Triết học ( phần III )
Truyền thống triết học phân tích
Triết học phân tích được phát triển để chỉ trích Hegel và những theo triết
lý của ông. Vào năm 1921, Ludwig Wittgenstein xuất bản cuốn sách
Tractatus Logico-Philosophicus, đưa ra một hệ thống logic vững chắc về
các vấn đề của ngôn ngữ và triết học. Vào thời gian đó, ông đã hiểu rằng
đa số các vấn đề của triết học chỉ là những bài toán đố của ngôn ngữ, mà
có thể giải thích được dễ dàng bởi các suy nghĩ rõ ràng. Nhiều năm sau
đó ông đã đảo ngược lại nhiều lập trường của ông được đưa ra trong cuốn
Tractatus, như là được viết ra trong cuốn sách thứ hai của ông
Philosophical Investigations (1953) (Khảo sát về triết học). Investigations
đã khuyến khích sự phát triển của "triết học ngôn ngữ bình dân", được
phát triển bởi Gilbert Ryle, J. L. Austin, và một số người khác. Những
người theo "triết học bình dân" có cùng cách nhìn với nhiều triết gia xưa
hơn (Jeremy Bentham, Ralph Waldo Emerson và John Stuart Mill), và
chính những nghiên cứu triết lý đó đã định hình triết học tiếng Anh trong
nửa sau của thế kỉ 20. Tuy nhiên, sự rõ ràng của ý nghĩa được hiểu là có
tầm quan trọng cao nhất.
Triết học phương Tây
Bài chi tiết: Triết học phương Tây
Truyền thống triết học phương Tây bắt đầu từ những người Hy Lạp và
tiếp tục cho đến ngày nay. Các nhà triết học phương Tây chính yếu gồm
có Socrates, Plato, Aristotle, Epicurus, Sextus Empiricus, Augustine xứ
Hippo, Boethius, Anselm xứ Canterbury, William xứ Ockham, John Duns
Scotus, Thomas Aquinas, Michel de Montaigne, Francis Bacon, René
Descartes, Baruch Spinoza, Gottfried Leibniz, George Berkeley, John
Locke, David Hume, Thomas Reid, Jean-Jacques Rousseau, Immanuel
Kant, Georg Wilhelm Friedrich Hegel, Arthur Schopenhauer, Søren
Kierkegaard, Friedrich Nietzsche, Karl Marx, Gottlob Frege, Henri
Bergson, Edmund Husserl, Bertrand Russell, Ludwig Wittgenstein,
Martin Heidegger, Jean-Paul Sartre và Willard van Orman Quine.
Các nhà triết học phương Tây đương thời có ảnh hưởng lớn khác gồm có
Donald Davidson (đã qua đời), Daniel Dennett, Jerry Fodor, Jurgen
Habermas, Saul Kripke, Thomas Kuhn, Thomas Nagel, Richard Rorty,
Hilary Putnam, John Rawls (đã qua đời), John Searle và Subhash Kak.
Triết học phương Tây đôi khi được phân chia thành nhiều nhánh khác
nhau, dựa theo các loại câu hỏi được quan tâm. Các thể loại thường thấy
nhất là: siêu hình học, nhận thức luận, luân lý học, và mỹ học. Một số
phân nhánh khác gồm logic, triết học tâm thức, triết học ngôn ngữ, triết
học chính trị.
Triết học Hy Lạp - La Mã
Bài chi tiết: Triết học Hy Lạp và Triết học La Mã
Socrates
Có thể phân chia triết học Hy Lạp cổ đại thành thời kỳ tiền Socrates, thời
kỳ Socrates và thời kỳ hậu Aristotle. Thời kỳ tiền Socrates có đặc trưng là
các suy đoán siêu hình học, thường dưới hình thức của các mệnh đề tổng
quát có ý nghĩa bao hàm lớn, chẳng hạn "Tất cả đều là lửa", hay "Tất cả
đều biến đổi". Các triết gia tiền Socrates quan trọng gồm có Thales,
Anaximander, Anaximenes, Democritus, Parmenides và Heraclitus. Thời
kỳ Socrates được đặt tên để vinh danh nhân vật nổi bật nhất của triết học
phương Tây, Socrates, người đã cùng với Plato, học trò của mình, cách
mạng hóa triết học qua việc sử dụng phương pháp Socrates, nhờ đó đã
phát triển những phương pháp rất tổng quát cho việc định nghĩa, phân
tích và tổng hợp. Tuy bản thân Socrates không viết gì, nhưng ảnh hưởng
của ông đã được truyền bá qua các tác phẩm của Plato. Các tác phẩm của
Plato thường được xem là các tài liệu cơ bản của triết học, vì chúng đã
định nghĩa các vấn đề nền tảng của triết học cho các thế hệ sau. Các vấn
đề này và các vấn đề khác đã được Aristotle tiếp thụ, ông là người đã học
tại Hàn lâm viện (trường của Plato), ông thường bất đồng quan điểm với
những gì Plato đã viết. Thời kỳ hậu Aristotle đã mở đầu bởi những triết
gia như Euclid, Epicurus, Chrysippus, triết gia Yếm thế Hipparchia,
Pyrrho và Sextus Empiricus.
Triết học thời Trung cổ
St. Thomas Aquinas
Thời kỳ trung cổ của triết học bắt đầu từ sự xụp đổ của văn minh La Mã
và bình minh của Ki-tô giáo, Hồi giáo và Do Thái giáo. Thời kỳ trung cổ
mang đến triết học kinh viện Ki-tô giáo, với các tác giả như Augustine xứ
Hippo, Boethius, Anselm, Robert Grosseteste, Albertus Magnus, Roger
Bacon, Thánh Bonaventure, Thomas Aquinas, John Duns Scotus,
William xứ Ockham, Nicholas xứ Cusa và Francisco Suárez. Một nữ triết
gia Ki-tô giáo của thời kỳ này là một học trò của Pierre Abélard với tên
Héloïse. Các triết gia trong truyền thống kinh viện Ki-tô giáo và các triết
gia trong các tôn giáo Abraham chính khác (chẳng hạn các triết gia Do
Thái Saadia Gaon và Maimonides, và các triết gia Hồi giáo Avicenna, Al-
Ghazali và Averroes) đã có biết đến các công trình của nhau. Các truyền
thống tôn giáo này quan tâm đến các câu hỏi về quan hệ giữa con người
và Chúa trời. Triết học của thời kỳ này có đặc điểm là sự phân tích về bản
chất và các tính chất của Chúa trời; ngành siêu hình học quan tâm đến
chất, tính cốt yếu và tình cờ (nghĩa là, các phẩm chất có tính "cốt yếu" với
các chất sở hữu chúng hay các chất này chỉ "tình cờ" có các phẩm chất
đó), hình thức và khả năng phân chia; ngoài ra còn có lôgic và triết học
ngôn ngữ.
Nhiều người trong số các triết gia này đã lấy xuất phát điểm của mình là
các lý thuyết của Plato hay Aristotle. Tuy nhiên, những người khác,
chẳng hạn Tertullian, lại phủ nhận triết học Hy Lạp vì cho rằng nó không
đội trời chung với mặc khải và đức tin.
Triết học phương Tây hiện đại
Bài chi tiết: Triết học phương Tây hiện đại
René Descartes
Triết học hiện đại thường được xem là được khởi đầu từ nghiên cứu của
René Descartes. Nghiên cứu của ông đã chịu ảnh hưởng lớn từ các trao
đổi của ông với các nhà triết học khác. Ví dụ, sự thúc giục của Pierre
Gassendi và Công chúa Elizabeth xứ Bohemia đã làm Descartes cố gắng
thiết lập các câu trả lời có sức thuyết phục hơn cho vấn đề tâm-thân
(mind-body problem)
[15]
.
Triết học thời Trung cổ đã quan tâm chủ yếu tới các luận cứ từ giai cấp
thống trị, và việc phân tích các kinh sách cổ bằng lôgic của Aristotle.
Thời Phục hưng đã thấy một dòng chảy các quan niệm mới, các quan
niệm này đòi hỏi xem xét lại quyền lực. Roger Bacon (1214–1294?) là
một trong các tác giả đầu tiên kêu gọi việc đưa các quyền lực hiện tại ra
xem xét bằng thực nghiệm và lý tính. Niccolò Machiavelli (1469–1527)
đã thách thức các quan niệm truyền thống về đạo đức. Francis Bacon
(1561–1626) đã viết các nội dung ủng hộ các phương pháp khoa học
trong phát kiến triết học.
Triết học phân tích và triết học lục
địa
Bài chi tiết: Triết học phân tích
và triết học lục địa
Trong giai đoạn hiện đại của triết học,
bắt đầu vào cuối thế kỉ 19 và kéo dài
đến những năm 1950, đã được đánh
dấu bởi hố sâu ngăn cách giữa truyền
thống "Lục địa" và truyền thống phân
tích có liên quan đến nhiều nước nói tiếng Anh.
Những thứ nằm bên dưới truyền thống phân tích, đặc biệt là giai đoạn ban
đầu của truyền thống này, là quan điểm (nguyên là được bảo vệ bởi
Ockham) rằng các lỗi lầm trong triết học là phát sinh từ những hiểu lầm
trong ngôn ngữ. Theo một số triết gia phân tích, ý nghĩa thật sự của các
câu bình thường được "ẩn bởi dạng ngữ pháp của chúng", và chúng ta
phải dịch các câu đó sang dạng thật sự của chúng (hiểu như là dạng logic
của chúng) để làm rõ nghĩa. Điều khó khăn là, tới bây giờ vẫn chưa giải
quyết được, là định ra dạng logic đúng đắn của một câu là như thế nào.
Một số triết gia (bắt đầu với Frege và Bertrand Russell) đã lý luận rằng
first-order logic cho chúng ta thấy dạng logic thật sự của các câu nói bình
thường. Các triết gia phân tích khác, như Wittgenstein quá cố, đã từ chối
ý tưởng của dạng logic; và vấn đề dạng logic này chiếm phần lớn trong
giai đoạn đầu của triết học phân tích. Những tranh luận về dạng logic
không còn là vấn đề trung tâm của triết học phân tích như là nó đã từng,
và triết học phân tích bây giờ có xu hướng nghiên cứu về đủ loại vấn đề
trong triết học với tất cả các phương pháp triết học hiện có. Ngày này các
vấn đề quan trọng của triết lý phân tích nằm trong phong cách viết và lý
luận (nghĩa là mục đích của nó là rõ ràng và chắc chắn) hơn là các vấn đề
về chủ đề hay tưởng. Việc nhấn mạnh trên sự phân tích ngôn ngữ một
cách cẩn thận để làm lộ ra những lồi lầm về triết lý vẫn còn; nhưng “phân
tích” trong cái tên “triết học phân tích” bây giờ chỉ như là chỉ đến việc
phân tích các ý tưởng, các lý luận, các hình thức xã hội, và các giả sử.
Triết học lục địa được xem là gần hơn với phong trào hiện tượng học mở
đầu bởi Edmund Husserl và nhiều nhiều phản ứng khác nhau để cải tiến
lại các tác phẩm của Husserl. Hiện tượng học chủ yếu là một phương
pháp nghiên cứu. Như là được cảm nhận bởi Husserl, nghiên cứu hiện
tượng là nghiên cứu nội dung của kinh nghiệm nhận thức trong khi cô lập
tất cả các giả sử chúng ta thường đư ra liên quan đến sự tồn tại của các
chủ thể đó trong thế giới. Ông tin rằng chúng ta có thể đi đến một kiến
thức nào đó bằng cách suy diễn ra các đặc điểm cần thiết của kinh nghiệm
nhận thức. Có lẽ đặc điểm quan trọng nhất suy ra bởi Husserl được gọi sự
có chủ tâm (intentionality), chỉ đến đặc tính của nhận thức khi luôn được
hướng về đối tượng nào đó. Phương pháp hiện tượng học là một cách
quan trọng khác mà theo đó triết học phân tích thường theo đuổi. Thay vì
lấy vào thông tin về ngôn ngữ như là điểm bắt đầu và phân tích ngôn ngữ
như là phương pháp chính của triết học, hiện tượng học lấy trải nghiệm
nhận thức làm điểm bắt đầu và phân tích chi tiết của những trải nghiệm
đó - đó là, "phân tích hiện tượng" - như là phương pháp của nó. Một vài
nhân vật quan trọng trong truyền thống triết học phân tích như là Wilfrid
Sellars và Hector-Neri Castaneda đã lý luận rằng phân tích ngôn ngữ thật
ra là một dạng nghiên cứu hiện tượng bởi vì nó sử dụng trải nghiệm của
chúng ta như là những người dùng ngôn ngữ để trả lời các câu hỏi triết
học. Thực vậy, họ đã lý luận rằng triết học phân tích chỉ là một dạng của
hiện tượng học, và hiệu quả là triết học phân tích có thể bỏ qua truyền
thống bắt đầu với hiện tượng học chỉ làm tổn hại chính nó mà thôi.