TRIẾT HỌC (Phần II)
TIỂU BAN TRIẾT HỌC
1
Chương 5
CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG –
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA THẾ GIỚI QUAN KHOA HỌC
I. THẾ GIỚI QUAN VÀ CÁC HÌNH THỨC CỦA THẾ GIỚI QUAN DUY
VẬT
1. Thế giới quan và các hình thức cơ bản của nó
a) Thế giới quan
Định nghĩa: Thế giới quan là toàn bộ các quan niệm, quan điểm của
con người về thế giới, về bản thân con người, về cuộc sống và vị trí của con
người trong thế giới ấy.
Kết cấu: Thế giới quan bao gồm các quan niệm, quan điểm của con
người về thế giới, về bản thân con người, về cuộc sống và vị trí của con
người trong thế giới ấy. Lúc mới hình thành, chúng còn hỗn độn; nhưng do
nhận thức càng ngày càng sâu sắc, càng phản ánh tính thống nhất của thế
giới mà chúng càng thể hiện như một hệ thống ràng buộc, quy định lẫn nhau.
Các quan niệm, quan điểm của thế giới quan bao giờ cũng hòa quyện trong
mình tri thức với niềm tin, lý trí với tình cảm, sự thật với những điều hoang
đường… và trãi rộng trên khắp các lĩnh vực (kinh tế, chính trị, đạo đức, nghệ
thuật,…), trên khắp các cấp độ họat động nhận thức (cảm tính lý tính, kinh
nghiệm – lý luận, đời thường và khoa học,…) của con người
1
.
- Trong thế giới quan, nhờ niềm tin mà tri thức của con người trở nên
sâu sắc, bền vững; nhờ tình cảm mà lý trí của con người có chiều sâu và sức
mạnh chỉ đạo, hướng dẫn trực tiếp hành vi của con người trong cuộc sống…
- Sự hòa quyện của tri thức với niềm tin, lý trí với tình cảm,… làm cho
thế giới quan con người trở thành một khối tinh thần thống nhất, khá ổn
định, giúp con người vượt qua những phức tạp, vượt lên những bất ổn của
đời sống xã hội, những hụt hẫng hoài nghi trong cuộc sống đời thường. Sự
hòa quyện đó tạo thành cơ sở cho mọi niềm tin, hiểu biết, khát vọng và hành
động của con người.
1
R.Đềcáctơ ví thế giới quan như một cây đại thụ mà gốc rễ của nó là siêu hình học; thân của
nó là vật lý học; còn cành, nhánh của nó là các ngành khoa học còn lại như toán học, sinh học,
đạo đức học, chính trị học, v.v
2
Chức năng: Thế giới quan vừa là lăng kính để qua đó, con người nhìn
nhận, suy tư, chiêm nghiệm về thế giới; vừa là cẩm nang hướng dẫn cuộc
sống cho con người. Thế giới quan có nhiều chức năng (giáo dục, thẫm mỹ,
đạo đức,…) nhưng chức năng chính của nó là định hướng họat động nhận
thức và thực tiễn cho con người trong thế giới mà họ đang sống.
Phân loại
- Dựa trên chủ thể, thế giới quan được chia thành thế giới quan cá nhân
và thế giới quan cộng đồng (giai cấp,…).
- Dựa trên nội dung, thế giới quan được chia thành thế giới quan thần
thoại, thế giới quan tôn giáo, thế giới quan triết học và thế giới quan khoa
học.
b) Các hình thức cơ bản của thế giới quan
Thế giới quan thần thoại
- Thế giới quan thần thoại là thế giới quan chứa đầy những hình tượng
cảm tính hoang đường hoà quyện vào lý trí ngây thơ của con người nguyên
thuỷ mông mụi về thế giới muôn loài xung quanh. Dù phản ánh xuyên tạc
hiện thực nhưng nó lại xuất phát từ hiện thực cuộc sống của các cộng đồng
người nguyên thủy mông mụi cố giải thích cuộc sống xung quanh, cố truy
tìm cội nguồn của cộng đồng mình trong những tưởng tượng viễn vông.
- Đặc điểm chung của mọi thế giới quan thần thoại là cố giải thích “các
lực lượng của tự nhiên trong tưởng tượng và nhờ trí tưởng tượng”
1
; mọi thế
giới quan thần thoại “đều truy tìm nguồn gốc thị tộc – những thị tộc đã có
trước thần thoại, và thần thoại là do chính bản thân thị tộc sáng tạo ra với
những vị thần và bán thần; cũng chỉ đều là cái thực tế đã qua phản ánh hoang
tưởng vào những câu chuyện của con người nguyên thuỷ”
2
.
- Thế giới quan thần thoại thể hiện qua các truyền thuyết, các huyền
thoại hoang đường (câu chuyện thần thoại).
Thế giới quan tôn giáo
- Thế giới quan tôn giáo là thế giới quan dựa trên niềm tin mãnh liệt vào
sức mạnh của các lực lượng siêu nhiên, thần thánh (những lực lượng tinh
thần, vô hình chi phối giới tự nhiên và đời sống trần tục của con người) để
giải thích mọi hiện tượng xảy ra trong thế giới tự nhiên, trần tục; và quy định
hành vi, thái độ của con người đối với các lực lượng siêu nhiên, thần thánh
đó.
1
C.Mác và Ph.Angghen: Toàn tập, T.12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, tr.890.
2
C.Mác và Ph.Angghen: Toàn tập, T.21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.154-156.
3
- Thế giới quan tôn giáo thể hiện trong các giáo lý (giáo lý là hạt nhân lý
luận của thế giới quan tôn giáo) và các nghi thức, tín ngưỡng (những hình
thức sùng bái lực lượng siêu nhiên, thần thánh của con người ngoan đạo).
- Với niềm tin cao hơn lý trí, tín điều quan trọng hơn sự thật, thế giới
quan tôn giáo vừa phản ánh sự nghèo nàn của hiện thực vừa phản kháng
chống lại sự nghèo nàn ấy; nó hướng con người đến thế giới hoàn thiện,
hoàn mỹ sau khi chết. Nó là nhu cầu tinh thần của một bộ phận đông đảo
quần chúng nhân dân có cuộc sống vật chất nghèo nàn và đời sống tinh thần
tăm tối.
+ “Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo – vào trong
đầu óc của con người – những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống
hằng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã
mang hình thức những lực lượng siêu trần thế”
1
.
+ “Sự bất lực của giai cấp bị bóc lột trong cuộc đấu tranh chống bọn bóc
lột tất nhiên đẻ ra lòng tin vào một cuộc đời tốt đẹp ở thế giới bên kia, cũng
giống như sự bất lực của con người dã man trong cuộc đấu tranh chống thiên
nhiên đã đẻ ra lòng tin vào thần thánh, ma quỷ, vào những phép mầu, v.v.”
2
.
Thế giới quan triết học
- Thế giới quan triết học là một hệ thống quan điểm, quan niệm của con
người về thế giới, về bản thân, cuộc sống và vị trí của con người trong thế
giới ấy. Thế giới quan triết học xuất hiện khi nhận thức của con người đạt
được trình độ cao (khi tư duy lý luận trừu tượng, khái quát ra đời) và xã hội
có nhu cầu chỉ đạo cuộc sống bằng tư tưởng.
- Thế giới quan triết học được thể hiện qua một hệ thống các phạm trù
(hệ thống lý luận triết học). Triết học đồng nhất với thế giới quan triết học;
chúng là hạt nhân lý luận của thế giới quan con người. Thế giới quan triết
học bao gồm thế giới quan duy vật và thế giới quan duy tâm.
+ Thế giới quan duy vật cho rằng, bản chất của thế giới là vật chất; đời
sống vật chất quyết định đời sống tinh thần; con người quyết định số phận
của mình trong cuộc sống hiện thực… Thế giới quan duy vật có các hình
thức lịch sử là: thế giới quan duy vật chất phác, thế giới quan duy vật siêu
hình, thế giới quan duy vật biện chứng.
+ Thế giới quan duy tâm cho rằng, bản chất của thế giới là cái tinh thần;
các yếu tố tinh thần quyết định đời sống vật chất; các lực lượng tinh thần chi
phối cuộc sống con người trong hiện thực. Thế giới quan duy tâm có các
1
C.Mác và Ph.Angghen: Toàn tập, T.20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.437.
2
V.I.Lênin: Toàn tập, T.20, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1979, tr.169-170.
4
hình thức lịch sử là: thế giới quan duy tâm thô sơ, thế giới quan duy tâm -
tôn giáo, thế giới quan duy tâm văn minh (triết học).
- Khi phân biệt thế giới quan triết học với thế giới quan khác, C.Mác
viết: “… các vị hướng về tình cảm, triết học hướng về lý trí; các vị nguyền
rủa, than vãn, triết học dạy bảo; các vị hứa hẹn thiên đường và toàn bộ thế
giới, triết học không hứa hẹn gì cả ngoài chân lý; các vị đòi hỏi tin tưởng tín
ngưỡng của các vị, triết học không đòi hỏi tin tưởng vào các kết luận của nó,
nó đòi hỏi kiểm nghiệm những điều hoài nghi; các vị dọa dẫm, triết học an
ủi. Và, thật thế, triết học biết cuộc sống khá đầy đủ để hiểu rằng những kết
luận của nó không bao giờ bao dung sự khao khát hưởng lạc và lòng vị kỷ –
của cả thiên giới lẫn thế giới trần tục”
1
.
Thế giới quan khoa học
- Thế giới quan khoa học là một hệ thống tri thức được tổng kết từ các
kết quả của mọi quá trình nghiên cứu (như nghiên cứu thực nghiệm, nghiên
cứu lý thuyết) và dự báo của các ngành khoa học. Thế giới quan khoa học
luôn được bổ sung và hoàn thiện theo sự tăng trưởng tri thức của con người,
theo sự phát triển của các ngành khoa học, đặc biệt là các ngành khoa học tự
nhiên.
- So với các hình thức thế giới quan khác thì thế giới quan khoa học xuất
hiện khá muộn, khi các ngành khoa học (tự nhiên và xã hội,…) vươn lên, tự
tách mình ra khỏi triết học, tự khẳng định sự tồn tại tương đối độc lập của
mình; đồng thời trong xã hội xuất hiện nhu cầu cần có tri thức cụ thể để chỉ
đạo, hướng dẫn các lĩnh vực đời sống cụ thể.
- Thế giới quan khoa học có vai trò to lớn trong việc chỉ đạo hoạt động
nhận thức khoa học (nghiên cứu – khám phá thế giới) và hoạt động thực tiễn
cách mạng (cải tạo thế giới) của con người. Cũng như thế giới quan nói
chung, thế giới quan khoa học lúc ban đầu cũng không tránh khỏi tính rời rạt
(khi khoa học còn mang nặng tính kinh nghiệm hay chịu ảnh hưởng sâu đậm
bởi phương pháp siêu hình), dần dần sau đó nó mang tính hệ thống cao (khi
khoa học chuyển sang giai đoạn nghiên cứu lý thuyết và chịu ảnh hưởng trực
tiếp bởi những ý tưởng triết học). Khi dựa trên những quan điểm duy vật
(đặc biệt là quan điểm duy vật biện chứng) để tổng kết, khái quát tất cả các
thành tựu kinh nghiệm và thành tựu lý thuyết của mình, thế giới quan khoa
học sẽ góp phần xây dựng một mô hình tư tưởng về thế giới như một chỉnh
thể thống nhất, tức làm xuất hiện bức tranh khoa học về thế giới
2
.
1
C.Mác và Ph.Angghen: Toàn tập, T.1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.159.
2
Bức tranh khoa học về thế giới là một mô hình tư tưởng về thế giới; trong đó, cấu trúc, tính
chất và quy luật vận động, phát triển của thế giới được thể hiện như một chỉnh thể thống nhất.
5
- Thế giới quan khoa học không chỉ được hình thành và phát triển dựa
trên cơ sở bức tranh khoa học về thế giới mà còn dựa trên các nền tảng tư
tưởng của triết học duy vật, đặc biệt là triết học duy vật biện chứng. Triết
học duy vật biện chứng là hạt nhân của thế giới quan khoa học, là cơ sở để
tổng kết tri thức các ngành khoa học xây dựng nên bức tranh khoa học về thế
giới. Sau một quá trình phát triển mạnh mẽ, bức tranh khoa học về thế giới
lại rơi vào tình trạng khó khăn, khủng hoảng và sau đó là sụp đổ để đưa đến
sự hình thành một bức tranh khoa học mới về thế giới, có tính bao quát và
tinh xác hơn. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là sự sụp đổ của triết học
duy vật biện chứng, mà đó chỉ là sụp đổ của những khái quát của một giai
đoạn nhận thức khoa học, tức sự sụp đổ của một giới hạn nhất định trong
tiến trình nhận thức vô tận của con người mà các ngành khoa học phải đi
qua, để thông qua đó mà khoa học phản ánh thế giới ngày càng tinh xác
thêm, những khái niệm khoa học ngày càng bao quát và sâu sắc thêm. Tức
sự phát triển của nó tuân theo các quy luật của phép biện chứng.
2. Các hình thức lịch sử của thế giới quan duy vật
a) Thế giới quan duy vật chất phác
Thực chất: Thế giới quan duy vật chất phác là một hệ thống các quan
điểm, quan niệm ngây thơ về thế giới và con người. Các quan điểm, quan
niệm của thế giới quan này đều xuất phát từ luận điểm cơ bản cho rằng, căn
nguyên của vạn vật là một (hay vài) dạng vật chất cụ thể cảm tính nào đó mà
sự biến đổi theo lẽ tự nhiên của nó làm cho vạn vật trong thế giới (bao gồm
cả con người và đời sống tinh thần của họ) được sinh thành hay bị hủy diệt.
Thế giới quan duy vật chất phác xuất hiện vào thời cổ đại, khi mà hoạt động
thực tiễn của con người còn quá thấp, khi mà nhận thức của con người còn
quá ngây thơ, đơn giản, chủ yếu dựa trên những kinh nghiệm đời thường.
Thế giới quan duy vật chất phác được thể hiện trong tư tưởng của trường
phái triết học duy vật như: trường phái âm dương - ngũ hành; trường phái
Milê; trường phái Lôkayata; trường phái nguyên tử; … Nó thường là thế giới
quan của một bộ phận giai cấp chủ nô hay tầng lớp quý tộc tiến bộ thống trị
trong xã hội.
Thành tựu và hạn chế
- Thế giới quan duy vật chất phác không dựa vào cái siêu nhiên hay lòng
tin, đức tin tôn giáo mà dựa vào cái tự nhiên, dựa vào lý trí hay lẽ phải đời
thường của chính con người để lý giải thế giới và đời sống của họ. Thế giới
Bức tranh khoa học về thế giới được xây dựng nhờ vào quá trình tích hợp tri thức của các
ngành khoa học tự nhiên, các ngành khoa học xã hội và nhân văn, các ngành khoa học về con
người…, dựa trên các cơ sở lý luận của triết học duy vật mà ngày nay là triết học duy vật biện
chứng.
6
quan duy vật chất phác đã đặt ra những vấn đề mà triết học và khoa học đời
sau phải giải đáp; do vậy, nó đã thúc đẩy hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn của con người phát triển, nó góp phần củng cố sức mạnh tinh thần
cho các lực lượng chính trị tiến bộ trong xã hội…
- Thế giới quan duy vật chất phác thường đồng nhất vật chất với vật thể
cụ thể; do đó, nó thường mang tính trực quan, tính phỏng đoán, thiếu chứng
cứ khoa học. Thế giới quan duy vật chất phác không triệt để, vì nó không lý
giải được bản tính của các hiện tượng tinh thần cũng như mối quan hệ giữa
cái tinh thần và cái vật chất; nó mới chỉ giải thích thế giới chứ chưa thật sự
góp phần cải tạo thế giới.
b) Thế giới quan duy vật siêu hình
Thực chất: Thế giới quan duy vật siêu hình là một hệ thống các quan
điểm, quan niệm khá chặt chẽ về thế giới và con người. Các quan điểm, quan
niệm của thế giới quan này đều xuất phát từ luận điểm cơ bản cho rằng, cơ
sở của vạn vật là các phần tử vật chất gián đoạn hay một môi trường vật chất
liên tục nào đó; mà sự vận động, biến đổi của nó theo các quy luật cơ học (tự
nhiên) làm cho vạn vật trong thế giới (bao gồm cả con người và đời sống
tinh thần của họ) được sinh thành hay bị hủy diệt. Thế giới quan duy vật siêu
hình biểu hiện rõ nét nhất vào thế kỷ XVII - XVIII ở Tây Au, khi quan điểm
cơ học và phương pháp phân tích mang lại rất nhiều kết quả đáng khích lệ.
Nó là kết quả của việc đề cao quan điểm cơ học và phương pháp phân tích…
khi mà khoa học tự nhiên (trừ cơ học) còn quá thô sơ, chủ yếu dựa trên
những quan sát, kinh nghiệm trực tiếp. Thế giới quan duy vật siêu hình được
thể hiện trong tư tưởng của trường phái triết học duy vật như: trường phái
duy vật kinh nghiệm Anh, chủ nghĩa duy vật chiến đấu Pháp, … Sự hình
thành và phát triển của thế giới quan duy vật siêu hình gắn liền với quá trình
xây dựng và củng cố phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, nó chính là thế
giới quan của giai cấp tư sản tiến bộ đang vươn lên thống trị mọi mặt đời
sống xã hội phương Tây.
Thành tựu và hạn chế
- Thế giới quan duy vật siêu hình có ảnh hưởng đến tiến bộ của các
ngành khoa học tự nhiên. Nó không chỉ giúp đào sâu, mở rộng nhiều hiểu
biết về từng lĩnh vực của giới tự nhiên mà còn góp phần đấu tranh chống lại
thế giới quan duy tâm – tôn giáo vốn thống trị trên cả ngàn năm ở phương
Tây. Nó là sức mạnh tinh thần giúp củng cố và thúc đẩy sự phát triển mạnh
mẽ và vững chắc của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, đưa giai cấp tư
sản lên vũ đài chính trị nắm lấy vai trò lãnh đạo xã hội.
7
- Thế giới quan duy vật siêu hình đồng nhất vật chất với một dạng thể cụ
thể của nó; tuyệt đối hóa vận động cơ học; coi vạn vật, kể cả con người, như
những cỗ máy; nó không thấy được nguồn gốc vận động của thế giới. Do
vậy, thế giới quan duy vật siêu hình mang tính máy móc, không hiểu đúng
bản chất của con người, không lý giải được bản tính của các hiện tượng tinh
thần cũng như mối quan hệ giữa cái tinh thần và cái vật chất, tức nó không
triệt để. Đặc biệt, thế giới quan duy vật siêu hình đã mang lại phong cách tư
duy siêu hình, biến các hiểu biết tương đối của con người (những nguyên lý
của khoa học,…) thành những chân lý tuyệt đối bất biến, do đó nó đã ngăn
cản sự ra đời của các ngành khoa học lý thuyết vào cuối thế kỷ XIX – đầu
thế kỷ XX, đưa khoa học tự nhiên rơi vào tình trạng khủng hoảng nghiêm
trọng. Về điều này, V.I.Lênin đã viết như sau: “Thực chất của cuộc khủng
hoảng của vật lý học hiện đại là ở sự đảo lộn của những quy luật cũ và
những nguyên lý cơ bản, ở sự gạt bỏ thực tại khách quan ở bên ngoài ý thức,
tức là ở sự thay thế chủ nghĩa duy vật bằng chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa
bất khả tri”
1
. “Vật lý học mới sở dĩ đi chệch sang phía chủ nghĩa duy tâm,
chủ yếu là vì các nhà vật lý học không hiểu được phép biện chứng”
2
. “Vật lý
học hiện đại đang nằm trên giường đẻ. Nó đang đẻ ra chủ nghĩa duy vật biện
chứng. Một cuộc sinh đẻ đau đớn”
3
.
c) Thế giới quan duy vật biện chứng
Thực chất (xem Mục II): Thế giới quan duy vật biện chứng do C.Mác
và Ph.Angghen xây dựng vào giữa thế kỷ XIX, V.I.Lênin bảo vệ và phát
triển vào đầu thế kỷ XX. Quá trình hình thành và phát triển của thế giới quan
duy vật biện chứng gắn liền với thực tiễn đấu tranh của giai cấp vô sản
chống lại giai cấp tư sản, gắn liền với các thành tựu mới của các ngành khoa
học lúc bấy giờ (mà trước hết là các ngành khoa học tự nhiên như vật lý học,
sinh học) và thành tựu lý luận triết học của nhân loại (mà trước hết là các
thành tựu trong triết học của Phoiơbắc và triết học của Hêghen). Thế giới
quan duy vật biện chứng là thế giới quan của giai cấp vô sản bị áp bức, bóc
lột đang đấu tranh vì sự tiến bộ và bình đẳng của con người. Thế giới quan
duy vật biện chứng được thể hiện trong triết học Mác – Lênin và quan điểm
của các lãnh tụ chân chính của giai cấp vô sản.
Thành tựu: Thế giới quan duy vật biện chứng mang lại cho các ngành
khoa học hiện đại cơ sở thế giới quan và cơ sở phương pháp luận phổ biến
để thúc đẩy nghiên cứu, khám phá thế giới, xây dựng bức tranh khoa học về
1
V.I.Lênin: Toàn tập, T.18, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr.318.
2
V.I.Lênin: Toàn tập, T.18, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr.322.
3
V.I.Lênin: Toàn tập, T.18, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr.388.
8
thế giới, và qua đó tiến hành cải tạo cách mạng thế giới. Thế giới quan duy
vật biện chứng chống lại thế giới quan duy tâm – tôn giáo; nó là sức mạnh
tinh thần giúp giai cấp vô sản và quần chúng lao động trong cuộc đấu tranh
giải phóng loài người ra khỏi áp bức, bóc lột, bất công hướng đến xây dựng
một xã hội công bằng, bình đẳng, ấm no, hạnh phúc cho mọi người – chủ
nghĩa cộng sản.
II. NỘI DUNG VÀ BẢN CHẤT CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN
CHỨNG VỚI TÍNH CÁCH LÀ HẠT NHÂN CỦA THẾ GIỚI QUAN
KHOA HỌC
1. Nội dung của chủ nghĩa duy vật biện chứng với tính cách là hạt nhân
lý luận của thế giới quan khoa học
Nội dung của chủ nghĩa duy vật biện chứng với tính cách là hạt nhân lý
luận của thế giới quan khoa học bao gồm hai nhóm quan niệm. Đó là nhóm
quan niệm duy vật về thế giới nói chung và nhóm quan niệm duy vật về xã
hội nói riêng.
a) Quan điểm duy vật về thế giới
Tồn tại của thế giới là tiền đề thống nhất thế giới: Thế giới (mọi sự
vật, hiện tượng, quá trình) có tồn tại hay không? Nếu thế giới thật sự tồn tại
thì nó có thống nhất hay không? Nếu thế giới thống nhất thì cái gì là cơ sở
của sự thống nhất đó? … Các nhà triết học duy tâm cho rằng cơ sở thống
nhất thế giới là một bản chất tinh thần nào đó, ví dụ như linh hồn vũ trụ, lý
tính thế giới, thượng đế, hay ý niệm tuyệt đối,… Còn các nhà triết học duy
vật thì cho rằng thế giới thống nhất, nhưng sự thống nhất đó không nằm
trong sự tồn tại của thế giới, vì sự tồn tại của thế giới chỉ là tiền đề của sự
thống nhất thế giới. Tính thống nhất thật sự của thế giới nằm trong tính vật
chất của nó. Về điều này Angghen đã viết: “Tính thống nhất của thế giới
không phải ở sự tồn tại của nó, mặc dù tồn tại là tiền đề của tính thống nhất
của nó, vì trước khi thế giới có thể là một thể thống nhất thì trước hết thế
giới phải tồn tại đã” … “Tính thống nhất thật sự của thế giới là ở tính vật
chất của nó, và tính vật chất này được chứng minh không phải bằng vài ba
lời lẽ khéo léo của kẻ làm trò ảo thuật, mà bằng một sự phát triển lâu dài và
khó khăn của triết học và khoa học tự nhiên”
1
.
Nguyên lý về tính thống nhất vật chất của thế giới: Toàn bộ “lâu đài”
tư tưởng của triết học duy vật được xây dựng dựa trên các luận điểm nền
tảng – nội dung nguyên lý về tính thống nhất vật chất của thế giới. Các luận
điểm đó là:
1
C.Mác và Ph.Angghen: Toàn tập, T.20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.67.
9
- Thế giới vật chất tồn tại khách quan, vĩnh viễn, vô hạn, vô tận.
- Trong thế giới vật chất chỉ tồn tại các sự vật, quá trình vật chất cụ thể,
có một mức độ tổ chức nhất định; đang biến đổi, chuyển hóa lẫn nhau; là
nguồn gốc, nguyên nhân của nhau; cùng chịu sự chi phối bởi các quy luật
khách quan của thế giới vật chất.
- Ý thức, tư duy (tinh thần) con người chỉ là sản phẩm của một dạng vật
chất có tổ chức cao - bộ óc con người và vật chất xã hội. Thế giới vật chất
thống nhất và duy nhất.
Phạm trù vật chất – phạm trù cơ bản, xuất phát của triết học duy vật
biện chứng
- “Vật chất với tính cách là vật chất, là một sự sáng tạo thuần túy của tư
duy và là một sự trừu tượng. Chúng ta bỏ qua sự khác nhau về chất của
những sự vật, khi chúng ta gộp chúng, với tư cách là những vật tồn tại hữu
hình, vào khái niệm vật chất”
1
. Vì vậy: “Vật chất là một phạm trù triết học
dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác,
được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ
thuộc vào cảm giác”
2
. “Trong thế giới, không có gì ngoài vật chất đang vận
động và vật chất đang vận động không thể vận động ở đâu ngoài không gian
và thời gian”
3
.
+ “Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là một phương
thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, thì bao gồm
tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi
vị trí đơn giản cho đến tư duy”
4
.
+ Không gian, thời gian cũng là thuộc tính cố hữu của vật chất, là hình
thức / phương thức tồn tại của vật chất vật động. Không gian phản ánh tính
đồng tồn tại và tách biệt (trật tự - cấu trúc), độ dài; thời gian phản ánh tính
trình tự (trước - sau), độ lâu của các các tiến trình vật chất xảy ra trong thế
giới.
+ Phản ánh cũng là thuộc tính cố hữu của vật chất. Vật chất cụ thể trong
thế giới không ngừng vận động và phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến
phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện kéo theo năng lực phản ánh phát
triển đưa đến sự xuất hiện của ý thức (tư duy, tinh thần) con người. Ý thức là
1
C.Mác và Ph.Angghen: Toàn tập, T.20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.721.
2
V.I.Lênin: Toàn tập, T.18, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr.151.
3
V.I.Lênin: Toàn tập, T.18, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr.209-210.
4
C.Mác và Ph.Angghen: Toàn tập, T.20, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, tr.519.
10
chức năng tinh thần của bộ óc con người, là hình thức phản ánh cao cấp của
vật chất cấp cao – bộ óc con người và vật chất xã hội.
Phạm trù ý thức, quan hệ giữa vật chất và ý thức
- Ý thức là hình ảnh chủ quan về thế giới khách quan; nó mang bản tính
bản tính phản ánh - sáng tạo - xã hội và có cấu trúc rất phức tạp: “Ý thức
không bao giờ có thể là cái gì khác hơn là sự tồn tại được ý thức, và tồn tại
của con người là quá trình sống hiện thực của con người”
1
. “Ngay từ đầu, ý
thức đã là một sản phẩm xã hội, và vẫn là như vậy chừng nào con người còn
tồn tại”
2
. Ý thức tồn tại trước hết trong bộ óc con người, và sau đó, thông
qua thực tiễn lao động, nó được vật chất hóa và có được sự tồn tại mới trong
các vật phẩm do con người sáng tạo ra (vật chất xã hội – vật chất mang /
chứa ý thức). Ý thức bao gồm nhiều yếu tố như: tri thức, tình cảm, niềm tin,
lý trí, ý chí…, trong đó, tri thức (yếu tố cốt lõi) và tình cảm có vai trò rất
quan trọng. Tri thức là kết quả của quá trình con người nhận thức thế giới,
nó phản ánh những hiểu biết của chủ thể về khách thể. Tình cảm là những
rung động tâm lý khá ổn định phản ánh thái độ của chủ thể - cá nhân con
người - trước khách thể - hiện thực. Tri thức và tình cảm thống nhất, chuyển
hóa lẫn nhau (tình cảm không dựa trên tri thức là tình cảm mù quáng, tri thức
không chứa tình cảm là tri thức suông); sự thống nhất của chúng tạo ra động
lực tinh thần mạnh mẽ thúc đẩy hoạt động của con người, góp phần làm cho
con người trở thành chủ thể sáng tạo ra lịch sử.
- “Đương nhiên, sự đối lập giữa vật chất và ý thức chỉ có ý nghĩa tuyệt
đối trong những phạm vi hết sức hạn chế: trong trường hợp này, chỉ giới hạn
trong vấn đề nhận thức luận cơ bản là thừa nhận cái gì có trước và cái gì có
sau? Ngoài giới hạn đó, thì không nghi ngờ gì nữa rằng sự đối lập đó là
tương đối”
3
.
- Thông quan hoạt động thực tiễn, mà trước hết là thực tiễn lao động, ý
thức con người xâm nhập vào hiện thực vật chất, nhờ đó, nó có được sức
mạnh của cái tinh thần. Dựa trên sức mạnh này, ý thức tác động đến thế giới,
góp phần làm cho thế giới biến đổi. Ý thức con người không chỉ phản ánh
thế giới mà còn góp phần sáng tạo nên thế giới nữa. Do vậy mà C.Mác đã
viết: “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán
của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất;
1
C.Mác và Ph.Angghen: Toàn tập, T.3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.38.
2
C.Mác và Ph.Angghen: Toàn tập, T.3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.43.
3
V.I.Lênin: Toàn tập, T.18, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr.173.
11
nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập
vào quần chúng”
1
.
“Trong khi nghiên cứu sâu và phát triển chủ nghĩa duy vật triết học,
Mác đã đưa học thuyết đó tới chỗ hoàn bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ
nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài người”
2
.
b) Quan điểm duy vật về xã hội
Xã hội là một bộ phận đặc thù của tự nhiên: Xã hội là kết quả phát
triển lâu dài của tự nhiên, thông qua và nhờ vào hoạt động lao động – hoạt
động có ý thức của con người. Xã hội có quy luật vận động, phát triển riêng,
bao gồm cả các quy luật tự nhiên lẫn các quy luật xã hội. Dù sự vận động,
phát triển của xã hội do quy luật khách quan chi phối, song sự vận động,
phát triển đó phải thông qua hoạt động thực tiễn có ý thức của con người
đang theo đuổi những mục đích nhằm đạt những lợi ích để thỏa mãn những
nhu cầu nhất định cho riêng mình.
- Tự nhiên là toàn bộ thế giới vật chất đa dạng vô cùng, vô tận, luôn
phát triển: từ giới tự nhiên vô cơ đến giới tự nhiên hữu cơ; từ giới tự nhiên
hữu cơ đến giới tự nhiên có mang sự sống; từ sự sống đơn bào đến sự sống
đa bào; từ vi sinh vật đến sinh vật; từ thực vật đến động vật; từ động vật bậc
thấp đến động vật bậc cao. Rồi sau đó là con người và xã hội loài người.
- Xã hội là kết quả của quá trình chuyển biến từ đời sống bày đàn, hành
động theo bản năng của loài vật (tự nhiên) thành đời sống cộng đồng, hành
động có mục đích của con người; là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa
các con người, là biểu hiện của tổng số các mối quan hệ giữa các cá nhân (xã
hội).
- Hệ thống tự nhiên – xã hội là một chỉnh thể bao gồm những yếu tố tự
nhiên và những yếu tố xã hội luôn tác động qua lại, quy định sự tồn tại và
phát triển của nhau. Trong đó, tự nhiên vừa là nguồn gốc vừa là điều kiện,
môi trường tồn tại và phát triển của xã hội. Dù tự nhiên tác động âm thầm, tự
phát đến xã hội; nhưng xã hội tác động đến tự nhiên bao giờ cũng thông qua
hoạt động thực tiễn có ý thức của con người mà trước hết là thông qua thực
tiễn lao động sản xuất vật chất. Bằng và thông qua hoạt động thực tiễn lao
động sản xuất vật chất có ý thức, con người từng ngày, từng giờ cải tạo, biến
đổi tự nhiên để phục vụ cuộc sống cho chính mình.
1
C.Mác và Ph.Angghen: Toàn tập, T.1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.580.
2
V.I.Lênin: Toàn tập, T.23, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr.53.
12
Sản xuất vật chất là cơ sở đời sống xã hội: Những giai đoạn sản xuất
xã hội khác nhau sản sinh ra những kiểu đời sống xã hội khác nhau. Yếu tố
cốt lỏi của nền sản xuất vật chất của xã hội là phương thức sản xuất. Phương
thức sản xuất quyết định mọi quá trình sinh hoạt của đời sống xã hội. Tồn tại
xã hội quyết định ý thức xã hội. Về thực chất, lịch sử tồn tại và phát triển xã
hội loài người gắn liền với lịch sử tồn tại và phát triển của nền sản xuất ra
của cải vật chất, gắn liền với lịch sử tồn tại và phát triển của các phương
thức sản xuất ra của cải vật chất.
- Nền sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động
do mình làm ra, tác động cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên, nhằm
tạo ra những vật phẩm thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người.
Nền sản xuất vật chất được thông qua quá trình lao động của con người, diễn
ra trong từng giai đoạn lịch sử khác nhau là khác nhau, gắn liền với những
phương thức sản xuất vật chất (cách thức con người ở một giai đoạn lịch sử
nhất định thực hiện quá trình sản xuất tạo ra của cải vật chất nhằm thỏa mãn
nhu cầu tồn tại và phát triển của xã hội) khác nhau. Phương thức sản xuất là
sự thống nhất của lực lượng sản xuất (quan hệ giữa con người với tự nhiên
trong sản xuất) và quan hệ sản xuất (quan hệ giữa con người với con người
trong sản xuất). Sự thay đổi của lực lượng sản xuất đến một lúc nào đó sẽ
làm thay đổi quan hệ sản xuất, tức thay đổi phương thức sản xuất.
- Sự thay đổi của quan hệ sản xuất sẽ làm thay đổi mọi quan hệ, mọi
mặt của đời sống xã hội từ kinh tế - cơ sở hạ tầng [tòan bộ các quan hệ sản
xuất hợp lại thành kết cấu kinh tế của xã hội ở một giai đọan nhất định] đến
chính trị - kiến trúc thượng tầng [toàn bộ các quan điểm về chính trị, pháp
quyền, tôn giáo, ; các thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái,
giáo hội, … được hình thành trên một cơ sở hạ tầng nhất định], từ lĩnh vực
vật chất - tồn tại xã hội [toàn bộ đời sống vật chất của xã hội ở một giai đoạn
lịch sử nhất định (phương thức sản xuất, điều kiện tự nhiên, điều kiện dân
số…)] đến lĩnh vực tinh thần - y thức xã hội [toàn bộ đời sống tinh thần của
xã hội phản ánh tồn tại xã hội ở một giai đoạn phát triển nhất định (quan
điểm, tư tưởng, tình cảm, tâm trạng, truyền thống của các cộng đồng người
trong lịch sử)]. Trong xã hội, “không phải ý thức của con người quyết định
sự tồn tại của họ, mà trái lại sự tồn tại của họ quyết định ý thức của họ”
1
.
“Trong mọi thời đại, những tư tưởng của giai cấp thống trị là những tư tưởng
thống trị. Điều đó có nghĩa là giai cấp nào là lực lượng vật chất thống trị
trong xã hội thì cũng là lực lượng tinh thần thống trị trong xã hội”
2
.
1
C.Mác và Ph.Angghen: Toàn tập, T.13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.607.
2
C.Mác và Ph.Angghen: Toàn tập, T.3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.66.
13
Sự phát triển của xã hội là quá trình lịch sử - tự nhiên
- Đó là lịch sử phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến
cao, vừa thống nhất vừa đa dạng, mà thực chất là lịch sử phát triển của lực
lượng sản xuất: Lực lượng sản xuất phát triển đến một lúc nào đó sẽ kéo theo
quan hệ sản xuất thay đổi, tức làm thay đổi phương thức sản xuất; Phương
thức sản xuất thay đổi làm cho cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã
hội thay đổi theo, tức là làm thay đổi hình thái kinh tế - xã hội.
- Đó là lịch sử tạo nên từ các hoạt động cụ thể của những con người có
lợi ích và mục đích khác nhau nhưng không phụ thuộc vào lợi ích và mục
đích của họ mà tuân theo các quy luật khách quan của lịch sử. Chính con
người chứ không phải các lực lượng siêu nhiên đã và đang sáng tạo nên lịch
sử. Tuy nhiên, không phải mọi con người đều là chủ thể chân chính sáng tạo
ra lịch sử nhân loại.
Quần chúng nhân dân là chủ thể chân chính sáng tạo ra lịch sử
- Quần chúng nhân dân là một cộng đồng người trong lịch sử mà dựa
trên địa vị và lợi ích của mình họ có thể tham gia giải quyết các vấn đề trọng
đại của lịch sử và thúc đẩy lịch sử tiến lên. Quần chúng nhân dân trước hết là
những người lao động sản xuất ra của cải vật chất và tạo ra các giá trị tinh
thần; là những bộ phận dân cư chống lại sự áp bức, bóc lột; là những giai -
tầng xã hội góp phần thúc đẩy sự tiến bộ xã hội.
- Lịch sử được sáng tạo bởi quần chúng nhân dân; bởi vì họ là lực lượng
trực tiếp sản xuất ra mọi của cải vật chất, sáng tạo ra mọi giá trị tinh thần, là
lực lượng quyết định thành bại của mọi cuộc biến đổi cách mạng xảy ra
trong xã hội.
- Trong điều kiện lịch sử khác nhau, vai trò chủ thể của quần chúng
nhân dân biểu hiện khác nhau. Cùng với quá trình giải phóng quần chúng
nhân dân ra khỏi các lực lượng đen tối của tự nhiên và xã hội, vai trò sáng
tạo ra lịch sử của quần chúng nhân dân càng ngày càng to lớn.
- Sức mạnh của quần chúng nhân dân chỉ thật sự được phát huy cao độ
khi họ được hướng dẫn bởi các tổ chức chính trị – xã hội, dưới sự lãnh đạo
của các lãnh tụ - cá nhân có nhân cách vĩ đại, biết tập hợp, giác ngộ, tổ chức
quần chúng nhân dân để giải quyết những nhiệm vụ cụ thể do lịch sử đặt ra
1
.
1
Lãnh tụ là cá nhân có tri thức khoa học uyên bác, biết nắm bắt được xu thế vận động của giai
cấp, dân tộc, thời đại; có năng lực tập hợp, thống nhất ý chí, hành động của quần chúng nhân
dân để giải quyết những nhiệm vụ cụ thể do lịch đặt ra; luôn gắn bó mật thiết với quần chúng
nhân dân, và luôn biết hy sinh quên mình vì lợi ích cao cả của quần chúng nhân dân.
14
2. Bản chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng với tính cách là hạt nhân
của thế giới quan khoa học
a) Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã giải quyết vấn đề cơ bản của triết
học từ quan điểm thực tiễn
Nếu chủ nghĩa duy tâm nhận thấy tính năng động sáng tạo của ý thức
nhưng nó đã tuyệt đối hóa, thần thánh hóa ý thức thành cái siêu nhiên, thần
thánh, đưa ý thức thoát ra khỏi thế giới tự nhiên và đời sống xã hội của con
người (vật chất), để sau đó quay về chi phối thế giới tự nhiên và đời sống xã
hội của con người (vật chất); thì chủ nghĩa duy vật cũ lại thiếu quan điểm
thực tiễn, đầy tính trực quan và tính máy móc, nên không nhìn thấy được
tính năng động sáng tạo của ý thức, không nhận thấy được vai trò quan trong
của ý thức trong đời sống của con người.
Khi khắc phục các nhược điểm trên, chủ nghĩa duy vật biện chứng
khẳng định vật chất có trước và quyết định ý thức; trong hoạt động thực tiễn,
ý thức con người xâm nhập vào lực lượng vật chất, thông qua những lực
lượng vật chất, nó tác động tích cực làm biến đổi hiện thực vật chất (khách
quan) theo nhu cầu (chủ quan) của con người. Như vậy, chủ nghĩa duy vật
biện chứng không chỉ đối lập với chủ nghĩa duy tâm (cả duy tâm khách quan
lẫn duy tâm chủ quan, duy ý chí) mà còn đối lập với chủ nghĩa duy vật tầm
thường.
b) Chủ nghĩa duy vật biện chứng đã thống nhất thế giới quan duy vật
với phép biện chứng
Chủ nghĩa duy vật cũ (thế kỷ XVII - XVIII), kể cả chủ nghĩa duy vật
của Phoiơbắc mang nặng tính siêu hình, vì vậy những lý giải về thế giới của
nó thường phiến diện, rời rạt, máy móc; còn phép biện chứng chủ yếu được
nghiên cứu trong các hệ thống triết học duy tâm, đặc biệt là hệ thống triết
học duy tâm của Hêghen nên nó thường tư biện, thần bí.
Dựa trên thực tiễn cách mạng của giai cấp vô sản và các thành tựu
khoa học lúc bấy giờ, C.Mác đã cải tạo triệt để chủ nghĩa duy vật cũ để giải
thóat chủ nghĩa duy vật ra khỏi tính siêu hình; đồng thời C.Mác cũng cải tạo
triệt để phép biện chứng duy tâm để giải thóat phép biện chứng ra khỏi tính
thần bí, tư biện; từ đó, C.Mác xây dựng nên chủ nghĩa duy vật biện chứng
hay phép biện chứng duy vật. C.Mác đã thống nhất thế giới quan duy vật với
phép biện chứng.
c) Chủ nghĩa duy vật biện chứng là chủ nghĩa duy vật triệt để; nó
không chỉ duy vật trong lĩnh vực tự nhiên mà còn duy vật trong lĩnh vực
15
xã hội; chủ nghĩa duy vật lịch sử là cống hiến vĩ đại của C.Mác cho kho
tàng tư tưởng của loài người.
Chủ nghĩa duy vật cũ không triệt để; nó chỉ duy vật trong tự nhiên,
còn trong lĩnh vực xã hội, nó hoàn toàn duy tâm. Phoiơbắc – nhà duy vật vĩ
đại nhất trước C.Mác, bậc tiền bối của C.Mác cũng không phải là ngoại lệ.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử ra đời từ kết quả C.Mác và Angghen vận
dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng vào nghiên cứu lĩnh vực xã hội và tổng
kết lịch sử, kế thừa có phê phán tòan bộ tư tưởng xã hội của loài người trên
cơ sở khái quát thực tiễn mới của giai cấp vô sản.
- “Trong khi nghiên cứu sâu và phát triển chủ nghĩa duy vật, Mác đã
đưa học thuyết đó tới chỗ hòan bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức
giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội lòai người. Chủ nghĩa duy vật lịch sử
của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học. Một lý luận khoa
học hết sức hoàn chỉnh và chặt chẽ đã thay cho sự lộn xộn và sự tùy tiện, vẫn
ngự trị từ trước đến nay trong các quan niệm về lịch sử và chính trị”
1
.
- “Tất cả những cái mà tư tưởng lòai người đã sáng tạo ra, Mác đã
nghiền ngẫm lại, đã phê phán, và thông qua phong trào công nhân mà kiểm
tra lại”.
Khi đánh giá về tính chất duy vật triệt để trong triết học Mác,
V.I.Lênin viết: “Triết học của Mác là một chủ nghĩa duy vật hoàn bị, nó
cung cấp cho loài người và nhất là giai cấp công nhân những công cụ nhận
thức vĩ đại”
2
. Với chủ nghĩa duy vật lịch sử, nhân lọai tiến bộ có được một
công cụ vĩ đại trong nhận thức và cải tạo thế giới.
d) Chủ nghĩa duy vật biện chứng mang tính thực tiễn - cách mạng, nó
hướng dẫn con người trong hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới
Chủ nghĩa duy vật biện chứng là vũ khí lý luận của giai cấp vô sản.
Sức mạnh vật chất của giai cấp kết hợp nhuần nhuyễn với sức mạnh tinh
thần của triết học tạo nên sức mạnh tổng hợp của thời đại. Chỉ có sức mạnh
tổng hợp này mới làm thay đổi trật tự của thế giới.
- "Giống như triết học tìm thấy vũ khí vật chất của mình trong giai cấp
vô sản, giai cấp vô sản tìm thấy vũ khí của mình trong triết học"
3
.
- Lợi ích của giai cấp vô sản phù hợp với lợi ích của nhân loại tiến bộ.
Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản giải phóng mình ra khỏi sự áp bức, bóc
1
V.I.Lênin: Toàn tập, T.23, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr.53.
2
V.I.Lênin: Toàn tập, T.23, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, tr.54.
3
C.Mác và Ph.Angghen: Toàn tập, T.1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.589.
16
lột cũng là cuộc đấu tranh của nhân loại tiến bộ và nó chỉ thắng lợi khi phát
triển từ tự phát lên tự giác.
- Được luận chứng bằng những cơ sở lý luận khoa học, phản ánh các
quy luật phát triển khách quan của lịch sử, chủ nghĩa duy vật biện chứng trở
thành hệ tư tưởng của giai cấp vô sản – một hệ tư tưởng chứa đựng trong
mình sự thống nhất giữa tính khoa học và tính cách mạng.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ giải thích thế giới mà góp
phần cải tạo thế giới. Khi xâm nhập vào phong trào đấu tranh của giai cấp
vô sản và nhân loại tiến bộ, phép biện chứng duy vật có được sức mạnh vật
chất. Bằng sức mạnh vật chất này nó có thể đánh đổ các lực lượng vật chất
bảo thủ và phản động, vươn lên xây dựng một xã hội mới của con người và
dành cho con người – chủ nghĩa cộng sản.
- “Các nhà triết học đã chỉ giải thích thế giới bằng nhiều cách khác
nhau, song vấn đề là cải tạo thế giới”
1
. Để cải tạo thế giới hiệu quả giai cấp
vô sản phải biết kết hợp sức mạnh vật chất chính trị của mình với sức mạnh
tinh thần của triết học duy vật biện chứng để tạo nên sức mạnh tổng hợp vô
địch. Vì vậy, C.Mác đã viết: “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể
thay thế được sự phê phán bằng vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh
đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật
chất một khi nó thâm nhập vào quần chúng”
2
.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định sự tất thắng của cái mới
- Mọi cái hiện tồn đều chứa đựng trong mình sự tự phủ định; sớm muộn
gì nó cũng nhường chỗ cho sự ra đời của cái mới tiến bộ hơn. Trong thế giới
luôn xảy ra những cuộc đấu tranh giữa cái mới với cái cũ. Đây là cuộc đấu
tranh lâu dài, khó khăn, phức tạp; cái mới có thể thất bại tạm thời, nhưng
cuối cùng cái mới sẽ thắng lợi.
- Chủ nghĩa cộng sản là một cái mới; nó nhất định sẽ thay thế chủ nghĩa
tư bản – cái cũ. Và cuộc đấu tranh để khẳng định tính tất thắng của chủ nghĩa
cộng sản trước chủ nghĩa tư bản là một quá trình lâu dài, khó khăn, phức tạp,
thậm chí không thể tránh khỏi những thất bại tạm thời. Chủ nghĩa xã hội, sau
bảy mươi năm xây dựng ở Liên Xô (cũ) và Đông Au, dù mang lại không ít
thành quả nổi bật nhưng đã thất bại. Đó là sự thất bại của một mô hình (cũ).
Thất bại này trở thành điều kiện, tiền đề cho sự ra đời một mô hình mới về
chủ nghĩa xã hội. Công cuộc Cải cách (Mở cửa) ở Trung Quốc, Đổi mới ở
Việt Nam là một thí dụ sinh động. Với bản chất bóc lột không hề thay đổi và
1
C.Mác và Ph.Angghen: Toàn tập, T.3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.12.
2
C.Mác và Ph.Angghen: Toàn tập, T.1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.580.
17
những hậu quả nghiêm trọng không thể khắc phục được do nó gây ra, chủ
nghĩa tư bản dù vẫn tiếp tục tồn tại nhưng nó không thể là tương lai của nhân
loại. Tương lai loài người thuộc về chủ nghĩa cộng sản.
- Là một hệ thống các quy luật phổ biến, chủ nghĩa duy vật biện chứng
trở thành công cụ tinh thần để xoá bỏ cái cũ lỗi thời, xây dựng cái mới tiến
bộ.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng là một hệ thống mở, là kim chỉ nam cho
hành động. Cùng với quá trình đào sâu và mở rộng của hoạt động thực tiễn
và hoạt động nhận thức của nhân loại, chủ nghĩa duy vật biện chứng không
ngừng khái quát các thành tựu khoa học và những kinh nghiệm thực tiễn của
nhân loại để bổ sung, hiệu chỉnh nhằm hoàn thiện chính mình.
III. NGUYÊN TẮC KHÁCH QUAN CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN
CHỨNG VÀ VIỆC VẬN DỤNG NÓ VÀO SỰ NGHIỆP CÁCH
MẠNG HIỆN NAY Ở NƯỚC TA
1. Nguồn gốc của chủ nghĩa chủ quan
a) Vai trò và tác dụng của y thức
Trong hoạt động thực tiễn, các nhân tố ý thức (tri thức, tình cảm, ý
chí, niềm tin, lý trí,…) xâm nhập được vào các lực lượng vật chất; và khi
thông qua các lực lượng vật chất, các nhân tố ý thức thể hiện vai trò và tác
dụng to lớn của mình.
Vai trò của các nhân tố ý thức thể hiện qua việc vạch ra các chương
trình, mục tiêu, kế hoạch; tìm kiếm những biện pháp, phương tiện, công cụ
(mà trước hết là những biện pháp, phương tiện, công cụ vật chất), xây dựng
các phương thức tổ chức thực hiện các chương trình, mục tiêu, kế hoạch
được đề ra; kịp thời điều chỉnh, uốn nắn hoạt động của con người theo lợi ích
và mục đích được đã được xác định
Sức tác dụng của ý thức phụ thuộc vào mức độ xâm nhập của các nhân
tố ý thức vào lực lượng vật chất. Nếu các nhân tố ý thức không xâm nhập
được vào lực lượng vật chất thì chúng không có tác dụng gì cả. Còn ngược
lại, nếu chúng xâm nhập càng sâu rộng vào các lực lượng vật chất thì sức tác
dụng của chúng đến hiện thực vật chất càng lớn.
Khuynh hướng tác dụng của ý thức phụ thuộc vào tính chất phản ánh
của các nhân tố ý thức đối với hiện thức vật chất. Các các nhân tố ý thức
xâm nhập được vào các lực lượng vật chất phản ánh càng đúng quy luật
khách quan của hiện thực thì chúng sẽ thúc đẩy hiện thực đó phát triển
nhanh. Còn ngược lại, nếu các nhân tố ý thức thức xâm nhập vào hiện thực
18
phản ánh không đúng quy luật khách quan của hiện thực hay chỉ dựa trên
tình cảm, lợi ích… chủ quan của lực lượng xã hội bảo thủ, lạc hậu thì chúng
sẽ kìm hãm hiện thực đó phát triển; cho dù sự kìm hãm đó chỉ mang tính tạm
thời, nhưng đôi khi chúng gây ra tác hại rất lớn, trong một quãng thời gian
rất ngắn.
b) Chủ nghĩa chủ quan - một hình thức biểu hiện của chủ nghĩa duy
tâm
Sáng tạo và phản ánh là hai mặt thống nhất trong bản chất của ý thức,
nếu tách sáng tạo ra khỏi phản ánh, cường điệu nó thì sẽ rơi vào chủ nghĩa
chủ quan.
Ý thức là một hiện tượng tinh thần có cấu trúc rất phức tạp bao gồm
nhiều yếu tố khác nhau nhưng thống nhất tác động qua lại lẫn nhau, trong
đó, tri thức là yếu tố cơ bản nhất. Dù ý chí có vai trò to lớn trong hoạt động
của con người, song nếu cường điệu vai trò của ý chí thì sẽ rơi vào chủ nghĩa
duy ý chí.
Trong đời sống xã hội, cái vật chất và cái tinh thần, cái khách quan và
cái chủ quan thống nhất và chuyển hóa lẫn nhau, ranh giới phân biệt chúng
là tương đối; nếu xác định không đúng hay lẫn lộn chúng với nhau, thì dễ
dẫn đến lấy cái chủ quan thay cho cái khách quan, rồi tuyệt đối hóa nhân tố
chủ quan nên cuối cùng rơi vào chủ nghĩa chủ quan.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp mới, phức tạp, khó khăn,
lâu dài, đòi hỏi phát huy cao độ các nhân tố chủ quan (nhiệt tình cách mạng,
ý chí ); Khi vai trò của nhân tố chủ quan càng lớn thì nguy cơ mắc bệnh chủ
quan, duy ý chí cũng càng lớn; khi đó, người ta sẽ lấy nhiệt tình cách mạng
thay cho tri thức khoa học, lấy ý chí chủ quan thay cho quy luật khách quan
nên từ bỏ dần quan điểm khách quan tự rơi dần vào chủ nghĩa chủ quan.
Ở Việt Nam, bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản
đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan ảo tưởng đã xuất hiện trước
Đổi mới có nguyên nhân của nó và nó đã gây ra những tác hại lớn trên nhiều
lĩnh vực hoạt động của nước nhà.
- Nguyên nhân: Do yếu kém về năng lực tư duy, lạc hậu về lý luận, ít
kinh nghiệm trong xây dựng và quản lý đất nước; Do mắc nhiều sai lầm ấu
trĩ “tả” khuynh, nóng vội, những sai lầm này xảy ra trong một điều kiện lịch
sử rất đặc biệt của dân tộc ta – một dân tộc biết phát huy tối đa sức mạnh
tinh thần, khao khát thoát ra khỏi cuộc sống lầm than, nô lệ ; Do không xuất
phát từ hiện thực cuộc sống, do bất chấp quy luật khách quan, do coi thường
tri thức khoa học cùng tầng lớp trí thức,…
19
- Tác hại: Tạo ra những chính sách sai lầm, gây ra những hậu quả về
nhiều mặt (kinh tế, chính trị, xã hội…) rất nghiêm trọng và kéo dài, làm xói
mòn lòng tin của nhân dân ta đối với Đảng và sự nghiệp của Đảng.
Chủ nghĩa chủ quan chỉ có thể khắc phục triệt để bằng cách quán triệt
và thực hiện nghiêm túc nguyên tắc khách quan.
2. Nguyên tắc khách quan của chủ nghĩa duy vật biện chứng
a) Cơ sở lý luận của nguyên tắc khách quan của chủ nghĩa duy vật
biện chứng
Nguyên tắc khách quan lần đầu tiên được bàn đến trong triết học duy
vật kinh nghiệm của Ph.Bêcơn. Tuy nhiên, trong nền triết học này, nguyên
tắc khách quan không thể hiện được tầm quan trọng của các nhân tố chủ
quan của ý thức trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con
người. Khắc phục hạn chế này của nguyên tắc khách quan trong triết học tư
sản thời cận đại; đồng thời chỉ ra sai lầm của việc tuyệt đối hóa nhân tố chủ
quan của các trào lưu triết học duy tâm, chủ nghĩa duy vật biện chứng dựa
trên nội dung lý luận của nguyên lý thống nhất thế giới trong tính vật chất
(xem: Mục II,1,a của Chương này) xây dựng các yêu cầu của nguyên tắc
khách quan.
Vật chất là cái có trước so với tư duy. Vật chất tồn tại vĩnh viễn, và ở
một giai đoạn phát triển nhất định của mình nó mới sản sinh ra tư duy. Do tư
duy phản ánh thế giới vật chất, nên trong quá trình nhận thức đối tượng
chúng ta không được xuất phát từ tư duy, từ ý kiến chủ quan của chúng ta về
đối tượng, mà phải xuất phát từ chính bản thân đối tượng, từ bản chất của
chính nó; không được “bắt” đối tượng tuân theo tư duy, mà phải “bắt” tư duy
tuân theo đối tượng; không ép đối tượng thỏa mãn một sơ đồ chủ quan hay
một “lôgích” nào đó, mà phải rút ra những sơ đồ từ đối tượng, tái tạo trong
tư duy các hình tượng, tư tưởng – cái lôgích phát triển của chính đối tượng
đó. Khi bàn về yêu cầu này, Ph.Ăngghen đã viết: “… các nguyên lý không
phải là điểm xuất phát của sự nghiên cứu mà là kết quả cuối cùng của nó;
những nguyên lý ấy không phải được ứng dụng vào giới tự nhiên và vào lịch
sử loài người, mà được trừu tượng hóa từ giới tự nhiên và vào lịch sử loài
người; không phải giới tự nhiên và loài người phải phù hợp với các nguyên
lý, mà trái lại các nguyên lý chỉ đúng trong chừng mực chúng phù hợp với
giới tự nhiên và lịch sử”
1
. Việc tuân thủ nguyên tắc khách quan trong xem
1
C.Mác, Ph.Angghen, Toàn tập, T.20, Nxb Chính trị Quốc gia, HN, 1994, tr.54.
20
xét đã được V.I.Lênin chỉ rõ: “…tính khách quan của sự xem xét (không
phải thí dụ, không phải dài dòng, mà bản thân sự vật tự nó)”
2
.
Toàn bộ “nghệ thuật” chinh phục bản chất của sự vật, hiện tượng được
gói ghém trong sự tìm kiếm, chọn lựa, sử dụng những con đường, cách thức,
phương tiện thâm nhập hữu hiệu vào “thế giới” bên trong của sự vật. “Nghệ
thuật” chinh phục như thế không thể không mang đến cho sự vật, hiện tượng
một cái gì đó xa lạ với chính nó. Điều này đặt ra cho chủ thể một tình thế
khó khăn. Làm thế nào để biết chắc chắn những suy nghĩ của chúng ta về sự
vật là khách quan, là phù hợp với bản thân sự vật? Vấn đề càng trở nên nan
giải hơn khi con người chuyển đối tượng nhận thức của mình từ lĩnh vực vĩ
mô sang siêu vĩ mô - vũ trụ hay vi mô - thế giới của các hạt cơ bản, nghĩa là
từ lĩnh vực cho phép sử dụng trực tiếp giác quan sang lĩnh vực sử dụng gián
tiếp giác quan hoặc sử dụng trí tưởng tượng là chủ yếu; từ lĩnh vực tự nhiên
sang lĩnh vực đời sống xã hội, – nơi luôn xảy ra va chạm giữa những cá nhân
hay lực lượng xã hội có mục đích, lợi ích khác nhau hay đối lập nhau. Trong
những trường hợp này, nguyên tắc khách quan đòi hỏi được bổ sung thêm
yêu cầu phát huy tính năng động sáng tạo của chủ thể và nguyên tắc về tính
đảng.
Giới tự nhiên và xã hội không bao giờ tự phơi bày toàn bộ bản chất
của mình ra thành các hiện tượng điển hình. Con người không phải chỉ nhận
thức những cái gì đã được bộc lộ ra trước chủ thể. Do đó, để phản ánh khách
thể như một chỉnh thể, chủ thể tư duy không thể không bổ sung những yếu tố
chủ quan như đề xuất các giả thuyết, đưa ra các dự đoán khoa học Thiếu
những điều này tư duy sẽ không mang tính biện chứng, sẽ không thể hiện
bản tính sáng tạo thông qua trí tưởng tượng của chính mình. Quá trình phát
triển của nhận thức là quá trình khách quan hóa cái chủ quan và loại bỏ cái
tùy tiện bám vào kết quả nhận thức. Tiêu chuẩn cao nhất về tính khách quan
cũng như cách nhận biết cái khách quan trong cái chủ quan là thực tiễn xã
hội. Con người không cảm nhận trực tiếp thế giới vi mô, nhưng con người
khẳng định được tính khách quan của tri thức về thế giới đó qua những nhà
máy điện nguyên tử, các hệ thống máy tính, các thiết bị viễn thông, các máy
móc thông dụng thường ngày. Yêu cầu phát huy tính năng động sáng tạo
của chủ thể đòi hỏi chủ thể tư duy phải biến đổi, thậm chí cải tạo đối tượng
để tìm ra bản chất của nó. Những biến đổi, cải tạo đó là chủ quan nhưng
không phải tùy tiện, mà là những biến đổi và cải tạo đối tượng phù hợp quy
luật của hiện thực thuộc lĩnh vực nghiên cứu.
2
V.I.Lênin, Toàn tập, T.29, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1987, tr.239.
21
Yêu cầu khách quan trong xem xét có ý nghĩa rất quan trọng trong
nhận thức các hiện tượng thuộc đời sống xã hội. Đối tượng nghiên cứu bao
gồm cả cái vật chất lẫn cái tinh thần, chứa đầy những cái chủ quan, những
cái lý tưởng, và luôn chịu sự tác động của các lực lượng tự phát của tự nhiên
lẫn những lực lượng tự giác (ý chí, lợi ích, mục đích, nhân cách, cá tính khác
nhau) của con người. Ở đây, đối tượng – khách thể tư duy quyện chặt vào
chủ thể tư duy bằng hệ thống những mối liên hệ xã hội chằng chịt. Do đó cần
phải cụ thể hóa nguyên tắc khách quan trong xem xét các hiện tượng xã hội,
tức là phải kết hợp nó với yêu cầu phát huy tính năng động sáng tạo của chủ
thể và nguyên tắc tính đảng. Điều này có nghĩa là nguyên tắc khách quan
trong xem xét không chỉ bao hàm yêu cầu phải xuất phát từ chính đối tượng,
từ những quy luật vận động và phát triển của nó, không được thêm bớt chủ
quan tùy tiện, mà nó còn đòi hỏi phải biết phân biệt những quan hệ vật chất
với những quan hệ tư tưởng, các nhân tố khách quan với các nhân tố chủ
quan, thừa nhận các quan hệ vật chất khách quan của tồn tại xã hội là những
nhân tố quyết định. Còn những hiện tượng tinh thần, tư tưởng (ý thức xã hội)
được quy định bởi đời sống vật chất của con người và các quan hệ kinh tế
của họ (tồn tại xã hội) nhưng chúng có ảnh hưởng ngược lại tồn tại xã hội.
Phải coi “xã hội là một cơ thể sống đang phát triển không ngừng (chứ không
phải là một cái gì được kết thành một cách máy móc, và do đó cho phép có
thể tùy ý phối hợp các yếu tố xã hội như thế nào cũng được), một cơ thể mà
muốn nghiên cứu nó thì cần phải phân tích một cách khách quan những quan
hệ sản xuất cấu thành một hình thái kinh tế xã hội nhất định và cần phải
nghiên cứu những quy luật vận hành và phát triển của hình thái xã hội đó”
1
.
Khi nhận thức các hiện tượng xã hội chúng ta phải chú trọng đến mức
độ quan tâm và năng lực nhận thức của các lực lượng xã hội đối với việc giải
quyết các vấn đề xã hội, đối với khuynh hướng phát triển của các hiện tượng
xã hội, đối với việc đánh giá tình hình xã hội, v.v Những đánh giá có giá trị
hơn, những cách giải quyết đúng hơn thường là những đánh giá, những cách
giải quyết thuộc về các lực lượng xã hội biết đứng trên lập trường của giai
cấp tiên tiến, của những lực lượng cách mạng của thời đại đó. Vì vậy, tính
khách quan trong xem xét các hiện tượng xã hội nhất quán với nguyên tắc
tính đảng. Việc xem thường nguyên tắc này dễ dẫn đến vi phạm yêu cầu của
nguyên tắc khách quan trong xem xét, dễ biến nó thành chủ nghĩa khách
quan, cản trở việc nhận thức đúng đắn các hiện tượng xã hội phức tạp.
b) Các yêu cầu cơ bản của nguyên tắc khách quan của chủ nghĩa duy
vật biện chứng
1
V.I.Lênin, Toàn tập, T1, NXB Tiến bộ, Mátxcơva, 1974, tr.198.
22
Trong hoạt động nhận thức chủ thể phải:
- Xuất phát từ hiện thực khách quan, tái hiện lại nó như nó vốn có,
không được tuỳ tiện đưa ra những nhận định, đánh giá chủ quan.
- Biết phát huy tính năng động sáng tạo của chủ thể, dám đưa ra các giả
thuyết khoa học có giá trị về khách thể, đồng thời biết cách tiến hành kiểm
chứng các giả thuyết đó bằng thực nghiệm.
Trong hoạt động thực tiễn chủ thể phải:
- Xuất phát từ hiện thực khách quan, phát hiện ra những quy luật chi
phối nó.
- Dựa trên các quy luật khách quan đó vạch ra các chương trình, mục
tiêu, kế hoạch; tìm kiếm các biện pháp, công cụ, phương thức để tổ chức
thực hiện các chương trình, mục tiêu, kế hoạch đó; kịp thời điều chỉnh, uốn
nắn hoạt động của con người theo lợi ích và mục đích được đặt ra.
3. Sự vận dụng nguyên tắc khách quan vào sự nghiệp cách mạng
hiện nay ở nước ta
a) Phải tôn trọng hiện thực khách quan, tôn trọng vai trò quyết định
của vật chất. Cụ thể:
Xuất phát từ hiện thực khách quan của đất nước, của thời đại để hoạch
định các đường lối, chiến lược, sách lược xây dựng và phát triển đất nước.
Biết tìm kiếm, khai thác, sử dụng những lực lượng vật chất (từ sức
mạnh cá nhân đến sức mạnh cộng đồng, từ sức mạnh kinh tế đến sức mạnh
quân sự, kết hợp sức mạnh trong nước với sức mạnh ngoài nước,…) để hiện
thực hóa các đường lối, chiến lược, sách lược xây dựng và phát triển đất
nước.
Coi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, coi đại đoàn kết toàn dân
tộc là động lực chủ yếu phát triển đất nước. Biết kết hợp hài hòa các dạng lợi
ích khác nhau (lợi ích kinh tế, lợi ích chính trị; lợi ích vật chất, lợi ích tinh
thần; lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể, lợi ích xã hội…) thành động lực mạnh
mẽ thúc đẩy công cuộc Đổi mới.
Rút ra những bài học kinh nghiệm từ những sai lầm, thất bại trước Đổi
mới, Đảng ta kết luận: “Mọi đường lối chủ trương của Đảng phải xuất phát
từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan”
1
.
b) Phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò của
các yếu tố chủ quan (tri thức, tình cảm, ý chí, lý trí, ), tức phát huy vai
1
Đảng CSVN: Cương lĩnh xạy dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb
Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.5.
23
trò nhân tố con người trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cải tạo đất
nước. Cụ thể:
Coi sự thống nhất giữa tình cảm (nhiệt tình cách mạng, lòng yêu nước,
ý chí quật cường,…) và tri thức (kinh nghiệm dựng nước và giữ nước, hiểu
biết khoa học – kỹ thuật / công nghệ hiện đại,…) là động lực tinh thần thúc
đẩy công cuộc Đổi mới. Chống lại thái độ thụ động, ỷ lại, bảo thủ trì trệ chỉ
biết làm theo kiểu cũ, mà không biết tìm kiếm cái mới và dũng cảm làm theo
cái mới. Cần bồi dưỡng nhiệt tình, phẩm chất cách mạng; cần khơi dậy lòng
yêu nước, ý chí quật cường, tài trí người Việt Nam, v.v Phải phổ biến tri
thức khoa học – công nghệ hiện đại cho đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân
dân; phải biết nâng cao dân trí, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài.
Coi trọng công tác tư tưởng, đẩy mạnh giáo dục tư tưởng, đặc biệt là
giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh cho đông đảo
người Việt Nam chúng ta. Phải nâng cao và đổi mới tư duy lý luận, mà trước
hết là tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam.
Kiên quyết khắc phục và ngăn ngừa tái diễn bệnh chủ quan, duy ý chí,
lối suy nghĩ, hành động giản đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan
ảo tưởng mà bất chấp quy luật khách quan, coi thường tinh hình thực tế.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Anh/Chị hãy phân tích những thành tựu và hạn chế
của các hình thức thế giới quan duy vật trước C.Mác.
2. Anh/Chị hãy phân tích nội dung và bản chất của chủ
nghĩa duy vật biện chứng với tính cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan
khoa học.
3. Anh/Chị hãy phân tích cơ sở lý luận, nêu ra các yêu
cầu phương pháp luận của nguyên tắc khách quan của chủ nghĩa duy vật
biện chứng. Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang vận dụng nó như thế nào
vào sự nghiệp cách mạng hiện nay ở nước ta?
4. Đảng ta khẳng định: “Mọi đường lối, chủ trương
của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan”. Anh/Chị
hãy chỉ ra và phân tích cơ sở triết học của khẳng định đó.
5. Bằng lý luận và thực tiễn, Anh/Chị hãy chứng minh
rằng: Ý thức con người không chỉ phản ánh thế giới mà còn góp phần sáng
tạo ra thế giới.
24
6. Anh/Chị hãy phân tích hoàn cảnh xuất hiện, nội
dung và ý nghĩa triết học câu nói của C.Mác: “Vũ khí của sự phê phán cố
nhiên không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ
có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng sẽ trở thành
lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng”.
7. Bằng lý luận và thực tiễn, Anh/Chị hãy chứng minh
rằng: “Trong mọi thời đại, những tư tưởng của giai cấp thống trị là những tư
tưởng thống trị. Điều đó có nghĩa là giai cấp nào là lực lượng vật chất thống
trị trong xã hội thì cũng là lực lượng tinh thần thống trị trong xã hội”.
25