Câu 2: Các thiết bị phần cứng mạng
Network Adapter (Bộ điều hợp mạng)
Thành phần đầu tiên nên đề cập tới trong số các thiết bị phần cứng mạng là bộ điều
hợp mạng (network adapter). Thiết bị này còn được biết đến với nhiều tên khác
nhau như network card (card mạng), Network Interface Card (card giao diện
mạng), NIC. Tất cả đều là thuật ngữ chung của cùng một thiết bị phần cứng. Công
việc của card mạng là gắn một cách vật lý máy tính để nó có thể tham gia hoạt
động truyền thông trong mạng đó.
Điều đầu tiên bạn cần biết đến khi nói về card mạng là nó phải được ghép nối phù
hợp với phương tiện truyền đạt mạng (network medium). Network medium chính
là kiểu cáp dùng trên mạng. Các mạng không dây là một mảng khác và sẽ được
thảo luận chi tiết trong một bài riêng sau.
Để card mạng ghép nối phù hợp với phương tiện truyền đạt mạng là một vấn đề
thực sự vì chúng đòi hỏi phải đáp ứng được lượng lớn tiêu chuẩn cạnh tranh bắt
buộc. Chẳng hạn, trước khi xây dựng một mạng và bắt đầu mua card mạng, dây
cáp, bạn phải quyết định xem liệu nên dùng Ethernet, Ethernet đồng trục, Token
Ring, Arcnet hay một tiêu chuẩn mạng nào khác. Mỗi tiêu chuẩn mạng có độ dài
và nhược điểm riêng. Phác hoạ ra cái nào phù hợp nhất với tổ chức mình là điều
hết sức quan trọng.
Ngày nay, hầu hết công nghệ mạng được đề cập đến ở trên đều nhanh chóng trở
nên mai một. Bâu giờ chỉ có một kiểu mạng sử dụng dây nối còn được dùng trong
các doanh nghiệp vừa và nhỏ là Ethernet. Bạn có thể xem phần minh hoạ card
mạng Ethernet trong ví dụ hình A dưới đây.
1
Hình 1: Card Ethernet
Các mạng Ethernet hiện đại đều sử dụng cáp đôi xoắn vòng 8 dây. Các dây này
được sắp xếp theo thứ tự đặc biệt và đầu nối RJ-45 được gắn vào phần cuối cáp.
Cáp RJ-45 trông giống như bộ kết nối ở phần cuối dây điện thoại, nhưng lớn hơn.
Các dây điện thoại dùng bộ kết nối RJ-11, tương phản với bộ kết nối RJ-45 dùng
trong cáp Ethernet. Bạn có thể thấy ví dụ một cáp Ethernet với đầu nối RJ-45 trong
hình B.
Hình 2: Cáp Ethernet với một đầu kết nối RJ-45
2
Hub và Switch
Như bạn đã thấy ở trên, máy tính dùng card mạng để gửi và nhận dữ liệu. Dữ liệu
được truyền qua cáp Ethernet. Tuy nhiên, thông thường bạn không thể chỉ chạy
một cáp Ethernet giữa hai PC để gọi đó là một mạng.
Với thời đại của khả năng truy cập Internet tốc độ cao ngày nay, chắc chắn bạn
thường nghe nói đến thuật ngữ “broadband” (băng thông rộng). Băng thông rộng là
kiểu mạng trong đó dữ liệu được gửi và nhận qua cùng một dây, còn ở Ethernet thì
dùng hình thức truyền thông Baseband. Baseband sử dụng các dây riêng trong việc
gửi và nhận dữ liệu. Điều này có nghĩa là nếu một máy tính đang gửi dữ liệu qua
một dây cụ thể bên trong cáp Ethernet thì máy tính đang nhận dữ liệu cần một dây
khác được định hướng lại tới cổng nhận của nó.
Bạn có thể xây dựng mạng cho hai máy tính theo cách này mà người ta thường gọi
là hình thức cáp chéo. Cáp chéo đơn giản là một cáp mạng có các dây gửi và nhận
ngược nhau tại một điểm cuối để các máy tính có thể được liên kết trực tiếp với
nhau.
Vấn đề hạn chế khi dùng cáp mạng chéo là bạn không thể thêm hay bớt một máy
tính khác nào ngoài hai máy đã được kết nối. Do đó tốt hơn so với cáp chéo, hầu
hết mọi mạng đều sử dụng cáp Ethernet thông thường không có các dây gửi và
nhận ngược nhau ở cuối đầu nối.
Tất nhiên các dây gửi và nhận phải ngược nhau ở một số điểm nào đó để quá trình
truyền thông được thực hiện thành công. Đây là công việc của một hub hoặc
switch. Hub cũng đang trở nên lỗi thời nhưng chúng ta vẫn nên nói đến chúng. Vì
hiểu về hub sẽ giúp bạn bạn dễ dàng hơn nhiều khi nói tới switch.
Có một số kiểu hub khác nhau nhưng thông thường nói đến hub tức là nói đến một
cái hộp với một bó cổng RJ-45. Mỗi máy tính trong mạng sẽ được kết nối tới một
hub thông qua cáp Ethernet. Bạn có thể thấy một hub có hình dáng như trong hình
C.
3
Hình 3: Hub là thiết bị hoạt động như một điểm kết nối trung tâm
cho các máy tính trong một mạng.
Hub có hai nhiệm vụ khác nhau. Nhiệm vụ thứ nhất là cung cấp một điểm kết nối
trung tâm cho tất cả máy tính trong mạng. Mọi máy tính đều được cắm vào hub.
Các hub đa cổng có thể được đặt xích lại nhau nếu cần thiết để cung cấp thêm cho
nhiều máy tính.
Nhiệm vụ khác của hub là sắp xếp các cổng theo cách để nếu một máy tính thực
hiện truyền tải dữ liệu, dữ liệu đó phải được gửi qua dây nhận của máy tính khác.
Ngay bây giờ có thể bạn sẽ tự hỏi, làm sao dữ liệu có thể đến được đúng đích cần
đến nếu nhiều hơn hai máy tính được kết nối vào một hub? Bí mật nằm trong card
mạng. Mỗi card Ethernet đều được cung cấp một địa chỉ vật lý MAC (Media
Access Control) duy nhất. Khi một máy tính trong mạng Ethernet truyền tải dữ liệu
qua mạng có các máy PC kết nối với một hub, thực tế dữ liệu được gửi tới mọi
máy có trong mạng. Tất cả máy tính đều nhận dữ liệu, sau đó so sánh địa chỉ đích
với địa chỉ vật lý MAC của nó. Nếu khớp, máy tính sẽ biết rằng nó chính là người
nhận dữ liệu, nếu không nó sẽ lờ dữ liệu đi.
Như bạn có thể thấy, khi một máy tính được kết nối qua một hub, mọi gói tin đều
được gửi tới tất cả máy tính trong mạng. Vấn đề là máy tính nào cũng có thể gửi
thông tin đi tại bất cứ thời gian nào. Bạn đã từng thấy một cuộc họp mà trong đó
tất cả thành viên tham dự đều bắt đầu nói cùng một lúc? Vấn đề của kiểu mạng này
chính là như thế.
4
Khi một máy tính cần truyền dữ liệu, nó kiểm tra xem liệu có máy nào khác đang
gửi thông tin tại cùng thời điểm đó không. Nếu đường truyền rỗi, nó truyền các dữ
liệu cần thiết. Nếu đã có một một máy khác đang sử dụng đường truyền, các gói tin
của dữ liệu đang được chuyển qua dây sẽ xung đột và bị phá huỷ (đây chính là lý
do vì sao kiểu mạng này đôi khi được gọi là tên miền xung đột). Cả hai máy tính
sau đó sẽ phải chờ trong một khoảng thời gian ngẫu nhiên và cố gắng truyền lại
các gói tin đã bị phá huỷ của mình.
Số lượng máy tính trên tên miền xung đột ngày càng tăng khiến số lượng xung đột
cũng tăng. Do số lượng xung đột ngày càng tăng nên hiệu quả của mạng ngày càng
giảm. Đó là lý do vì sao bây giờ gần như switch đã thay thế toàn bộ hub.
Một switch (bạn có thể xem trên hình D), thực hiện tất cả mọi nhiệm vụ giống như
của một hub. Điểm khác nhau chỉ là ở chỗ, khi một PC trên mạng cần liên lạc với
máy tính khác, switch sẽ dùng một tập hợp các kênh logic nội bộ để thiết lập
đường dẫn logic riêng biệt giữa hai máy tính. Có nghĩa là hai máy tính hoàn toàn
tự do để liên lạc với nhau mà không cần phải lo lắng về xung đột.
Hình 4: Switch trông giống hệt như hub nhưng hoạt động khác hơn
nhiều.
Switch thực sự nâng cao được đáng kể hiệu quả của mạng. Bởi chúng loại trừ xung
đột và còn nhiều hơn thế, chúng có thể thiết lập các đường dẫn truyền thông song
song. Chẳng hạn khi máy tính A đang liên lạc với máy tính B thì không có lý do gì
để máy tính C không đồng thời liên lạc với máy tính D. Trong một tên miền xung
đột (collision domain), các kiểu truyền thông song song này là không thể bởi vì
chúng sẽ dẫn đến xung đột.
5
Câu 4: Các dịch vụ trên Internet
(*)INTERNET VÀ NGUỒN GỐC RA ĐỜI
Internet-còn gọi là Net - là mạng truyền thông toàn cầu
kết nối hàng trăm ngàn mạng máy tính. Các mạng máy
tính là những mạng lớn diện rộng (WAN) như các mạng
của những công ty xuyên quốc gia như IBM, AT&T,
Digital Equipment và Hewlett-Packard cho đến những
mạng cục bộ (LAN) nhỏ của bất kỳ sở hữu nào nằm ở khắp nơi trên toàn cầu. Mỗi
mạng máy tính lại có thể có nhiều máy tính chủ HOST (máy tính cung cấp dịch vụ)
và hàng trăm ngàn máy tính riêng lẻ kết nối để sử dụng các dịchvụ lnternet - cũng
được gọi là ''siêu xa lộ thông tin'' (information superhighway). Cácquốc gia có kết
nối mạng Internet toàn cầu thường xây dựng mạng đường trục tốc độcao (high-
speed backbone network) với một số nút để truy nhập mạng lnternet (Internet
Access Nodes) và một số cổng để kết nối với ''siêu xa lộ thông tin'', nghĩa là với
mạng lnternet thông tin toàn cầu.
Cơ sở để lập mạng đường trục Internet là hệ thống truyền dẫn cáp quang xuyên
quốc gia. Ở Mỹ mạng đường trục được một số công ty truyền thông xây dựng như
MCI, Ameritech, Sprint, Pacific Bell trên đó sử dụng các thiết bị chuyển mạch
công nghệ cao và truyền dẫn cáp sợi quang của MCI có thể truyền voice, data các
tín hiệu video đạt tới tốc độ 600Mb/s. Phải ghi nhận một điều là đa số lưu lượng
trên Internet đều có hướng đi Mỹ, nơi sinh ra Internet, một phần do vậy mà cho
đến nay, Mỹ vẫn lànước đứng đầu về đầu tư, và chủ yếu đề xướng những tiêu
chuẩn, những xu hướng công nghệ mới cho phát triển mạng lnternet toàn cầu.
Nếu như đầu những năm 80, chỉ có 213 máy tính chủ cung cấp dịch vụ kết nối trên
Internet trong nướcMỹ, nơi sinh ra Internet, thì đến tháng 7/1997 đã có tới 12,9
triệu máy tính dịch vụ và khoảng hơn 60 triệu người sử dụng Internet trên toàn
cầu Tốc độ phát triển của Internet rất nhanh, khoảng chừng14-16% mỗi tháng
điều này có nghĩa là khoảng hơn 200.000 máy tính mới gia nhập mỗi tháng. Tỷ lệ
người sử dụng Internet từng quốcgia phụ thuộc vào chỉ số phát triển con người
HDI và thái độ của quốc gia đó đối với Internet như thế nào. Chỉ số HDI gồm: tuổi
thọ, mức giáo dục và mức sống. Mức đống dựa vào mức thu nhập quốc dân thực tế
trên đầu người tính theo sức mua.Như thế, các nước tư bản phát triển có tỷ lệ
người dùng Internet rất cao, còn ở những nước nghèo con số này rất thấp.
Nguồn gốc của Internet làARPANET, một mạng thí nghiệm thuộc một dự án do bộ
Quốc phòng khởi đầu và tài trợ thông qua Cơquan các dự án nghiên cứu caocấp
ARPA (Advanced Research Proiects Agency) năm 1969. Mạng liên kết trung tâm
máy tính và xử lý thông tin của Bộ Quốc phòng vớicác trung tâm nghiên cứu khoa
họcvà quân sự, một số lớn các trường đại học đang tiến hành các nghiên cứu quân
sự được tài trợ. Mạng kết hợp nhiều loại máy tính khác nhau (nhà chế tạo, tổ chức
và cấu trúc cơ sở hệ điều hành, các phần mềm ứng dụng ) nằm cách xa nhau để
6
trao đổi và chia sẻ các tài nguyên thông tin. Một trong những mục tiêu của
APRANET là làm sao sự truyền thông trong mạng vẫn còn duy trì ngay cả khi có
một số thành phần mạng (các máy tính các nút mạng và truyền dẫn liên kết các
máy tính) bị hỏng, ví dụ, vì những vụ nổ bom nguyên tử hay hạt nhân hay đường
liên kết truyền thông bị hỏng. ARPANET đã phát triển giao thức kết nối mạng
(Network Protocol) gọi là TCP/IP (Transmission Control Protocol/Internet
Protocol), đó là ngôn ngữ để cho tất cả các máy tính khác nhau kết nối trên mạng
có thể nói chuyện với nhau. Năm 1974 hai nhà khoa học máy tính VinCert và Bob
Kahn đã xuất bản tài liệu trình bày chi tiết về TCP/IP, và TCP/IP trở thành giao
thức mạng của ARPANET. Phải đến năm 1982 DoD mới tuyên bố bộ giao thức
TCP/IP là giao thức tiêu chuẩn của DoD, và ARPANET là mạng xương sống cho
nhiều mạng máy tính kết nối với nó nếu chấp nhận TCP/IP là giao thức kết nối.
Năm 1983, Internet chính thức ra đời.
1. CÁC DỊCH VỤ TRÊN INTERNET
Khi Internet mới ra đời, chỉ cómột số ít máy tính chủ - máy tính cung cấp các dịch
vụ, và hầu hết người sử dụng đều có thể biết được ở đâu có thể tìm được thông tin
mình cần. Mục đích sử dụng ban đầu chỉ đơn thuần phục vụ cho nghiên cứu và
không kinh doanh nên các dịch vụ của Internet không nhiều, đơn giản, nghèo
thông tin và sử dụng khó khăn. Công cụ để truy nhập đến các tài nguyên thông tin
cũng đơn giản và sẵn có trên các hệ thống máy tính. Ngày nay, bên cạnh nhiều
dịch vụ miễn phí, có rất nhiều dịch vụ được kinh doanh trên Internet đem lại nhiều
lợi nhuận cho các nhà cung cấp. “Sản phẩm” chính mà Internet cung cấp cho người
dùng là thông tin. Thông tin thường ở dạng tệp lưu trữ trong các máy tính chủ, máy
tính cung cấp dịch vụ, và có thể trình bày bằng nhiều dạng khác nhau phụ thuộc
vào loại dịch vụ của Internet được sử dụng. Các dịch vụ trên Internet thường được
tổ chức theo mô hình quan hệ Khách-dịch vụ (CLIENT-SERVER). Mô hình quan
hệ Khách-dịch vụ được sử dụng phổ biến để xây dựng mạng và các ứng dụng trên
mạng để phân phối quá trình xử lý giữa máy tính và người sử dụng (client) và máy
tính dịch vụ (server). Trong mô hình quan hệ này, người sử dụng gửi yêu cầu truy
nhập thông tin hay dịch vụ nào đó tới máy dịch vụ. Máy tính dịch vụ nhận yêu cầu,
khởi động thông tin hay dịch vụ được yêu cầu gửi đến người sử dụng. Đây là quan
hệ Khách hàng-dịch vụ thông thường.
Khi truy nhập tới các máy dịch vụ WEB (WEB server), máy tính dịch vụ Web
chuyển tới người dùng một trang thông tin ở dạng ngôn ngữ siêu văn bản (HTML
page), người sử dụng thực hiện chọn lựa các thông tin cần thiết ngay trên trang này
và yêu cầu tự động chuyển tới máy chủ, nơi chứa các tài nguyên yêu cầu. Vì số
lượng truy nhập tới các máy dịch vụ rất cao nên thường yêu cầu truy nhập của
người sử dụng phải được vào hàng chờ phục vụ trên các máy dịch vụ.
Mô hình quan hệ khách hàng-dịch vụ được hầu hết các nhà cung cấp công nghệ
như Netscape, Sun, Microsoft… áp dụng để tạo lập các ngôn ngữ và môi trường
cho các dịch vụ thông dụng.
7
Trên Internet có các dịch vụ rất thông dụng và các loại dịch vụ có tính chuyên
nghiệp kinh doanh hoặc cho các mục đích riêng. Một người sử dụng bất kỳ nào
trên Internet chí ít cũng phải sử dụng được các dịch vụ thông dụng. Điều này có
nghĩa là bất kỳ nhà cung cấp dịch vụ trên Internet nào (ISP) tối thiểu cũng phải
cung cấp cho người dùng những dịch vụ thông dụng và ta coi đó là những dịch vụ
cơ bản nhất trên Internet. Các dịch vụ cơ bản trên Internet có thể phân ra làm 4
nhóm:
- Các dịch vụ lấy thông tin (FTP và Gopher)
- Các dịch vụ tìm kiếm thông tin (WAIS, archie, Veronica)
- Các dịch vụ truyền thông (Email, Telnet, UseNet, IRC)
- Các dịch vụ thông tin đa phương tiện (World Wide Web)
2.1. Các dịch vụ lấy thông tin
2.1.1. Dịch vụ truyền tệp tin FTP
Dịch vụ truyền tệp tin FTP cho phép người sử dụng nhận các tệp tin từ máy tính ở
xa hay chuyển các tập tin tới đó. Dịch vụ này sử dụng giao thức truyền tệp FTP
thuộc họ giao thức TCP/IP làm công cụ truyền tệp. Các tệp tin có thể ở dạng: tập
tin văn bản, tư liệu, cơ sở dữ liệu, chương trình ứng dụng hay hệ điều hành máy
tính, tập hình ảnh tĩnh hay động (video, movie), tập âm thanh thoại hay nhạc
(sound, music). Để sử dụng các dịch vụ này, trên máy tính của người sử dụng phải
có phần mềm FTP (FTP-client) và đăng lý quyền sử dụng dịch vụ (account) với
máy tính dịch vụ FTP ở xa (FTP-server) cho phép truyền tải các tệp tin. Các nhà
cung cấp dịch vụ thường tạo lập các máy tính dịch vụ FTP giấu tên kết nối với các
máy tính chủ ở xa và chuyển tải các tệp tin từ các máy chủ về mà không cần phải
đăng ký quyền sử dụng (account) trên các máy chủ đó. Các máy dịch vụ FPT dấu
tên là một trong những phương tiện chính để phân phát các tài nguyên phần mềm
và thông tin tư liệu trên toàn bộ Internet. Trên máy tính dịch vụ FTP dấu tên lưu
trữ phần mềm khác nhau, như các hệ điều hành cho các hệ thống máy tính khác
nhau (UNIX, IBMPC, Macintosh ), các hệ ứng dụng, truyền thông các tập nhạc,
phim ảnh và nhiều thông tin tư liệu. Hầu hết chúng đều cung cấp miễn phí cho
người sử dụng
2.1.2. Dịch vụ Gophserver (Gopher-server) - Tra cứu và lấy tập tin theo danh mục
của thực đơn
Đây là một dịch vụ cho phép người dùng với chương trình Gopher client truy nhập
tới các máy tính dịch vụ Gopher để hiển thị và lấy các thư mục và các tập tin. Dịch
vụ Gopher cung cấp giao diện theo thực đơn (menu-based interface) với các nguồn
tài nguyên có ở các máy dịch vụ Gopher mà không cần phải phải đưa vào các lệnh
thực hiện việc chuyển các thư mục và các tập tin. Về chức năng, dịch vụ Gopher
tương tự như dịch vụ FTP, nhưng nó tạo khả năng cho người sử dụng kết nối với
8
các dịch vụ khác bổ xung cho hiển thị và chuyển tải về máy tính của mình các thư
mục và tệp. Sự hiển thị hoặc truyền tệp được thực hiện dễ dàng thông qua việc
chọn các danh mục trong thực đơn trên phần mềm Gopher Client ở máy tính
người dùng. Để dễ dàng kết nối, kiểm tra xem các tệp tin yêu cầu có tồn tại ở các
máy dịch vụ Gopher và sau đó chuyển tiếp tới các máy dịch vụ Gopher khác mà
người sử dụng quan tâm, tất cả các máy dịch vụ Gopher ở một số điểm nào đó liên
kết lại với nhau trong một mạng lớn, gọi là không gian Gopher (Gopherspace). Ví
dụ, khi một máy dịch vụ Gopher được được đưa lên mạng Internet, nhà quản trị
máy dịch vụ đó gửi thư điện tử cho các nhà bảo trợ phần mềm Gopher ở trường đại
học của Minnesota, Mỹ để đưa máy tính dịch vụ của mình vào danh sách tất cả các
gopher tọàn cầu trên máy chủ Gopher có tên là gopher.tc.umn.edu. Người sử dụng
truy nhập tới máy tính dịch vụ này sẽ lướt nhanh được toàn bộ danh sách các máy
dịch vụ gopher trên toàn cầu và tìm ngay được nơi cần kết nốt để lấy tập tin. Máy
dịch vụ gopher.tc.umn.edu này trợ giúp rất tốt cho người dùng khi bắt đầu khai
thác dịch vụ gopher.
2.2. Các dịch vụ Tìm kiếm thông tin
2.2.1. Dịch vụ Archie (Archie Service) Tìm kiếm thông tin theo danh sách tập tin
Để trợ giúp cho người sử dụng tìm kiếm nhanh các tệp tin cần, trên Internet tạo lập
ra các máy tính dịch vụ (ARCHIE SERVER), trên đó lập chỉ số của các tệp tin
chứa trên các máy dịch vụ FTP giấu tin trên Internet. Để tạo lập danh sách này, các
máy tính dịch vụ lưu trữ phải thường xuyên kết nối với các máy tính dịch vụ FTP
giấu tin để cập nhật danh sách tất cả các tệp có trên các máy dịch vụ FTP dấu tên.
Những danh sách đó có được xây dựng thành các cơ sở dữ liệu (CSDL) có chỉ số
hóa để người sử dụng truy nhập và thực hiện tìm kiếm tệp tin dễ dàng. Để truy
nhập tới các máy dịch vụ lưu trữ, người sử dụng phải có trên máy tính của mình
chương trình sử dụng dịch vụ Archie (Archie cho người dùng đầu cuối – archie
client), hoặc dùng giao thức kết nối với máy chủ từ xa Telnet. Khi truy nhập tới
CSDL của máy dịch vụ lưu trữ, người sử dụng chỉ cần đưa tên tệp cần lấy về và
máy dịch vụ lưu trữ sẽ trả lời bằng sự cung cấp tên và địa chỉ của máy chủ nơi có
chứa tệp tin đó. Sau đó người dùng kết nối với máy dịch vụ FTP và nhanh chóng
chuyển tệp tin về máy tính của mình bằng chương trình FTP client mà không phải
tốn nhiều thời gian tìm kiếm nữa. Điều này có lợi cho nhà cng cấp dịch vụ và cả
người sử dụng, vì nhà cung cấp dịch vụ phục vụ được nhiều người dùng hơn, còn
người sử dụng thì trả phí chiếm kênh điện thoại (phí thời gian) ít hơn.
2.2.2. Dịch vụ Veronica – Tìm kiếm thông tin theo danh mục của các thực đơn
Có thể dùng thêm dịch vụ Veronica để trợ giúp người dùng tìm kiếm nhanh hơn
các máy tính dịch vụ Gopher chứa các thông tin và các tập tin mong muốn. Cũng
tương tự như Archie, trên máy tính dịch vụ Veronica tạo CSDL phục vụ cho tìm
kiếm. Veronica là dịch vụ tìm kiếm các danh mục của thực đơn trên các máy dịch
vụ Gopher. Để sử dụng Veronica người sử dụng cần phải kết nối với một máy tính
9
dịch vụ Gopher để được phép truy nhập tới một máy tính dịch vụ Veronica. CSDL
phục vụ cho tìm kiếm của máy dịch vụ Veronica được xây dựng bằng cách quét
các thực đơn của tất cả các máy dịch vụ gopher trên toàn cầu và có thể tìm thấy
được không gian gopher mà người sử dụng mong muốn. Khi đó máy dịch vụ
Veronica xây dựng một thực đơn Gopher chứa tất cả các danh mục phù hợp với
nhu cầu sử dụng. Người sử dụng chỉ việc kiểm tra lại những danh mục đó bằng
cách chọn chúng trên thực đơn tương tự như cách chọn thẳng các danh mục mong
muốn trên thực đơn từ các máy dịch vụ gopher. Như vậy, cũng như các máy tính
dịch vụ lưu trữ (archie server), các máy dịch vụ Veronica rất cần thiết để hỗ trợ tìm
kiếm thông tin và các tập tin mong muồn nhanh hơn tiết kiệm thời gian chiếm
đường dây điện thoại của người sử dụng khi khai thác dịch vụ gopher, giảm chi phí
đồng thời sự cung cấp dịch vụ này sẽ hiệu quả hơn.
2.2.3. Dịch vụ WAIS – Tìm kiếm thông tin diện rộng
Đây là dịch vụ cho phép người dùng tìm kiếm tất cả tài liệu trên toàn cầu theo một
chủ đề nào đó. Người sử dụng phải có chương trình WAIS client chạy trên máy
tính của mình để kết nối với máy tính dịch vụ thông tin diện rộng (Wide Area
Information Server). Thủ tục tìm kiếm đơn giản: người sử dụng, trên máy tính của
mình viết một dòng chủ đề của tài liệu yêu cầu tìm kiếm ở cách hành văn bình
thường, và gửi tới WAIS server. WAIS server tiếp nhận yêu cầu và tìm trong
CSDL của nó tất cả các tài liệu liên quan đến chủ đề yêu cầu, nếu tìm thấy, nó
chuyển lại cho các tài liệu đó các chỉ số, để sau đó người sử dụng dùng để chuuển
tải các tài liệu và hiển thị các tài liệu đó trên máy tính của mình.
Một trong những đặc điểm mấu chốt của hệ thống WAIS là khả năng của WAIS
server có các chỉ số trỏ tới các WAIS server khác trong không gian WAlS (WAIS
space), và người sử dụng có thế chọn lấy một điểm trung tâm trên Internet, tức là
chọn một WAIS server nào đó làm điểm bắt đầu tìm kiếm. Ví dụ, nếu muốn tìm tất
cả các bài nói chuyện của Tổng thống Clinton ở Atlanta, Georgia, trước hết truy
nhập tới CSDL của máy dịch vụ quake.think.com và trên CSDL của máy tính này
tìm “Tổng thống Clinton” (Clinton Speechs). Sử dụng tiếp CSDL Speeches để tìm
theo “Atlanta Georgia”. Lần tìm kiếm này trả lại kết quả là danh sách một số tài
liệu nội dung các bài nói chuyện của tổng thống Clinton ở Atlanta Georgia. Đứng
đầu danh sách các tài liệu này này là tài liệu phù hợp với yêu cầu của người sử
dụng nhất. Việc còn lại của người dùng là chuyển tài liệu cần từ nguồn về máy của
mình và hiển thị nội dung tài liệu. Các tài liệu hình ảnh cũng có thể hiển thị
được… CSDL phục vụ cho tìm kiếm cũng được chỉ số hóa để tìm kiếm nhanh. Sự
chỉ số hóa giống như cơ chế chỉ số hóa cho các tệp CSDL trong Foxpro, dbase…
2.Thư điện tử
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
10
Giao diện của phần mềm thư điện tử Microsoft Outlook
Thư điện tử, hay email (từ chữ electronic mail), đôi khi được dịch không chính
xác là điện thư, là một hệ thống chuyển nhận thư từ qua các mạng máy tính.
Email là một phương tiện thông tin rất nhanh. Một mẫu thông tin (thư từ) có thể
được gửi đi ở dạng mã hoá hay dạng thông thường và được chuyển qua các mạng
máy tính đặc biệt là mạng Internet. Nó có thể chuyển mẫu thông tin từ một máy
nguồn tới một hay rất nhiều máy nhận trong cùng lúc.
Ngày nay, email chẳng những có thể truyền gửi được chữ, nó còn có thể truyền
được các dạng thông tin khác như hình ảnh, âm thanh, phim, và đặc biệt các phần
mềm thư điện tử kiểu mới còn có thể hiển thị các email dạng sống động tương
thích với kiểu tệp HTML.
Phần mềm thư điện tử (email software) là loại phần mềm nhằm hỗ trợ cho người
dùng việc chuyển và nhận các mẫu thông tin (thường là dạng chữ). Thông tin có
thể đưa vào phần mềm thư điện tử bằng cách thông dụng nhất là gõ chữ bàn phím
hay cách phương cách khác ít dùng hơn như là dùng máy quét hình (scanner),
dùng máy ghi hình số (digital camera) đặc biệt là các Web cam. Phần mềm thư
điện tử giúp đỡ cho việc tiến hành soạn thảo, gửi, nhận, đọc, in, xoá hay lưu giữ
các (điện) thư. Có hai trường hợp phân biệt phần mềm thư điện tử là
• Loại phần mềm thư điện tử được cài đặt trên từng máy tính của người dùng
gọi là email client, hay phần mềm thư điện tử (cho) máy khách. Các thí
dụ loại phần mềm này bao gồm: Microsoft Outlook, Microsoft Outlook
Express, Netscape Comunicator, hay Eudora. Phần mềm thư điện tử này còn
có tên là MUA (từ chữ mail user agent) tức là Tác nhân sử dụng thư. Một
cách gọi tên thông dụng khác của email client là ứng dụng thư điện tử
(email application) nếu không bị nhầm lẫn
• Ngược lại, loại phần mềm thư điện tử không cần phải cài đặt mà nó được
cung ứng bởi các máy chủ (web server) trên Internet gọi là WebMail, hay
Phần mềm thư điện tử qua Web. Để dùng được các phần mềm loại này
thường các máy tính nối vào phải có một máy truy cập tương thích với sự
11
cung ứng của WebMail. Thí dụ loại này là mail.Yahoo.com, hay
hotmail.com.
Nơi cung ứng phần mềm cũng như phương tiện chuyển thư điện tử gọi là nhà
cung ứng dịch vụ thư điện tử (email sevice provider).
Máy tính làm việc cung ứng các dịch vụ thư điện tử là MTA (từ chữ mail transfer
agent) hay là đại lý chuyển thư. Vì đây là máy chủ nên khi không bị nhầm lẫn với
các loại máy chủ khác thì người ta cũng gọi MTA là máy chủ hay rõ hơn là máy
chủ thư điện tử.
Các dịch vu thư điện tử có thể được cung ứng miễn phí hay có lệ phí tuỳ theo nhu
cầu và mụch đích của ngưòi dùng. Ngày nay, email thường được cung cấp kèm với
các phương tiện Internet khi người tiêu dùng ký hợp đồng với các dịch vụ Internet
một cách miễn phí.
Đặc điểm của thư điện tử khi so sánh với bưu chính thông thường
• Thay vì viết thư bằng giấy mực và bút thì người gửi chỉ cần gõ chữ từ bàn
phím của máy tính và biết dùng một phần mềm thư điện tử (email program).
• Lá thư được gửi trên hệ thống bưu chính là vật liệu không cần máy nhận hay
máy gửi. Trong khi đó, nếu gửi thư điện tử, chỉ có các tín hiệu điện mã hoá
nội dung bức thư điện tử được truyền đi đến máy nhận. Do đó, chỉ có nội
dung hay cách trình bày lá thư điện tử là được bảo toàn. Trong khi đó, dùng
đường bưu điện người ta có thể gửi đi các vật liệu hàm chứa thêm nội dung
hay ý nghĩa khác. Điều này có thể rất quan trọng đối với nhiều người.
• Vận tốc truyền thư điện tử chỉ vài giây đến vài phút và chi phí rất nhỏ không
đáng kể so với gửi qua đường bưu điện.
• Dùng thư điện tử thì bất kỳ lúc nào cũng có thể mở phần mềm thư điện tử ra
đọc nên tiện lợi hơn là việc phải bỏ thư ở các thùng thư. Đồng thời, vì mỗi
người dùng thư đều phải nhập mật khẩu vào máy nên thư điện tử sẽ khó bị
người ở chung đọc lén so với thư gửi bưu điện. Nhưng ngược lại, các tay tin
tặc xa lạ có thể xâm nhập vào hệ thống thư điện tử của cá nhân nếu như các
mật mã hay các hệ thống an toàn phần mềm bị bẻ gãy.
• Khối lượng gửi và nhận thư điện tử có thể nhiều hơn thư bưu điện rất nhiều
lần. Đối với các dịch vụ thư điện tử mới thì dung lượng có thể lên đến hàng
Gbyte như dịch vụ của Gmail chẳng hạn, hay nhiều hơn. Số thư có thể dự
trữ trong dung lượng này tương đương với vài bộ tự điển bách khoa.
• Các trường hợp thư phá hoại trên hệ thống bưu điện (như là thư có bột
antrax, thư bom, ) rất hiếm có nhưng có thể gây thương vong. Ngược lại,
hệ thống thư điện tử, không thể gây thương tích mà thường rất phải đương
đầu với nhiều vấn nạn như virus máy tính, các thư nhũng lạm (spam mail),
các thư quảng cáo (advertisement mail) và các thư khiêu dụ tình dục
(pornography mail), đặc biệt là cho trẻ em, thì lại rất nhiều. Đối với các loại
thư độc hại (malicious mail) này người dùng cần phải cài đặt thêm các tiện
12
ích hay chức năng lọc (sẵn có trong phần mềm hay phải mua thêm) để giảm
trừ. Tuy nhiên, một điều chắc chắn là không có công cụ phần mềm nào là
tuyệt hảo.
• Các dạng chuyển tiếp (chain mail) trong đó người nhận lại chuyển đi nội
dung lá thư cho một hay nghiều người khác thường cũng phổ biến trong cả
hai hệ thống bưu chính và thư điện tử. Khả năng ảnh hưởng về thông tin của
hai loại này là tương đương mặc dù thư điện tử chuyển tiếp có nhiều xác
suất gây nhiễm virus máy tính.
• Hộp thư là nơi cất giữ các thư từ với địa chỉ hẳn hoi. Tương tự, trong hệ
thống thư điện tử, thì hộp thư này tương đương với phần dữ liệu chứa nội
dung các email cộng vói điạ chỉ của người chủ thư điện tử. Điểm khác biệt ở
đây là hộp thư điện tử sẽ có nhiều chức năng hơn là việc xoá bỏ các thư cũ.
Mỗi người có thể có một hay nhiều địa chỉ email (và phải được đăng ký qua
một hệ thống nào đó). Mỗi hộp thư sẽ có một địa chỉ phân biệt không bao
giờ trùng với địa chỉ email khác.
Như vậy có thể hoàn toàn không nhầm lẫn khi dùng danh từ hộp thư điện
tử hay hòm thư điện tử (email account) để chỉ một phần mềm email đã
được đăng kí dùng để nhận và gửi email cho một cá nhân.
Cấu trúc chung của một địa chỉ email
Một địa chỉ email sẽ bao gồm ba phần chính có dạng Tên_định_dạng_thêm
tên_email@tên_miền
1. Phần tên_định_dạng_thêm: Đây là một dạng tên để cho người đọc có thể dễ
dàng nhận ra người gửi hay nơi gửi. Tuy nhiên, trong các thư điện tử người
ta có thể không cần cho tên định dạng và lá thư điện tử vẫn được gửi đi đúng
nơi. Thí dụ: Trong địa chỉ gửi thư tới viết dưới dạng Nguyễn Thị A
hay viết dưới dạng
thì phần mềm thư điện tử vẫn hoạt động chính xác và gửi đi đến đúng địa
chỉ.
2. Phần tên_email: Đây là phần xác định hộp thư. Thông thường, cho dễ nhớ,
phần này hay mang tên của người chủ ghép với một vài kí tự đặc biệt. Phần
tên này thường do người đăng kí hộp thư điện tử đặt ra. Phần này còn được
gọi là phần tên địa phương.
3. Phần tên_miền: Đây là tên miền của nơi cung cấp dịch vụ thư điện tử. Ngay
sau phần tên_email bắt đầu bằng chữ "@" nối liền sau đó là tên miền.
Các chức năng có thể có của một hộp thư điện tử
13
Giải thích căn bản về giao diện kiểu WebMail của Yahoo
Ngoài chức năng thông thường để nhận và soạn thảo email, các phần mềm thư điện
tử có thể còn cung cấp thêm những chức năng khác như là:
• Lịch làm việc (calendar): người ta có thể dùng nó như là một thời khoá biểu.
Trong những phần mềm mạnh, chức năng này còn giữ nhiệm vụ thông báo
sự kiện đã đăng kí trong lịch làm việc trước giờ xảy ra cho người chủ hộp
thư.
• Sổ địa chỉ (addresses hay contacts): dùng để ghi nhớ tất cả các địa chỉ cần
thiết cho công việc hay cho cá nhân.
• Sổ tay (note book hay notes): để ghi chép, hay ghi nhớ bất kì điều gì.
• Công cụ tìm kiếm thư điện tử (find hay search mail).
Để hiểu hết tất cả các chức năng của một phần mềm thư điện tử người dùng có thể
dùng chức năng giúp đỡ (thường có thể mở chức năng này bằng cách nhấn nút
<F1> bên trong phần mềm thư điện tử).
Những thuật ngữ thường thấy trong một phần mềm thư điện tử bằng Anh
ngữ
Các mệnh lệnh Anh ngữ để đi vào các ngăn chứa thư
Đây thực ra chỉ là các ngăn chứa thư từ đã được phân loại theo tình trạng của các
email cho tiện dùng. Người chủ thư có thể tự mình xếp loại các mail này hay
chúng được xếp một cách tự động (do cài đặt hay do mặc định).
• Inbox có nghĩa là Hộp thư nhận hay Hộp thư vào: Đây là ngăn đựng các thư
mới nhận về.
• Outbox có nghĩa là Hộp thư gửi hay Hộp thư ra: Đây là ngăn đựng các thư
đang chờ được gửi đi. Thông thường, nếu hệ thống email hoạt động tốt thì
các thư nằm trong hộp này chỉ trong thời gian rất ngắn (vài giây đến vài phút
là tối đa). Do đó, ngăn chứa này thường là một ngăn trống.
14
• Draft có nghĩa là Ngăn nháp: Để chứa các email chưa hoàn tất hay đã hoàn
tất nhưng chủ thư chưa muốn gửi đi.
• Trash, Trash can hay Deleted Item có nghĩa là Ngăn xóa: Còn có thể gọi là
Thùng rác hay Ngăn thư đã xóa. Đây là chỗ dự phòng tạm thời chứa các
email đã xóa bỏ trong một thời gian. Chức năng này tiện lợi để phục hồi hay
đọc lại các thư điện tử cần thiết đã lỡ tay bị xóa.
• Sent, sent Messages hay Sent Item có nghĩa là Ngăn đã gửi: Nơi này dùng để
chứa các thư đã gửi.
• Junk hay Bulk có nghĩa là Ngăn thư linh tinh: Đây là nơi chứa các mail đã
được lọc và bị loại ra một cách tự động, còn được gọi là Thùng thư rác hay
Ngăn chứa tạp thư. Thường thì nơi này sẽ chứa các thư quảng cáo, các thư
nhũng lạm, các thư được gởi đến một số lượng lớn địa chỉ có cùng một nội
dung, hay các loại thư độc hại
Các mệnh lệnh Anh ngữ thường thấy trong một phần mềm thư điện tử
• New hay compose có nghĩa là Thảo thư mới: Đây là mệnh lệnh cho phép bắt
đầu soạn thảo một email mới.
• Send có nghĩa là Gửi: Mệnh lệnh này sẽ tức khắc gửi thư tới các địa chỉ
trong phần To, CC, và BCC.
• Save as Draft hay Save Draft có nghĩa là Lưu bản nháp: Mệnh lệnh này sẽ
giúp lưu giữ lá thư đang soạn thảo và đưa vào ngăn chứa Darft để có thể
dùng lại về sau.
• Attach hay Attach Files có nghĩa là Đính kèm: Đây là lệnh để người soạn
email có thể gửi đính kèm theo lá thư các tập tin khác. Các tập tin này không
giới hạn kiểu cấu trúc của nó, nghĩa là chúng có thể là các loại tập tin hình
vẽ, phim, nhạc, và ngay cả virus máy tính.
Các thuật ngữ Anh ngữ thông dụng trong một thư điện tử
• To có nghĩa là Đến: Chổ chứa địa chỉ của các người nhận.
• CC (từ chữ carbon copies) có nghĩa là Gửi kèm: Đây là chổ chứa thêm địa
chỉ gửi kèm, ngoài địa chỉ chính trong phần To bên trên. Các hộp thư nhận
sẽ đọc được các địa chỉ người gửi và các địa chỉ gửi kèm này.
• BCC (từ chữ blind carbon copies) có nghĩa là Gửi kèm kín: Đây cũng là chỗ
ghi các địa chỉ mà lá thư sẽ được gửi kèm tới, nhưng các địa chỉ này sẽ được
dấu kín không cho những người trong phần To hay phần CC biết là có sự
đính kèm đến các địa chỉ nêu trong phần BCC.
• Subject có nghĩa là Đề mục: Chỗ này thường để tóm tắt ý chính của lá thư
hay chỗ ghi ngắn gọn điều quan trọng trong thư.
Phương thức hoạt động của một hệ thống thư điện tử
15
Hoạt động của hệ thống thư điện tử
Hoạt động của hệ thống email hiện nay có thể dược minh họa qua phân tích một thí
dụ như sau
1. Nguyễn dùng MUA của mình để soạn một lá thư có địa chỉ người nhận là
Trần với địa chỉ là Nguyễn nhấn nút Send và phần mềm thư
điện tử của Nguyễn áp dụng SMPT để gửi mẫu thông tin (lá thư) đến MTA,
hay máy chủ thư điện tử, của Nguyễn. Trong thí dụ thì máy chủ này là
smtp.a.org được cung cấp từ dịch vụ Internet của Nguyễn.
2. MTA này sẽ đọc địa chỉ chỗ nhận () và dựa vào phần tên miền nó
sẽ tìm hỏi địa chỉ của tên miền này, nơi có máy chủ sẽ nhận email gửi đến,
qua Hệ thống Tên miền.
3. Máy chủ DNS của b.org là ns.b.org sẽ trả lời về một bản ghi trao đổi thư từ,
đây là bảng ghi chỉ ra cách thức làm thế nào định tuyến cho email này.
Trong thí dụ thì mx.b.org là máy chủ từ dịch vụ cung ứng Internet của Trần.
4. smtp.a.org gửi mẫu thông tin tới mx.b.org dùng giao thức SMTP, điều này
sẽ phân phối lá thư đến hộp thư của Trần.
5. Khi đọc Trần ra lệnh nhận thư trên máy (MUA) của Trần, điều này tạo ra
việc lấy về mẫu thông tin bằng cách áp dụng giao thức POP3.
Trong trường hợp Nguyễn không có MUA mà chỉ dùng Webmail chẳng hạn thì
bước 1 sẽ không xảy ra tức là MTA của Nguyễn sẽ làm việc trực tiếp. Tưong tự
cho trường hợp Trần không có MUA riêng.
Trước đây, nếu một MTA không thể gửi tới đích thì nó có thể ít nhất ngừng lại ở
chỗ gần với chỗ nhận. Sự ngừng này sẽ tạo cơ hội để máy đích có thể nhận về các
mẫu thông tin trong thời gian trễ hơn. Nhiều MTA sẽ chấp nhận tất cả mẫu thông
tin từ người gửi bất kì và tìm mọi cách để phân nó về đến máy đích. Những MTA
như vậy gọi là những ngưng đọng thư mở (open mail relays). Điều này khá cần
thiết vì sự chất lượng liên lạc của hệ thống Internet lúc đó còn yếu.
16
Ngày nay, do việc lợi dụng trên cơ chế hoạt động của hệ thống thư điện tử nhiều
người đã gửi ra các loại thư vô bổ. Như là hậu quả, rất ít MTA ngày nay còn chấp
nhận các ngưng đọng thư mở. Bởi vì các thư như vậy rất có thể là các loại thư
nhũng lạm.
Các giao thức
• SMTP (từ chữ Simple Mail Transfer Protocol) hay là giao thức chuyển
thư đơn giản. Đây là một giao thức lo về việc vận chuyển email giữa các
máy chủ trên đường trung chuyển đến địa chỉ nhận cũng như là lo việc
chuyển thư điện tử từ máy khách đến máy chủ. Hầu hết các hệ thống thư
điện tử gửi thư qua Internet đều dùng giao thức này. Các mẫu thông tin có
thể được lấy ra bởi một email client. Những email client này phải dùng giao
thức POP hay giao thức IMAP.
• IMAP (từ chữ Internet Message Access Protocol) hay là giao thức truy
nhập thông điệp (từ) Internet. Giao thức này cho phép truy nhập và quản
lý các mẫu thông tin về từ các máy chủ. Với giao thức này người dùng email
có thể đọc, tạo ra, thay đổi, hay xoá các ngăn chứa, các mẫu tin đồng thời có
thể tìm kiếm các nội dung trong hộp thư mà không cần phải tải các thư về.
Phiên bản mới nhất của IMAP là IMAP4 tương tự nhưng có nhiều chức
năng hơn giao thức POP3. IMAP nguyên thuỷ được phát triển bởi đại học
Standford năm 1986.
• POP (từ chữ Post Office Protocol) hay là giao thức phòng thư. Giao thức
này được dùng để truy tìm các email từ một MTA. Hầu hết các MUA đều
dùng đến giao thức POP mặc dù một số MTA cũng có thể dùng giao thức
mới hơn là IMAP.
Hiện có hai phiên bản của POP. Phiên bản đầu tiên là POP2 đã trở thành tiêu
chuẩn vào thập niên 80, nó đòi hỏi phải có giao thức SMTP để gửi đi các
mẫu thông tin. Phiên bản mới hơn POP3 có thể được dùng mà không cần tới
SMTP.
Các tài liệu tham khảo
1) www.vn-seo.com
2) www.tapchibcvt.gov.vn
3) vi.wikipedia.org
4) Cuốn “450 tiện ích trong kết nối INTERNET”
17