Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Con nghê - vật linh thuần Việt – phần 2 docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.77 KB, 7 trang )

Con nghê - vật linh
thuần Việt – phần 2

Phân biệt con Nghê và con Lân

Con Nghê là linh vật đặc biệt của văn hóa
Việt Nam, con Lân thuộc văn hóa Trung
Hoa. Về hình dạng, con Lân trông giống
sư tử, mà có sừng, chân như chân trâu,
thân hình tròn mập, có vẩy như vẩy rồng,
miệng ngậm quả cầu, hay ngồi chống
chân lên quả cầu. Con Nghê có kỳ mà không có sừng, mình
thon nhỏ, chân như chân chó, dáng thanh, trông rõ ràng
dáng chó chứ không tròn mập như dáng như sư tử, đuôi
Nghê dài, vắt ngược lên lưng, đuôi Lân ngắn, xòe như cánh
chim hay cuộn tròn như đuôi thỏ.









Bát hương con Nghê Hình trích từ Vietnam ceramics, A
separate tradition, John Guy và John Stevensen, Avery
Press 1997 Một số người lại còn tưởng lầm con Nghê là
con sư tử. Bởi vì chữ “Nghê” (hay “toan nghê”) trong chữ
Hán vốn có nghĩa là con sư tử. Tuy nhiên phải để ý rằng có
nhiều chữ Hán-Việt mà nếu ta tra tự điển Tầu, thì lại có


nghĩa khác hẳn, bởi vì ông cha ta rất nhiều khi mượn chữ
Hán nhưng lại đổi nghĩa đi mà dùng (người Pháp khi
nghiên cứu về Việt Nam thì lại thường học chữ Hán của
người Tầu, tra cứu sách Tầu viết về Việt Nam - chứ không
tìm hiểu thẳng vào văn hóa Việt - nên nhiều khi sai nghĩa,
sai sự việc rất xa. Người Pháp cũng vì học theo Tầu nên đã
sai theo, cũng như từng theo sách Tầu mà gọi sai nước ta là
An Nam, trong khi các văn thư cổ của triều đình Huế thì
chỉ dùng chữ Việt Nam hay Ðại Nam. Trong quyển Chơi
chữ, Lãng Nhân đã từng đưa ra vài ví dụ như: “tử tế” có
nghĩa là “tinh mật, kỹ lưỡng” ta lại quen dùng theo nghĩa
hiền hậu; “lịch sự” có nghĩa là “trải đời” ta dùng là “sang
trọng”, “trân trọng” nghĩa là “quý trọng” lại bị đổi là
“nghiêm cung, kính trọng” Trong cách thức đó, ông cha
ta đã không cần để ý đến chữ “Nghê” có nghĩa là con gì
trong chữ Hán, mà cứ lấy đó để đặt tên cho “chó đá hóa
linh”. Nếu ai đã từng nhìn thấy tượng con Nghê thì cũng
đều nhận thấy rằng đó là con chó đang ngồi chứ không phải
là con lân hay con sư tử. Vài nhà nghiên cứu đã không có
cơ hội này nên chỉ biết theo sách của người Pháp, tự điển
của người Tầu mà lầm con nghê Việt Nam ra con sư tử hay
con lân của Tầu. Chúng tôi chủ trương rằng nghiên cứu đồ
cổ thì phải nhìn thấy tận mắt, tốt hơn nữa là được cầm
trong tay, và được nghe từ tiếng nói dân gian trong thôn
làng xưa rồi suy nghẫm, tra cứu, đối chiếu. Vì thế, ngoài
những hình chạm khắc trên cốn, tượng con nghê trên đầu
đao, trên cổng các ngôi đình làng cổ ở miền Bắc, lời chỉ
dẫn của các cụ già, chúng tôi còn dựa sự quan sát của mình
trên các tượng con nghê, các nậm rượu trong bộ sưu tập đồ
cổ của riêng mình.



Thời thịnh đạt của con Nghê


Trong những thế kỷ Bắc thuộc, khi người Trung Hoa làm
đủ mọi cách để hủy diệt văn hoá Việt Nam, như tịch thu,
hủy diệt và cấm làm trống đồng, bắt người Việt đổi theo họ
Tầu (vì thế những họ cổ Việt Nam như họ Thi (Thi Sách),
họ Trưng (Trưng Trắc) không còn nữa ), thì không biết
ông cha ta có làm hình tượng chó đá và con Nghê không?
Quan sát cách sinh hoạt của người thượng trên các miền
cao nguyên, ta thấy rằng con chó vẫn là con vật rất quan
trọng của đời sống thôn dã. Vậy thì ai có thể quả quyết
rằng, chó đá, con Nghê không được phát sinh từ thời xa
xưa? Tuy nhiên chúng tôi cũng chưa có dịp may mắn được
thấy các hình ảnh hay vật tích hình con Nghê của thời đại
cổ xưa này. Ước rằng có người với những phương tiện đầy
đủ sẽ làm các việc khai quật nghiên cứu và tìm ra di tích
con Nghê từ thời xa xưa.

Sau khi Ngô Quyền khởi lại thời tự chủ, sau khi Đinh Bộ
Lĩnh, Lê Hoàn tổ chức lại trật tự trên đất nước ta, nhà Lý,
nhà Trần, rồi nhà Lê nối ngôi dựng lại nền văn hóa thuần
Việt rực rỡ, phong phú. Bắt đầu từ Lý Thái Tổ dời kinh đô
từ Hoa Lư về Thăng Long, người Việt bừng lên khí thế dân
tộc. Giống như thời Hùng Vương thuở trước, từ đây cùng
văn học, xã hội, chính trị, nghệ thuật tạo hình của người
Việt phát triển rực rỡ, phối hợp bản chất dân tộc với ảnh
hưởng Trung Hoa và Ấn Độ, tạo nên một nền văn hóa

thuần Việt, song song và biệt lập với văn hóa Trung Hoa.

Trong bối cảnh văn hoá rực rỡ ấy, với sự nẩy nở của những
nghệ phẩm, tác phẩm Việt Nam, sự phát triển của kiến trúc
đình chùa, sự phát triển của giới quý tộc, trưởng giả càng
đòi hỏi nhiều hơn nữa những phẩm vật tế tự, sinh hoạt và
trưng bày. Khung cảnh và nhu cầu này đưa đến biết bao
phát triển của nghệ thuật tạo hình. Nhu cầu tinh thần, nhu
cầu vật chất được đáp ứng bởi bàn tay, khối óc của các
nghệ nhân Việt lúc nào cũng xông xáo sáng tạo. Biết bao
kiến trúc, cung điện, đình chùa mới mái cong thuần túy
Việt được dựng lên. Đồ gốm Việt Nam bừng lên tổng hợp
kỹ thuật và sắc men Trung Hoa với dạng thức, nét vẽ, và
phong cách hoàn toàn Việt Nam. Từ đây những bình, ấm,
tô, chén đĩa những món đồ Lý Trắng, Lý Nâu, Lý Lục,
Lý Đen, những món đồ men ngọc, chuyển qua những món
men trắng hoa chàm của đời Trần, đời Lê tuyệt vời, được
sản xuất mạnh mẽ; Rồi tiếp theo đó, sang thế kỷ XIV, XV,
XVI là thời của gốm Chu Đậu, thời tuyệt đỉnh của đồ gốm
Việt Nam, với biết bao phẩm vật xuất cảng sang vùng Ba
Tư, Nam Dương, Phi Luật Tân, Nhật Bản

Bình trầm hương thòi Chu Ðậu, thế kỷ 16, 17 Hình trích từ
Vietnam ceramics, A separate tradition, John Guy và John
Stevensen, Avery Press 1997 Dựa trên số lượng và phẩm
tính của những con Nghê trong các viện bảo tàng và bộ sưu
tập của các tư nhân, ta thấy rằng thời thịnh đạt nhất của con
Nghê là từ đời Lý cho đến cuối đời Tây Sơn (thế kỷ XI đến
thế kỷ XVIII). Suốt từ đời Lý, con Nghê được trọng dụng ở
khắp mọi nơi, từ những ngôi nhà dân dã, từ cung đình, cho

đến lâu đài, đình chùa, lăng miếu Đến cuối đời Lê, loạn
Trịnh - Nguyễn phân tranh, đất nước đi vào 300 năm khói
lửa, nhưng không vì thế mà văn hoá Việt điêu tàn, mà trái
lại càng phát triển mạnh thêm về mọi mặt (thơ văn, kiến
trúc, khắc gỗ, gốm sứ ). Trong suốt 8 thế kỷ này, các bình
hương trầm, các nậm rượu, và các tượng hình con Nghê là
những món không thể thiếu ở nơi tế tự, ở các nhà trưởng
giả cho đến nhà bình dân.


×