Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

MỘT SỐ THỦ THUẬT DẠY NGOẠI NGỮ LỚP ĐÔNG NGƯỜI ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (258.57 KB, 4 trang )


MỘT SỐ THỦ THUẬT DẠY NGOẠI NGỮ LỚP ĐÔNG NGƯỜI


ThS. ĐẶNG THỊ TUYẾT MINH
Bộ môn Anh văn
Khoa Khoa học cơ bản
Trường Đại học Giao thông Vận tải

Tóm tắt: Dạy ngoại ngữ ở lớp đông sinh viên là một thử thách đối với giáo viên đảm
nhận môn học này. Bài báo nhằm nêu ra một số thủ thuật trong việc tiếp cận và giảng dạy
ngoại ngữ ở lớp học có đông sinh viên.
Summary: Teaching foreign languages in big classes is a big challenge for teachers. The
article aims to give in brief some techniques involved in dealing and working with big classes.

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Là giáo viên dạy ngoại ngữ - một môn
học với những đặc thù riêng biệt của mình
như phải thực hành giao tiếp nhiều với sinh
viên, phải quán xuyến các hoạt động nói năng
(speaking activities) diễn ra giữa các nhóm
người học v.v… chúng ta không khỏi không
quan tâm tới một điều tưởng chừng như nhỏ
nhặt đối với một số “chuyên gia” dạy lớp
đông các môn học khác trong trường ta như
môn Triết học, Kinh tế chính trị, Tin học, Đại
số, Giải tích, Vật lý… đó là việc phải dạy một
lớp ngoại ngữ đông sinh viên. Trong bài báo
này, chúng tôi sẽ đề cập tới một số thủ thuật
dạy lớp học ngoại ngữ đông sinh viên.
CNTT


_
CB
II. NHỮNG HẠN CHẾ CỦA LỚP HỌC ĐÔNG
NGƯỜI
Khái niệm “Lớp học đông người” chỉ là
tương đối và tùy theo quan niệm của mỗi
người bởi lẽ những giáo viên quen dạy lớp có
từ 10-15 học sinh có thể sẽ thấy lớp 40 sinh
viên là quá đông. Ngược lại những giáo viên
thường dạy những lớp có từ 80-100 sinh viên
hay nhiều hơn sẽ coi lớp học có 40 người là lý
tưởng.
Theo nhóm nghiên cứu của trường Đại
học Tổng hợp Leeds (Vương Quốc Anh) về
học và dạy ngoại ngữ ở các lớp đông người
(Ur, 1996) thì lớp học có từ 40 người học trở
nên có thể coi là lớp học đông. Một đặc điểm
của các lớp học ngoại ngữ ỏ các trường học ở
Việt nam là lớp học rất đông với số lượng
người học lên tới 45-70 người với các khả
năng tiếp thu, vốn ngoại ngữ, kinh nghiệm
học tập, động cơ và mục tiêu học tập không
đồng nhất. Ở các lớp học tại chức, người học
còn khác nhau về lứa tuổi, nghề nghiệp. Do
lớp đông nên các giáo viên rất vất vả trong
việc bao quát và điều khiển lớp cũng như
trong việc tiếp cận giao tiếp với từng người
học. Do vậy sinh viên thường có xu hướng
mất trật tự, mất dần hứng thú dẫn đến tình
trạng không coi trọng giờ học ngoại ngữ. Một

trở ngại lớn do việc lớp học đông gây ra là
phần lớn học sinh không có đủ thời gian để
học và thực hành các hoạt động giao tiếp vì cơ
hội rất hạn chế. Do nhiều yếu tố khách quan
cũng như chủ quan của các trường nên việcc
chia lớp học ngoại ngữ thành các lớp nhỏ hơn


là điều khó có thể thực hiện được (do cơ sở
vật chất còn hạn hẹp, do lực lượng giáo viên
chưa đủ v.v…). Trở ngại này đã được hầu hết
các giáo viên biết đến và bàn luận rất nhiều
nhằm tìm ra một giải pháp tối ưu.
III. MỘT SỐ THỦ THUẬT ÁP DỤNG VỚI
LỚP HỌC ĐÔNG NGƯỜI
1. Nhận dạng và thuộc tên học sinh
trong lớp
Đối với một lớp học đông người, theo ý
kiến chủ quan của chúng tôi, việc đầu tiên
giáo viên phải làm là tìm cách nhớ tên hoặc ít
nhất là có thể nhận dạng sinh viên một cách
dễ dàng. Giáo viên có thể sử dụng một danh
sách sinh viên có dán ảnh hoặc có thể yêu cầu
sinh viên đặt trước mặt chỗ mình ngồi một
mảnh bìa có ghi tên mình. Thuộc tên và nhận
dạng được người học trong lớp giúp cho giáo
viên điều khiển lớp một cách dễ dàng, đồng
thời cũng biết được trình độ của từng người để
có những yêu cầu phù hợp. Ví dụ, câu hỏi khó
có thể dành cho sinh viên khá hơn, câu hỏi dễ

dành cho sinh viên học yếu hơn. Khi tổ chức
cho các sinh viên làm việc theo nhóm, theo
cặp giáo viên có thể chủ động hơn khi xếp
sinh viên sinh viên yếu và khá làm việc với
nhau hoặc xếp các sinh viên có cùng trình độ
thực hành với nhau. Thuộc tên và nhận dạng
được học sinh trong lớp còn mang lại hiệu quả
tích cực đối với tâm lý của người học vì thông
thường khi được thầy, cô giáo gọi đúng tên
mình, sinh viên sẽ cảm thấy họ được quan tâm
hơn và có hứng thú học tập hơn.
CB_CNT
T
2. Tạo không khí học tập thoải mái
thân thiện
Theo các nhà sư phạm học và các nhà
tâm lý học, để giúp người học đạt hiệu quả
học tập cao, giáo viên nên tạo không khí thân
mật, thoải mái trong giờ học chứ không nên
gây căng thẳng, ức chế học viên. Luôn động
viên kịp thời những tiến bộ của người học dù
là nhỏ nhất, đặc biệt đối với những học sinh
yếu, lớn tuổi. Tùy theo tiến trình và đặc điểm
của giờ học mà giáo viên có thể quyết định
nên sửa lỗi khi sinh viên mắc lỗi trong trong
khi thực hành nói và nên sửa lỗi ra sao để
không làm mất hứng thú của sinh viên và
không tạo tâm lý sợ sai khi họ phát biểu.
3. Sử dụng đồ dùng dạy học và sách
giáo khoa

Đây là cách làm truyền thống mà các
giáo viên dạy ngoại ngữ thường sử dụng. Để
có thể bao quát lớp thật tốt, giáo viên có thể
chuẩn bị đồ dùng dạy học trước khi lên lớp
như bảng biểu, danh sách các động từ bất qui
tắc (nếu bài học có liên quan đến phần này),
các hình vẽ minh họa cho các hoạt động lời
nói, cấu trúc câu đặc biệt, tranh ảnh, đồ vật
được dùng như giáo cụ trực quan. Hơn thế
nữa, chúng ta có thể chuẩn bị trước các bài
khóa hoặc bài tập ngữ pháp có liên quan đến
nội dung bài học hôm đó và cho học sinh làm
tại lớp. Những biện pháp này đều có tác dụng
trợ giúp giáo viên trong việc tổ chức tốt các
hoạt động học tập và điều khiển việc học của
sinh viên trong lớp vì họ được làm việc nhiều
hơn nên hứng thú hơn trong việc tiếp thu bài
giảng.
4. Sử dụng các sinh viên khá trong lớp
để trợ giảng
Thông thường trong một lớp học trình độ
của sinh viên không đồng đều, một số em học
yếu hơn hoặc khá hơn các em khác. Giáo viên
có thể sử dụng các học sinh khá, giỏi để hỗ trợ
công việc giảng dạy của mình. Greel (1989)
và Muhidin (1988) cho rằng người học thấy
thoải mái hơn khi học nhóm cùng với người


khác có trình độ khá hơn mình vì không sợ bị

mất thể diện khi mắc lỗi trong khi làm bài tập
hoặc đặt câu hỏi. Để đạt được hiệu quả cao,
thầy, cô giáo phải chuẩn bị và thảo luận trước
với các sinh viên khá giỏi. Những sinh viên
này có thể giảng giải lại vấn đề đó cho các
sinh viên khác trong nhóm mình.
5. Sử dụng bảng trong lớp học
Lời khuyên hữu ích của các chuyên gia
sư phạm đối với các giáo viên khi phải tiếp
cận một lớp học đông người là cần phải có
một bảng đen lớn kết hợp với các thủ pháp sử
dụng bảng một cách có hiệu quả nhất. Cần
viết bảng rõ ràng, chính xác và không nên xóa
những điều giáo viên muốn nhấn mạnh và
muốn học sinh ghi nhớ. Theo kinh nghiệm
bản thân từ phía người dạy, chúng tôi nhận
thấy, tốt nhất nên chia bảng thành hai phần:
một phần dùng để viết những gì có thể xóa đi
được và phần kia dành để ghi những gì giáo
viên cần chốt lại cuối mỗi bài học mà sinh
viên cần ghi nhớ.
CNTT
_
CB
6. Thiết kế các bài tập tiết kiệm thời
gian làm việc trên lớp của giáo viên
Với một lớp đông sinh viên, nhiều giáo
viên cảm thấy không đủ thời gian và điều kiện
cần thiết để nắm rõ mọi hoạt động học tập của
từng sinh viên trong cả lớp, nhất là việc chấm

bài viết, bài tập của sinh viên. Tuy vậy, giáo
viên dạy các lớp đông người vẫn có thể tìm
được các dạng bài tập thích hợp cho sinh viên
làm mà không đòi hỏi nhiều thời gian chữa và
chấm bài. Chúng ta có thể thiết kế các tài liệu
học được “chương trình hóa” như bài tập thay
thế, chuyển đổi, điền từ vào chỗ trống (câu
đơn lẻ hoặc một đoạn văn ngắn). Viết chính tả
là một dạng bài tập khác dễ thực hiện: Giáo
viên gọi học sinh lên bảng viết chính tả, các
học sinh khác nghe đọc và viết vào vở của
mình. Sau đó giáo viên yêu cầu các sinh viên
khác trong lớp xem xét bài viết trên bảng và
cùng chữa lỗi với giáo viên, cuối cùng cả lớp
so sánh bài viết của mình với bài viết đã được
chữa đúng trên bảng.
7. Phân chia sinh viên làm việc theo
nhóm nhỏ
Trong những năm gần đây, việc chia lớp
học thành các nhóm nhỏ (group work) hoặc
thành các cặp (pair work) đã và đang được
nhiều thầy cô giáo áp dụng khi phải tiếp cận
một lớp đông sinh viên. Doff (1988) trong
“Teaching English – a Training Course for
teachers” đã đề cập tới bốn lợi ích của hoạt
động theo nhóm, cặp là: Học sinh được thực
hành nhiều hơn, học sinh bị cuốn hút vào hoạt
động học nhiều hơn, học sinh cảm thấy an
toàn hơn, học sinh có thể giúp đỡ nhau trong
khi học.

Để thực hiện được các hoạt động theo
nhóm, cặp một cách có hiệu quả giáo viên cần
lưu ý một số điểm sau, nhất là trong môi
trường không chuyên ngữ như ở trường ta:
* Cần lưu ý khả năng có thể xảy ra là một
vài thành viên có thể nói nhiều hơn các thành
viên khác, khiến cho sinh viên khác không có
cơ hội tham gia vào các hoạt động học tập
(như giải quyết tình huống, điền từ, chia động
từ…). Để khắc phục tình trạng này, giáo viên
nên thay đổi các thành viên trong nhóm, cặp
và cần có hướng dẫn cụ thể nhiệm vụ cần làm
cho mỗi thành viên.
* Một vấn đề khác cũng có thể nảy sinh,
đó là việc sinh viên có thể mắc lỗi (làm bài
sai) và giáo viên không kịp thời kiểm soát
được ngôn ngữ họ sử dụng trong nhóm, cặp
(Doff, 1988:14). Giáo viên có thể hạn chế việc
mắc lỗi của sinh viên bằng cách: cho sinh viên


thời gian chuẩn bị, giáo viên làm việc với cả
lớp trước bằng cách hướng dẫn một vài cá
nhân làm mẫu sau đó cho thực hành lại, cũng
có thể cho nhóm, cặp làm việc trước sau đó
chữa mẫu.
* Chia nhóm, cặp theo nhiều cách: các
sinh viên thich làm việc với nhau, nhóm cùng
sở thích, cùng giới hoặc tương đối đồng nhất
về trình độ. Có thể chia nhóm các sinh viên có

trình độ không đồng đếu (khá kèm yếu…),
chia nhóm, cặp một cách ngẫu nhiên (ví du:
theo từng dãy bàn trong lớp) và thường xuyên
thay đổi các thành viên trong nhóm để sinh
viên có cơ hội làm việc với các bạn học khác
nhau. Mỗi cách chia đều có những ưu điểm,
nhược điểm nhất định và điều căn bản là phải
có cách điều khiển các hoạt động này sao cho
có hiệu quả.
* Sau khi lớp được chia thành nhóm nhỏ,
mỗi nhóm nên chọn một thành viên làm
“người lãnh đạo nhóm”. Sinh viên này có
trách nhiệm đối với việc truyền đạt các thông
tin trong nhóm cho giáo viên hoặc cho cả lớp,
giám sát hoạt động của nhóm như khống chế
việc sử dụng tiếng mẹ để, khuyến khích các
thành viên làm việc tích cực vào bài tập đang
được giao.
CB_CNT
T
* Một điểm cần lưu ý trước khi cho sinh
viên tiến hành làm việc theo nhóm, cặp, giáo
viên phải có hướng dẫn cụ thể như khi nào bắt
đầu, cần phải làm gì, khi nào kết thúc.
Rất nhiều hoạt động học có thể thực hiện
theo hình thức này để phát triển các kỹ năng
cũng như khả năng nắm bắt các thành tố ngôn
ngữ. Giáo viên có thể cho sinh viên luyện các
mẫu câu, các bài tập thay thế, điền từ, viết lại
mẫu câu. Sinh viên có thể thực hành các bài

hội thoại ngắn, đóng vai trong các tình huống.
Học theo cặp, nhóm có thể giúp phát triển kỹ
năng đọc của sinh viên. Sinh viên có thể cùng
nhau nhận dạng các từ khó, cố gắng tìm hiểu,
đoán nghĩa của chúng hoặc giảng giải cho
nhau, cùng nhau thảo luận tìm ra câu trả lời
cho các câu hỏi của bài học.
III. KẾT LUẬN
Trên đây chỉ là một số biện pháp mà
chúng ta - những giáo viên giảng dạy ngoại
ngữ có thể cân nhắc và đưa vào sử dụng với
lớp học ngoại ngữ đông sinh viên ở Viêt nam.
Mặc dù những kỹ xảo này chưa phải là đầy đủ
và hoàn hảo, phù hợp với mọi tình huống, môi
trường giảng dạy không chuyên ngữ như
trường Đại học Giao thông vận tải, song
chúng tôi thiết nghĩ mỗi thủ thuật dạy học đều
có những điểm mạnh, điểm yếu và đều có thể
tùy hoàn cảnh mà sử dụng sao cho có hiệu
quả. Mặt khác mỗi giáo viên dạy ngoại ngữ
phải nỗ lực rất nhiều để tìm ra một thủ pháp
sư phạm thích hợp với từng đối tượng sinh
viên mà họ giảng dạy để đạt kết quả cao nhất.

Tài liệu tham khảo
[1]. Doff, A. (1988). Teach English - A training
Course for teachers. Cambridge: Cambridge
University Press.
[2]. Long, M.H. & Porter, P. (1985). Group Work
Interlanguage talk and Second language

Acquisition, TESOL Quarterly.
[3]. Muhidin, Drs Tatrang Setia. (1988). Writing
Paragraph and Essays. Through Models and
Exerises.
[4]. Ur, P. (1996). A Course in Language teaching.
Cambridge: Cambridge University Press.
[5]. Phạm Thị Hòa, Nguyễn Thị Bong (1998). Kỹ
thuật dạy lớp đông. Đại học ngoại ngữ- Đại học
Quốc gia Hà nội♦


×