Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Doanh nghiệp nhà nước: 7 khác biệt và 5 đề xuất doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.07 KB, 6 trang )

Doanh nghiệp nhà nước: 7
khác biệt và 5 đề xuất

Hiệp hội Các nhà đầu tư tài chính (VAFI) mới đây đã
đưa ra báo cáo nghiên cứu về các doanh nghiệp nhà
nước của Việt Nam, trong đó nhấn mạnh rằng có 7

Rất ít có doanh nghiệp nhà nước tự nguyện công bố báo
cáo tài chính lên website, và do đó rất khó nắm bắt được
tình hình tài chính và tình hình hoạt động một cách chi tiết.

điểm khác biệt khá cơ bản giữa doanh nghiệp nhà nước
của Việt Nam với các nước khác.
Các điểm khác biệt được VAFI tổng kết bao gồm khái niệm
doanh nghiệp nhà nước; loại hình doanh nghiệp nhà nước
không cổ phần hóa; hình thức huy động vốn; chế độ công
khai minh bạch; cơ quan đại diện cổ phần nhà nước; chế độ
thu nhập của người lao động và tiến trình ra quyết định
quản lý.
Tại Việt Nam, số lượng doanh nghiệp nhà nước hiện có
trên 1.000 doanh nghiệp không cổ phần hóa, trong khi đó
các nước phát triển như nhóm G7 chẳng hạn còn rất ít
doanh nghiệp nhà nước hoặc chỉ còn tồn tại ở những lĩnh
vực cực kỳ quan trọng như dầu khí, xăng dầu, vận tải công
cộng
Đối với vấn đề huy động vốn, trong khi doanh nghiệp nhà
nước Việt Nam có thể được nhà nước cấp vốn và không thể
huy động được vốn cổ phần thì ở nước ngoài doanh nghiệp
nhà nước có thể phát hành cổ phiếu để huy động vốn từ cổ
đông nhà nước và tư nhân, vì hầu hết doanh nghiệp nhà
nước đều là những doanh nghiệp lớn và phải thực hiện


niêm yết.
Về chế độ công khai minh bạch, tại Việt Nam chưa có cơ
chế để doanh nghiệp nhà nước phải công bố báo cáo tài
chính lên website và các phương tiện thông tin đại chúng,
trừ lĩnh vực tài chính ngân hàng. Rất ít có doanh nghiệp
nhà nước tự nguyện công bố báo cáo tài chính lên website,
và do đó rất khó nắm bắt được tình hình tài chính và tình
hình hoạt động một cách chi tiết.
Trong khi đó, doanh nghiệp nhà nước ở nước ngoài công
khai thông tin về tình hình tài chính và tình hình hoạt động
một cách đầy đủ và thường xuyên như một doanh nghiệp
niêm yết; chịu sự giám sát, chất vấn từ các cổ đông thông
qua nhiều hình thức.
Quan trọng nhất là tiến trình ra quyết định của doanh
nghiệp nhà nước hiện cũng ghi nhận sự khác biệt đáng kể.
Tại Việt Nam, những quyết định quan trọng phải xin phê
chuẩn từ cơ quan đại diện nhà nước và tiến trình thông qua
quyết định mất nhiều thời gian.
Trong khi ở nước ngoài, nhà nước nắm giữ cổ phần chi
phối nhưng hoạt động như một cổ đông lớn và cổ đông nhỏ
lẻ có thể phủ quyết những quyết định không có lợi cho
doanh nghiệp hoặc cho họ.
Theo VAFI, sự khác biệt như trên là căn nguyên của nhiều
vấn đề mà các doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam đang
gặp phải và do đó, cần nhanh chóng thu hẹp sự khác biệt
này.
Theo VAFI, Việt Nam không nên duy trì mô hình doanh
nghiệp nhà nước hoạt động công ích vì các loại hình doanh
nghiệp nhà nước công ích như duy tu đường xá cầu cống,
thủy lợi….cần được cổ phần hóa để tạo cơ chế hoạt động

cạnh tranh hiệu quả, nâng cao chất lượng hoạt động đồng
thời giảm thiểu chi phí của nhà nước.
Thứ hai, nên qui định tất cả doanh nghiệp nhà nước phải
thực hiện chế độ công bố thông tin về tình hình tài chính và
tình hình hoạt động như 1 công ty niêm yết; có thể chấp
nhận công việc kiểm toán, tiến độ công bố thông tin là
chậm hơn so với công ty niêm yết. Bên cạnh đó, cần công
bố thông tin một cách đầy đủ, thường xuyên và công khai
như công ty niêm yết để tăng cường hoạt động giám sát
doanh nghiệp nhà nước.
Thứ ba, những doanh nghiệp nhà nước đã hoàn thành cổ
phần hóa trong các năm vừa qua mới chỉ ở giai đoạn bắt
đầu của tiến trình cải tổ, cần phải tiếp tục tiến trình cải tổ
theo hướng bán bớt hoặc bán toàn bộ cổ phần nhà nước cho
nhà đầu tư chiến lược hoặc cho công chúng để tăng cường
quản trị doanh nghiệp, tăng khả năng tài chính nội tại của
doanh nghiệp, đồng thời phải thực hiện niêm yết chứng
khoán.
Thứ tư, không nên hình thành thêm các tập đoàn, tổng công
ty nhà nước bằng cơ chế hành chính. Kinh nghiệm thực tiễn
trên thế giới và ở nước ta đã chỉ ra rằng con đường hình
thành doanh nghiệp qui mô vốn lớn hoạt động hiệu quả
phải là con đường cổ phần hóa và niêm yết chứng khoán.
Việc hình thành các Tập đoàn từ phép cộng hành chính ít
giải quyết được các vấn đề lớn về nâng cao quản trị doanh
nghiệp và huy động vốn.
Thứ năm, cần nhanh chóng chuyển đại bộ phận doanh
nghiệp nhà nước sang mô hình hoạt động công ty cổ phần.
Tiến trình bán đáng kể cổ phần nhà nước, thu hút đối tác
chiến lược có thể phải kéo dài nhiều năm, vì còn phụ thuộc

vào sức khỏe của thị trường chứng khoán.
Tuy nhiên, theo VAFI, việc cùng một thời điểm chuyển đại
bộ phận doanh nghiệp nhà nước sang mô hình công ty cổ
phần có cổ phần đa số của nhà nước, kể cả việc chấp nhận
nhà nước nắm giữ 95% vốn điều lệ lúc ban đầu không có gì
khó khăn cả, nếu thực hiện đồng thời thì tiến trình này chỉ
mất 3 năm.
Vẫn theo VAFI, việc chuyển đổi đồng loạt theo cách thức
như trên sẽ làm cho gần như toàn bộ doanh nghiệp nhà
nước hoạt động hiệu quả hơn rất nhiều, đó sẽ là tiền đề để
dễ dàng thực hiện tiến trình cải tổ doanh nghiệp.
Trong một nỗ lực nhằm thúc đẩy cải cách doanh nghiệp
nhà nước, Chính phủ mới đây đã quyết định tăng cường
nhân sự cho Ban chỉ đạo Đổi mới doanh nghiệp nhà nước,
theo đó lĩnh vực quan trọng này sẽ có một cán bộ lãnh đạo
chuyên trách để thúc đẩy các công việc cần thiết.

×