nhà điện ảnh
thuộc trường phái Tiên phong (avant-garde), những người khai sinh ra
điện ảnh thể nghiệm (cinéma expérimental) như Fernand Léger, Man
Ray, Germaine Dulac, Walter Ruttmann và nhiều người khác. Cho đến
cuối thập niên 1920, kỹ thuật thu âm đồng bộ chưa ra đời, vì vậy các bộ
phim công chiếu đều không có âm thanh mà phải sử dụng các nghệ sĩ tạo
âm thanh và tiếng động ngay tại nơi công chiếu. Những bộ phim như vậy
được gọi là phim câm, để dẫn dắt câu chuyện hoặc miêu tả các đoạn hội
thoại người ta phải sử dụng các bảng chữ (tiếng Anh: intertitle) xen vào
giữa các cảnh phim. Để hiện thực hóa việc đồng bộ âm thanh và hình ảnh
cho các bộ phim, người ta đã cố gắng áp dụng các kĩ thuật khác nhau, và
bộ phim hoàn chỉnh "có tiếng" đầu tiên đã ra đời năm 1927, đó là bộ
phim The Jazz Singer.
Thập niên 1930 được đánh dấu bằng các bộ phim tuyên truyền của Đức
Quốc xã trong đó phải kể tới Olympia (phim 1938) được đạo diễn Leni
Riefenstahl thực hiện để quảng bá cho Thế vận hội mùa hè 1936 tổ chức
tại Berlin cũng như tuyên truyền hình ảnh của một nước Đức hùng mạnh.
Bộ phim này đã mang đến những bước đột phá mới cho nghệ thuật điện
ảnh như các góc quay lạ, quay cận cảnh và dựng phim. Cũng chính Leni
Riefenstahl vào năm 1936 đã thực hiện bộ phim nổi tiếng Triumph des
Willens, một tác phẩm nhằm gây dựng hình ảnh cho Adolf Hitler và các
lãnh đạo Đức Quốc xã, Triumph des Willens được coi là bộ phim tuyên
truyền xuất sắc nhất trong lịch sử điện ảnh.
Sau âm thanh, bước tiến lớn thứ hai về kỹ thuật điện ảnh là các bộ phim
màu. Những bộ phim màu đầu tiên xuất hiện từ sau Thế chiến thứ hai
nhưng phải đợi đến thập niên 1950 các bộ phim màu mới bắt đầu phổ
biến khi điện ảnh phải cạnh tranh với một phương tiện giải trí khác đang
phát triển rất mạnh là truyền hình (vốn vẫn chỉ có hình ảnh đen trắng cho
đến giữa thập niên 1960). Sau chiến tranh cũng là giai đoạn phát triển của
nghệ thuật điện ảnh hiện đại với rất nhiều trào lưu điện ảnh khác nhau
như chủ nghĩa Hiện thực mới (neorealism) của điện ảnh Ý với các đại
diện tiêu biểu là Roberto Rossellini, Vittorio De Sica, trào lưu Làn sóng
mới (Nouvelle Vague) của điện ảnh Pháp với François Truffaut, Jean-Luc
Godard, cũng phải kể đến thế hệ đạo diễn mới của Hollywood, thế hệ
New Hollywood với các đạo diễn nổi tiếng như John Cassavetes.
Năm 1965, với sự ra đời của loại máy quay phổ thông super 8 do hãng
Kodak sản xuất, nền điện ảnh của các nghệ sĩ nghiệp dư ra đời. Những bộ
phim được thực hiện nghiệp dư này được gọi là các bộ phim loại Z (Z
movie, bắt nguồn từ tên gọi các bộ phim loại B - B movie kinh phí thấp
của Hollywood), phim loại Z cũng được các đạo diễn nổi tiếng sử dụng
như một cách thể hiện tư tưởng nghệ thuật của mình, trong số các đạo
diễn đó có những người là trụ cột của điện ảnh Mỹ như Ed Wood hay
Roger Corman (người đã phát hiện và đưa Francis Ford Coppola, Martin
Scorsese hay Peter Jackson trở thành các đạo diễn nổi tiếng).
Bước tiến mới nhất của điện ảnh vào cuối thế kỉ 20 là sự áp dụng kỹ thuật
số vào điện ảnh, từ việc sử dụng các máy quay kỹ thuật số đến việc dàn
dựng các kỹ xảo điện ảnh và âm thanh trên máy tính.
Phân loại phim
Xem thêm: Phim
Có rất nhiều cơ sở để phân loại phim, đơn giản như phân loại theo quốc
gia sản xuất, theo đạo diễn, theo diễn viên, tiêu đề, Nhưng thông thường
người ta phân loại theo thể loại phim, dòng phim, độ dài và kỹ thuật thực
hiện.
Quốc gia sản xuất
Điện ảnh thế giới thường được phân thành 6 khu vực là:
o Điện ảnh châu Á
o Điện ảnh châu Âu
o Điện ảnh châu Phi
o Điện ảnh Úc
o Điện ảnh Bắc Mỹ
o Điện ảnh Mỹ Latinh
Người ta cũng có thể phân khu vực theo ngôn ngữ sử dụng như
tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha hoặc tiếng Hoa. Một cách phân loại
khác cũng thường được sử dụng là theo các nền điện ảnh có số
lượng phim lớn như Hollywood (của Hoa Kỳ), Bollywood (của Ấn
Độ) hay điện ảnh Hồng Kông.