Đền Vua Lê Đại Hành
Đền Vua Lê Đại Hành: Cách đền vua Đinh Tiên Hoàng về phía
Bắc 300m là đền thờ vua Lê Đại Hành, cũng xây dựng trên nền
cung điện xưa của kinh đô Hoa Lư. Đền ở làng Trường Yên Hạ
nên gọi là đền Hạ. Đền lấy núi Đèn làm án. Kiến trúc của đền cũng
xây dựng theo kiểu "nội công ngoại quốc", có thêm Từ Vũ, không
có ngưỡng cửa đá và những tảng đá cổ bồng tôn cao như đền vua
Đinh Tiên Hoàng.
Đền vua Lê Đại Hành còn giữ nguyên được lối kiến trúc và điêu
khắc ở thời kỳ Hậu Lê. Đền vua Lê Đại Hành có ba toà: Bái
Đường, Thiêu Hương, Chính Cung. Đền thấp hơn đền vua Đinh,
lại có nhiều bức đại tự sơn son thếp vàng, nên tạo cảm giác tráng
lệ, mang tính chất huyền ảo hơn.
Bái Đường đền Lê Đại Hành có nhiều mảng chạm khắc gỗ rất điêu
luyện và tinh xảo. Qua Bái Đường là đến Thiêu Hương thờ tứ trụ
triều Tiền - Lê.
Nối với Thiêu Hương là Chính Cung, gian giữa của Chính Cung,
trên bệ đá đặt tượng vua Lê Đại Hành. Gian bên trái tượng vua Lê
Đại Hành là tượng Hoàng hậu Dương Vân Nga, quay mặt về phía
đền Đinh. Gian bên phải tượng Lê Đại Hành, đặt trên bệ đá tượng
Lê Long Đĩnh (Lê Ngoạ Triều) là con thứ năm của vua Lê Đại
Hành và là đời vua thứ ba của nhà Tiền Lê. Điều đặc biệt của đền
Lê Đại Hành là nghệ thuật chạm khắc gỗ ở thế kỷ thứ XVII đã đạt
đến trình độ điêu luyện và tinh xảo.
Nguồn: saigontoserco
Đền Vua Lê Đại Hành
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Cổng đền Vua Lê Đại Hàn
h
Đường chính đạo đền Vua Lê Đại Hành
Đền Vua Lê Đại Hành là một di tích lịch sử văn hóa thuộc khu di
tích cố đô Hoa Lư tỉnh Ninh Bình. Đền nằm cách đền vua Đinh
Tiên Hoàng 300 mét. Đền vua Lê qui mô nhỏ hơn nên không gian
trong đền khá gần gũi và huyền ảo. Đền cũng xây theo kiểu nội
công ngoại quốc với ba toà: Bái Đường, Thiên Hương, Chính
Cung - thờ Lê Hoàn, bên phải là Lê Long Đĩnh, bên trái là hoàng
hậu Dương Vân Nga hướng về đền vua Đinh. Nét độc đáo ở đền
thờ vua Lê Đại Hành là nghệ thuật chạm gỗ thế kỷ 17 đã đạt đến
trình độ điêu luyện, tinh xảo. Tương truyền, bà mẹ mơ thấy hoa
sen mà sinh ra Lê Hoàn, trong lúc đi cấy ở cạnh ao sen. Bà đã ủ Lê
Hoàn trong khóm trúc và được con hổ chúa rừng xanh ấp ủ. Sau lời
cầu xin của bà mẹ con hổ bỏ đi. Sau này lớn lên Lê Hoàn đã lập ra
nghiệp lớn: “Phá Tống, bình Chiêm” lừng lẫy. Vì vậy mà nghệ
thuật điêu khắc gỗ dân gian Việt Nam của các nghệ nhân ở đây
cũng thống nhất với truyền thuyết về các đề tài ca ngợi Lê Hoàn.
Nghệ thuật tạc tượng
Đền Vua Lê Đại Hành dựng trên nền cũ của cung điện thuộc cố đô
Hoa Lư, kiến trúc cơ bản thuộc phong cách cuối thế kỷ XVII, đến
thời Nguyễn có sự tu sửa lớn - nhất là xây dựng thêm nửa phía
ngoài. Trong cung cấm của đền có ba pho tượng: Hoàng đế Lê Đại
Hành ở gian giữa ngồi ngai, hoàng hậu Dương Vân Nga ở gian bên
trái và vua Lê Long Đĩnh ở gian bên phải. Theo lý giải của người
xưa, Dương Vân Nga là cánh tay phải của vua, là người góp công
đưa ông lên ngôi hoàng đế song vì lòng vẫn hướng về đền thờ
người chồng cũ Đinh Tiên Hoàng nên người xưa bố trí tượng bà
ngồi ở hông bên trái. Hai pho tượng ở hai gian bên xoay ngang để
cùng nhìn vào gian giữa, tạo sự tập trung tăng vẻ tôn nghiêm cho
nhân vật chính Lê Đại Hành.
Tế Hội đền vua Lê
Mới quan sát, cả ba pho tượng này đều có dáng dấp thời Nguyễn vì
nước sơn mới và những hoa văn trang trí rồng - mây - hoa - lá vừa
quen thuộc ở thời Nguyễn vừa làm theo kỹ thuật uốn dán vào. Để ý
kỹ hơn lại thấy có một số nét của cuối thế kỷ XVII sang thế kỷ
XVIII hoa cúc trên mũ bà Dương Vân Nga rực rỡ mà gọn đẹp, hài
của các tượng đều chạm mảng lớn với đầu rồng đơn giản. Tuy
nhiên trên tổng quan cả ba tượng này có nhiều nét riêng tiếp nhận
từ tượng thời Mạc để rồi phát triển vào những năm đầu thế kỷ
XVII. Như vậy ở ba pho tượng này có ba lớp văn hóa chồng nhau,
do các thời sau tu sửa đã đắp thêm vào, chồng phủ ra ngoài.
Dáng chung của cả ba pho tượng này là thế ngồi hơi dướn lên,
cẳng chân trên đến đùi quá ngắn như thể từ một khối gỗ liền bị hạn
chế chiều dày, gợi lại những tượng đá và nhất là phù điêu đá nổi
cao ở thời Mạc, do đó người ngồi ngai hay bục cứ như bị toài
xuống. Hai cánh tay dưới cũng bị thu ngắn để bàn tay úp đúng trên
đùi. Tượng Hoàng đế Lê Đại Hành đội mũ bình thiên tuy thời sau
thêm nhiều, song phía trước mũ còn chạm nổi chữ Vương to theo
như mũ tượng các đức vua Mạc thế kỷ trước. Tóc của Lê Đại Hành
và Lê Long Đĩnh không làm thành mảng tam giác chảy xuống bệ
như các tượng thời Nguyễn, mà đều cắt ngắn đến gáy, còn tóc bà
Dương Vân Nga được tết một dải chảy sau tai xuống vai rồi chia ra
túm về bả vai đằng trước túm ra sau lưng, giống như các tượng
Quan Âm thời Mạc và chuẩn bị cho tượng giữa thế kỷ XVII. Điều
đặc biệt lý thú là ở tượng Lê Ngọa Triều có bối tử ở sau lưng
không bị sơn phủ lớp trang trí mới nên trong đồ án ô vuông còn rất
rõ con rồng chạm đơn giản, rất giống với hình rồng trên hai tấm
bia Hoằng Định nói trên, các tượng này đều ở thế ngồi tự tin,
nghiêm chỉnh mà thoải mái, dáng toàn thân cân đối là sự chuẩn bị
cho tượng khoảng giữa thế kỷ XVII. Khuôn mặt hoàng đế Lê Đại
Hành phương phi, đầy đặn, sáng láng. Khuôn mặt Dương Vân Nga
trông rất hiền thục và mang nét chân dung riêng, khuôn trăng đầy
đặn, phúc hậu. Đây là những tượng đẹp mở đầu cho loạt tượng
chân dung thời Lê trung hưng.
Đền Vua Đinh Tiên Hoàng
Đền Vua Đinh Tiên Hoàng: Đền quay hướng Tây toạ lạc trên một
khu đất rộng, thuộc thôn Vân Bòng, xã Gia Phương, huyện Gia
Viễn. Đền có 3 toà, kiến trúc theo kiểu "tiền nhất, hậu đinh liền
nhau". Tiền Đường 5 gian, kiến trúc theo kiểu đình làng.
Điều đặc biệt là trong Hậu Cung chỉ đặt một tượng vua Đinh Tiên
Hoàng làm bằng gỗ mít, sơn son thếp vàng, cao gần 2 mét. Phía
trước đền có hồ bán nguyệt là nơi tụ thuỷ, giữa sân đền là một sập
Long Sàng bằng đá, tượng trưng cho vua ngự triều.
Đến thăm đền vua Đinh Tiên Hoàng ở xã Gia Phương du khách
như được về thăm quê hương của người anh hùng thế kỷ thứ X,
với nhiều huyền thoại về một thời thơ ấu của Đinh Bộ Lĩnh - nơi
mà xưa kia Đinh Bộ Lĩnh và các bạn cùng làng đã từng chăn trâu
cắt cỏ như Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Trịnh Tú, Lưu Cơ đã nuôi
trí lớn dẹp loạn mười hai sứ quân thống nhất đất nước.
Nguồn: saigontoserco
Đền Vua Đinh Tiên Hoàng
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Đền Vua Đinh nhìn từ cổng đền
Tế hội đền Vua Đinh
Đền Vua Đinh nhìn từ Mã Yên Sơn
Đền Vua Đinh Tiên Hoàng thuộc quần thể di tích cố đô Hoa Lư toạ
lạc ở xã Trường Yên, Hoa Lư, Ninh Bình. Đền nằm trên khuôn
viên rộng 5ha, thuộc vùng bảo vệ đặc biệt của khu di tích. Đền
được xây dựng theo kiểu nội công ngoại quốc.[1], quay hướng
đông. Trước mặt đền là núi Mã Yên có hình dáng giống cái yên
ngựa. Trên núi có lăng mộ vua Đinh.
Kiến trúc
Đền vua Đinh được xây dựng trên nền cung điện kinh đô Hoa Lư
xưa, theo kiểu kiến trúc "nội công ngoại quốc". Xung quanh khu
vực này, các nhà khảo cổ đã đào được một mảng sân gạch có họa
tiết hoa sen và đôi phượng vờn nhau. Trên mặt gạch có dòng chữ
"Đại Việt Quốc quân thành chuyên" và "Giang tây quân"; chứng tỏ
đây là những viên gạch thời Đinh - Lê.
Đền vua Đinh được xây dựng theo kiểu đăng đối trên trục thần
đạo. Bắt đầu từ hồ bán nguyệt và kết thúc ở Chính cung. Hồ bán
nguyệt là một hồ nước xây dựng theo kiểu kiến trúc cung đình xưa.
Trong hồ thả hoa súng. Sau Minh Đường - Hồ Bán Nguyệt là bức
bình phong. Theo thuật phong thủy, bình phong để án ngũ gió độc.
Ở giữa bình phong là bông gió với họa tiết kiểu hoa cúc, ý nói lên
sự trường tồn. Ngọ môn quan là cổng ngoài dẫn vào đền. Trên vòm
cửa cong là hai con lân vờn mây. Phía trên cổng là hai tầng mái
che với tám dao mái cong vút. Cổng ngoài có ba gian lợp ngói, mặt
trong cổng ghi bốn chữ "Tiền triều phụng khuyết". Toà thứ hai là
Nghi môn (cổng trong) với 3 gian dựng bằng gỗ lim kiến trúc theo
3 hàng chân cột. Qua nghi môn ngoại, dọc theo đường thần đạo
đến Nghi môn nội. Các họa tiết trang trí của nghi môn nội giống
như nghi môn ngoại, ngay cả kiến trúc có ba hành cột cũng giống
nhau. Đền thờ có hai lớp cửa vào đền cũng tương tự như hai vòng
thành Hoa Lư xưa. Đi hết chính đạo, qua hai trụ cột lớn là đến sân
rồng. Giữa sân rồng có một long sàng bằng đá chung quanh chạm
nổi. Hai bên sập rồng có hai con nghê đá chầu, được tạc trên hai
tảng đá xanh nguyên khối. Tiến dần vào trong, ở giữa có long sàng
bằng đá. Cạnh hông của sập đá tạc đầu rồng. Bề mặt của sập rồng
được tạc nổi hình con rồng với dáng vẻ khỏe mạnh và uy dũng.
Hai bên long sàng là tượng hai con nghê chầu bằng đá xanh thưộc
thế kỷ 17. Long sàng tượng trưng cho bệ rồng nên được điêu khắc
với họa tiết rất đẹp. Hai tay vịn của Long sàng là hai con rồng đang
uốn mình trên tầng mây cao. Dáng rồng rất thanh cao với đầu
ngẩng cao để bờm bay phất phới, râu dài thả rủ về phía trước.
Xung quanh long sàng có cắm cờ tượng trưng cho các đạo quân, có
nghê chầu, có ngựa trắng
Từ sân rồng bước lên là Bái đường 5 gian, kiến trúc độc đáo. Phía
sau long sàng là điện thờ Vua Đinh Tiên Hoàng. Cấu trúc điện có
hai phần: Bái đường và chính cung. Tòa bái đường để bàn thờ cộng
đồng. Trên bàn thờ là nhang án được chạm trổ rất đẹp, thuộc về thế
kỷ 17. Tiếp đến là Thiêu hương, kiến trúc theo kiểu ống muống,
nơi thờ tứ trụ triều đình nhà Đinh là các quan trung thần. Đi hết tòa
Thiêu hương vào chính cung 5 gian. Ngai thờ Vua Đinh Tiên
Hoàng được đặt ở giữa chính cung, trang trí sơn son thếp vàng.
Ngai được đặt trên bệ với tượnng rồng tạc giống như rồng nơi long
sàng. Gian giữa thờ tượng Vua Đinh Tiên Hoàng được đúc bằng
đồng đặt trên bệ thờ bằng đá xanh nguyên khối. Hai bên bệ đá có
hai con rồng chầu, tạc theo kiểu yên ngựa. Trên bức đại tự có ghi
hàng chữ: “Chính thống thủy” với ý nghĩa ca ngợi Đinh Bộ Lĩnh là
người mở nền chính thống. Hai bên cột giữa có treo câu đối: “Cồ
Việt Quốc đương Tống Khai Bảo – Hoa Lư đô thị Hán Tràng An”
(Nghĩa là: Nước Đại Cồ Việt sánh ngang với nước Tống - Kinh đô
Hoa Lư bề thế như kinh đô Tràng An ). Gian bên phải thờ tượng
thái tử Hạng Lang và Đinh Toàn đều quay mặt về phía Bắc, là hai
con thứ của Vua. Gian bên trái thờ tượng Nam Việt Vương Đinh
Liễn quay mặt về phía Nam là con trưởng của vua. Đền Đinh Tiên
Hoàng là một công trình kiến trúc độc đáo trong nghệ thuật chạm
khắc gỗ của các nghệ sĩ dân gian Việt Nam ở thế kỷ 17. Đền Vua
Đinh cũng là công trình nghệ thuật đặc sắc với nhiều cổ vật quý
hiếm được bảo tồn, như gạch xây cung điện có khắc chữ Đại Việt
quốc quân thành chuyên, cột kinh Phật khắc chữ Phạn, các bài bia
ký…
Dấu ấn mỹ thuật
Người cố đô Hoa Lư lập đền thờ Vua Đinh Tiên Hoàng cũng như
vẽ tranh thờ Đinh Tiên Hoàng đều theo cách riêng của mình. Điều
khác biệt làm nên sự phức tạp đó chính là mối quan hệ giữa dân
gian và bác học được dung hợp và nhuần nhuyễn trong văn hóa
làng. Một cái nhìn cận cảnh về văn hóa làng qua bia ký ở hai ngôi
đền vua Đinh, vua Lê là việc khảo sát các dữ liệu lịch sử, văn hóa,
xã hội và tín ngưỡng được ghi lại trên 7 chiếc bia đá hiện tồn. Đền
Đinh - Lê là một trong những ngôi đền lớn ở Việt Nam còn sót lại.
Qua các các triều đại, hai ông Vua được phong tặng nhiều mỹ hiệu.
Trong chiếc bia ở đền vua Đinh nhắc đến việc thờ tự hương hỏa,
nhìn vào danh sách công đức người ta hình dung được các vị chức
sắc, các gia tộc thời đó. Chiếc bia cuối cùng khắc năm 1843 cũng
thấy rất nhiều tên tuổi các cựu lý trưởng, ông cai, ông xã trưởng và
các họ tộc. Nhìn vào danh sách các tên tuổi lại thấy những họ
Dương, họ Bùi, họ Phạm, họ Nguyễn, họ Ngô Như thế miếu thờ
vua Đinh, vua Lê chưa bao giờ là của riêng một dòng họ Đinh, họ
Lê nào cả. Vua Đinh - vua Lê ở đây trở thành một thượng đẳng
thần không của riêng một dòng họ nào. Các bia đá ở đền hai vua
Đinh - Lê sớm thấy sự xuất hiện tên tuổi, quê quán những người
thợ tạc bia.
Những dấu ấn văn hóa Hán - Mãn (Trung Hoa) đến từ một địa khí
hậu Lạnh-Khô bị khúc xạ trong một môi trường nóng - ẩm sau lũy
tre làng ở Hoa Lư (Bắc Bộ -Việt Nam). Nếu như rồng hay kỳ lân ở
Trung Hoa thường xuất hiện cùng mây, gió thì ở đây, nó đã bị gắn
vào môi trường sông nước. Làng nước như ở đồng bằng Bắc Bộ,
trước hết là những ngôi làng ven sông, nhìn đâu cũng thấy ao hồ,
đầm phá. Địa văn hóa của mảnh đất Hoa Lư vốn càng như vậy.
Con rồng phun nước chứa đựng những ước mong “lạy trời mưa
xuống” của các cư dân lúa nước. Thế nên cạnh bên những con rồng
rất Trung Hoa là những con cá con tôm tung tăng trong các đám
mây. Dễ nhận thấy những nét tương đồng, ảnh hưởng của cách tạo
hình ở những bức bệ rồng ở các cung điện đền đài Trung Hoa với
các sập rồng ở đền vua Đinh. Nhưng cũng chính ở đây người ta dễ
dàng nhận thấy những dấu ấn mỹ thuật của văn hóa làng - nước
của người Việt. Nhận xét về tính độc đáo của sập rồng ở đền vua
Đinh Tiên Hoàng ở Hoa Lư, các nhà nghiên cứu cho rằng sập rồng
đặc biệt đẹp sau những cơn giông mùa Hạ. Mặt sập loang loáng
nước, như con rồng đang vẫy đạp để bay lên chí tầng mây. Ở
Trung Hoa không có cảnh tượng này. Không phải ở Bắc Kinh,
Nam Kinh hay Khúc Phủ không có những cơn giông mùa Hạ, mà
cốt yếu ở đây là cảm thức địa văn hóa khác nhau. Các bệ rồng
Trung Hoa được đặt ở vị trí nghiêng, dốc theo lối đi nên không
đọng được nước mưa. Hai sập đá có chạm hình rồng trên mặt sập
tạo hình tuy có khác nhau về phong cách tạo hình và niên đại
nhưng đều giống nhau trong cách tạo đường diềm bao bốn bên để
không cho nước mưa thoát ra nên hễ có mưa là rồng gặp nước
thỏa ước mong vùng vẫy.
Các đền khác
Cửa Đông
cố đô Hoa Lư ngày lễ hội
Các đền thờ
Đinh Bộ Lĩnh có thể thấy ở nhiều vùng miền khác
nhau, tiêu biểu như ở
Ninh Bình có 16 nơi thờ,
[2]
trong đó có đền
thờ Đinh Bộ Lĩnh ở xã Gia Phương, đền thung Lau ở động Hoa
Lư, Gia Viễn; đền Mỹ Hạ xã Gia Thủy, các đình thôn Me, thôn
Lược xã Sơn Lai,
Nho Quan; đình Yên Thành, đình Yên Trạch ở
cố đô Hoa Lư Nam Định có đền vua Đinh ở xã Yên Thắng, đền
Cộng Hòa, đình Cát Đằng và đình Thượng Đồng ở xã Yên Tiến,
Ý
Yên; ở làng việt cổ Bách Cốc, Vụ Bản; đền vua Đinh ở Giao
Thủy…
Hà Nam có đền Lăng ở Thanh Liêm; đền Đặng Xá ở Văn
Xá,
Kim Bảng; đền Ung Liêm ở Phủ Lý Xa hơn là Đà Nẵng có
đền thờ vua Đinh ở xã Hoà Khương,
Hoà Vang; Lạng Sơn có đền
thờ Vua Đinh Tiên Hoàng ở thôn Quảng Trung xã Quảng Lạc,
thành phố Lạng Sơn; Thanh Hóa có đền Vua Đinh ở làng Quan
Thành,
Triệu Sơn, Đăk Lăk có đình Cao Phong
[3]
ở Hòa Thắng,
Buôn Ma Thuột
Bên cạnh các đền thờ, tượng đài anh hùng Đinh Bộ Lĩnh cũng
được xây dựng ở
thành phố Hồ Chí Minh tại một số nơi như suối
Tiên và công viên Tao Đàn. Tại trung tâm
thành phố Ninh Bình
cũng xây dựng khu quảng trường - tượng đài Đinh Tiên Hoàng Đế.
Vào dịp lễ hội cố đô Hoa Lư, các đền thờ Vua Đinh và các di tích
thờ danh nhân thời Đinh trong khu vực đều tham gia lễ rước kiệu
và chân nhang các danh nhân về đền Vua Đinh Tiên Hoàng.
LAST_UPDATED2