Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

tình trang ttkdtm docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.83 KB, 13 trang )

Lý luận chung về thanh toán không dùng tiền mặt.
1.2.1 Sự cần thiết phát triển thanh toán không dùng tiền mặt.
Thanh toán là cầu nối giữa sản xuất, phân phối, lưu thông và tiêu dùng. Đồng thời
nó cũng là khâu mở đầu và là khâu kết thúc của quá trình tái sản xuất xã hội. Tổ chức tốt
công tác thanh toán nói chung sẽ tạo điều kiện cho quá trình sản xuất kinh doanh được
tiến hành một cách trôi chảy nhịp nhàng. Ngược lại việc thanh toán bị trục trặc, ách tắc
thì quá trình sản xuất kinh daonh sẽ lâm vào trì trệ.
Hiện nay khi mà nền kinh tế thế giới đã phát triển sang một giai đoạn mới, lúc này
ngân hàng phải phát huy đầy đủ các chức năng của mình đó là trung tâm thanh toán trong
nền kinh tế.
ở đây ta hiểu thanh toán không dùng tiền mặt là sự vận động của tiền tệ với chức
năng là phưong tiện thanh toán giữa các tổ chức cá nhân trong xã hội bằng cách trích
chuyển vốn tiền tệ từ tài khoản này sang tài khoản khác hoặc bằng cách bù trừ lẫn nhau
thông qua vai trò trung gian thanh toán của ngân hàng hay các tổ chức tín dụng khác.
Đối với nền kinh tế thị trường thanh toán không dùng tiền mặt có vai trò rất lớn.
+ Đối với nền kinh tế nói chung :
- Thanh toán không dùng tiền mặt không chỉ phục vụ cho các hoạt động của các tổ
chức, cá nhân mà nó còn góp phần mở rộng các quan hệ kinh tế khác trong nền kinh tế
quốc dân.
- Thúc đẩy nhanh quá trình luân chuyển hàng hoá , vật tư, tăng nhanh tốc độ lưu
chuyển vốn trong nền kinh tế.
+ Đối với ngân hàng :
- Thanh toán không dùng tiền mặt giúp cho ngân hàng tập chung được các nguồn
vốn trong dân cư.
- Giúp cho ngân hàng có được khoản thu từ phí cung cấp dịch vụ thanh toán ổn định
và an toàn.
- Tạo điều kiện cho Ngân hàng nhà nước kiểm soát và điều tiết lượng tiền đi vào lưu
thông, từ đó có các chính sách phù hợp tác động vào nền kinh tế.
-Với vai trò là các trung gian tài chính việc thanh toán qua ngân hàng giúp cho việc
thu thập các nguồn thông tin về doanh nghiệp và sự chuyển dịch vốn trong nền kinh tế.
Tạo điều kiện cho việc thẩm định các dự án đầu tư được tố hơn.


+ Đối với xã hội :
- Tạo môi trường thanh toán văn minh, lịch sự, thuận tiện và nhanh chóng.
- Giúp người dân có thói quen thanh toán qua ngân hàng và sử dụng các dịch vụ ngân
hàng.
- Hạn chế nạn tiền giả, rửa tiền, thành lập các quỹ đen…
2.1
Tinh hinh chung ttkdtm
Thanh toán không dùng tiền mặt là dịch vụ khá phổ biến đem lại sự nhanh chóng,
chính xác, an toàn và bảo mật cho khách hàng. Thế nhưng hiện nay còn đến 85% dân
cư chưa “mặn mà” với phương thức thanh toán nay.
Theo Ngân hàng Nhà nước, chi phí cho in ấn, vận chuyển, kiểm đếm, bảo quản tiền mặt
là rất lớn. Việc thanh toán không dùng tiền mặt sẽ giảm lượng tiền lưu thông trong nền
kinh tế góp phần giảm chi phí cho xã hội.
Mặt khác, mỗi một doanh nghiệp, cá nhân đều giữ một lượng tiền mặt nhất định để chờ
sử dụng. Nếu khách hàng gửi vào ngân hàng để thanh toán bằng chuyển khoản thì số tiền
này sẽ Hiện nay, các ngân hàng đang hoàn thiện và nâng cao chất lượng dịch vụ trên nền
tảng công nghệ tiên tiến, sẵn sàng đáp ứng nhu cầu thanh toán không dùng tiền mặt cho
doanh nghiệp và cá nhân thông qua hệ thống Internet banking, home banking, phone
banking, dịch vụ thanh toán và chuyển tiền qua hình thức ủy nhiệm thu-chi, séc, nhờ
thu ; dịch vụ thanh toán bằng thẻ ngân hàng.
giảm. Ngân hàng sẽ huy động thêm nhiều nguồn vốn để đầu tư cho nền kinh tế.
Sự thiếu liên kết thanh toán giữa các ngành đã hạn chế đến việc phát triển mạng lưới
thanh toán không dùng tiền mặt trên toàn quốc; hiện nay chưa đến 50% khách sạn trang
bị máy thanh toán thẻ, khoảng 10% nhà hàng, 6% điểm bán vé máy bay và 1% siêu thị
chấp nhận thanh toán thẻ.
Đặc biệt thói quen thanh toán bằng tiền mặt của người dân là khó khăn lớn nhất đối với
việc thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt.
Tình hình TTKDTM ở Việt Nam những năm qua
Theo đánh giá của các cơ quan chức năng, mức độ thanh toán bằng tiền mặt ở Việt Nam là
rất phổ biến. Khảo sát thực trạng thanh toán năm 2003 tại 750 doanh nghiệp Việt Nam ở 3

miền Bắc, Trung, Nam cho thấy: các doanh nghiệp tư nhân (có trên 500 công nhân trở lên)
tiến hành 63 % các giao dịch qua hệ thống ngân hàng. Những doanh nghiệp có ít hơn 25
công nhân, 47% các giao dịch được thực hiện qua hệ thống ngân hàng. Các doanh nghiệp
Nhà nước tiến hành 80% các giao dịch thông qua hệ thống ngân hàng.
Hầu hết các doanh nghiệp Nhà nước và tư nhân đều trả lương cho người lao động bằng
tiền mặt. Trong các hộ kinh doanh, có đến 86,2% số hộ vẫn chi trả hàng hóa bằng tiền mặt;
75% số hộ kinh doanh chi trả dịch vụ bằng tiền mặt; 72% số hộ kinh doanh tư nhân nộp thuế
bằng tiền mặt…
Tuy nhiên, một số năm trở lại đây, tỷ trọng tiền mặt trên tổng phương tiện thanh toán xã hội
đang có xu hướng giảm dần qua từng năm. Năm 1997 là 32,2%; năm 2001 là 23,7%; năm
2004 là 20,3%; năm 2005 là 19% và đến tháng 3-2006 là 18,5). Năm 2009, tổng phương tiện
thanh toán qua hệ thống ngân hàng thực hiện 390.862 tỷ đồng, tăng 23,71% so với cuối năm
2008; trong đó, thanh toán bằng tiền mặt chiếm tỷ trọng 21,50%, thanh toán không dùng tiền mặt
chiếm tỷ trọng 78,50% (cuối năm 2008 là 19,55% và 80,45%).
Từ nền tảng thanh toán hoàn toàn thủ công (mọi giao dịch thanh toán đều dựa trên cơ sở
chứng từ giấy), hệ thống thanh toán xã hội của Việt Nam chuyển dần sang phương thức xử
lý bán tự động. Đến nay, các giao dịch thanh toán sử dụng chứng từ điện tử chiếm tỷ trọng
khá lớn trong các hoạt động giao dịch thanh toán. Thời gian xử lý hoàn tất một giao dịch
được rút ngắn từ hàng tuần xuống còn vài phút, vài giây, hoặc tức thời.
Dịch vụ tài khoản cá nhân của hệ thống ngân hàng thương mại hiện đang phát triển. Số
lượng tài khoản cá nhân trong toàn bộ hệ thống ngân hàng cuối năm 2004 tăng gần 10 lần
so với năm 2000 (từ 135.000 tài khoản lên tới 1.297.000 tài khoản). Năm 2005 đã tăng lên 5
triệu tài khoản với số dư khoảng 20.000 tỷ đồng. Số tài khoản tăng trung bình khoảng 150%;
số dư tài khoản tăng trung bình 120% mỗi năm.
Máy giao dịch tự động (ATM), các thiết bị POS và mạng lưới đơn vị chấp nhận thẻ ngân
hàng đã có những phát triển đáng kể về số lượng. Đến tháng 6-2006, số máy ATM là 2,154
máy; số lượng đơn vị chấp nhận thẻ khoảng 12.000 (so với 8.789 đơn vị chấp nhận thẻ năm
2003).
Về đối tượng tham gia cung ứng dịch vụ thanh toán không còn giới hạn ở các ngân hàng,
Kho bạc Nhà nước mà còn có cả các tổ chức khác không phải ngân hàng. Thị trường dịch

vụ thanh toán trở nên cạnh tranh hơn, không chỉ giữa các ngân hàng mà còn giữa ngân
hàng và các tổ chức làm dịch vụ thanh toán.
Xu hướng liên doanh, liên kết hình thành giúp nhiều ngân hàng thương mại nhỏ vượt qua
những hạn chế về vốn đầu tư cho công nghẹ, trang thiết bị của hệ thống thanh toán. Đây là
một trong nhiều yếu tố góp phần vào sự tăng trưởng lượng thẻ phát hành trong lưu thông
gần đây.
Định hướng phát triển phương thức TTKDTM trong thời gian tới
Một trong những định hướng quan trọng của Chính phủ về việc phát triển phương thức TTKDTM
là triển khai Đề án TTKDTM, trong đó đưa ra 6 giải pháp đồng bộ giúp tạo cơ sở pháp lý quan
trọng cho hoạt động TTKDTM ở Việt Nam trong thời gian tới.
Theo Đề án, đến cuối năm 2010, mức phát hành thẻ trong thanh toán phấn đấu đạt 15 triệu thẻ;
70% các trung tâm thương mại, siêu thị, nhà hàng… lắp đặt các thiết bị chấp nhận thanh toán
bằng thẻ. Con số này đến năm 2020 phấn đấu đạt lần lượt là 30 triệu thẻ và 95%. Tỷ lệ tiền mặt
trên tổng phương tiện thanh toán đến năm 2010 không quá 18%; đến năm 2020 khoảng 15%. Số
lượng tài khoản cá nhân vào cuối năm 2010 đạt mức 20 triệu; 70% cán bộ hưởng lương ngân
sách và 50% công nhân lao động trong khu vực doanh nghiệp, tư nhân thực hiện trả lương qua
tài khoản. Đến năm 2020 đưa những con số này lên lần lượt là 45 triệu tài khoản cá nhân (bình
quân mỗi người có 0,5 tài khoản); 95% cán bộ hưởng lương ngân sách và 80% lao động được
trả lương qua tài khoản. Các khoản thanh toán giữa các doanh nghiệp thực hiện qua ngân hàng
đạt mức 80% vào năm 2010 và đạt 95% vào năm 2020.
Nhóm giải pháp thưc hiện.
Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động thanh toán của nền kinh tế, bao gồm: phân định rõ
quyền hạn, trách nhiệm của các bên tham gia TTKDTM. Trên cơ sở đó, tiến hành kiểm soát rủi
ro pháp lý thích hợp bảo đảm phù hợp với các chuẩn mực thông lệ quốc tế; tạo lập môi trường
cạnh tranh công bằng, đảm bảo khả năng tiếp cận thị trường và dịch vụ của các chủ thể tham
gia; hình thành cơ chế bảo vệ khách hàng hữu hiệu và bảo đảm quy trình giải quyết tranh chấp
khách quan…
Phát triển TTKDTM trong khu vực công: Thực hiện thí điểm TTKDTM trong năm 2007 và 2008 tại
một cơ quan Trung ương; phát triển thẻ thương mại trong khu vực Chính phủ để đến năm 2008
mở rộng đối tượng thực hiện sang các Bộ, cơ quan ngang Bộ, ủy ban nhân dân các tỉnh, TP, sở,

ban ngành địa phương lớn… Từ năm 2011-2020, triển khai mở rộng đến các đối tượng là sở,
ban, ngành, các cấp chính quyền huyện, xã trên phạm vi toàn quốc…
Phát triển TTKDTM trong khu vực doanh nghiệp: nghiên cứu xác định nhu cầu và khả năng
TTKDTM của các doanh nghiệp trong năm 2007; áp dụng thực hiện trước hết đối với các tập
đoàn và các Tổng công ty lớn, tiến hành trên 3 thành phố là Hà Nội, Đà Nẵng, TP Hồ Chí Minh;
từ đó đề ra biện pháp cụ thể thích hợp.
Phát triển TTKDTM trong khu vực dân cư: chủ yếu tập trung phát triển các phương tiện, dịch vụ
TTKDTM đáp ứng nhu cầu thanh toán tại các trung tâm thương mại, dịch vụ, khách sạn, nhà
hàng Đến năm 2010, triển khai phổ biến các giao dịch thanh toán định kỳ qua tài khoản như
thanh toán tiền điện, nước, dịch vụ công cộng khác…
Phát triển các hệ thống thanh toán và giải pháp hỗ trợ phát triển TTKDTM: phát triển và củng cố
các liên minh thẻ hiện có; tiến hành kết nối trung tâm chuyển mạch thẻ quốc gia với Trung tâm
thanh toán bù trừ và quyết toán chứng khoán; phổ biến kiến thức và tuyên truyền về TTKDTM;
có chính sách ưu đãi về thuế, phí trong lĩnh vực thanh toán. Đặc biệt khuyến khích TTKDTM
bằng chính sách thuế giá trị gia tăng; xây dựng cơ chế tính phí dịch vụ thanh toán hợp lý và các
giải pháp về tài chính phục vụ phát triển TTKDTM
Thực trạng thanh toán không dùng tiền mặt trong khu vực công
Thanh toán dùng tiền mặt tại Việt Nam thời gian gần đây có xu hướng giảm dần, tỷ trọng
tiền mặt so với tổng phương tiện thanh toán theo thống kê năm 2008 là 14,6% (năm 2007
là 16,36%, năm 2001 là 23,7% và năm 1997 là 32,2%). Điều này cho thấy thanh toán
không dùng tiền mặt đang được hệ thống ngân hàng mở rộng và phát triển, góp phần
giảm đáng kể lượng tiền mặt trong thanh toán.
Cơ sở hạ tầng phục vụ thanh toán không dùng tiền mặt cũng đã được chú trọng đầu tư
phát triển mạnh. Ngày 28/2/2009, Ngân hàng Nhà nước đã tiến hành khai trương Hệ
thống thanh toán điện tử liên ngân hàng giai đoạn 2, đánh dấu một giai đoạn mới của hệ
thống thanh toán ngân hàng với những thay đổi cơ bản về kỹ thuật, công nghệ tiên tiến,
hiệu năng xử lý và quy trình nghiệp vụ hiện đại theo thông lệ quốc tế, đáp ứng nhu cầu
thanh, quyết toán tức thời và dung lượng ngày càng cao của đất nước. Hệ thống này giữ
vai trò là hệ thống thanh toán xương sống của quốc gia, tạo cơ hội mở rộng các dịch vụ
ngân hàng hiện đại, thay đổi tư duy kinh doanh ngân hàng truyền thống và tạo thuận lợi

cao nhất cho mọi đối tượng khách hàng. Hiện nay, Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân
hàng đã sẵn sàng kết nối với Hệ thống thanh toán của Kho bạc Nhà nước, Hệ thống thanh
toán bù trừ và quyết toán chứng khoán và các hệ thống cần thiết khác.
Về phía các ngân hàng thương mại (NHTM), bên cạnh việc đẩy mạnh triển khai hệ thống
Core Banking để hiện đại hóa hệ thống thanh toán nội bộ, mở rộng mạng lưới…, cũng
không ngừng đầu tư vào cơ sở hạ tầng phục vụ cho hoạt động thanh toán. Nhiều phương
tiện thanh toán không dùng tiền mặt mới, hiện đại, tiện ích ứng dụng công nghệ cao như
thẻ ngân hàng, thanh toán qua Internet, qua điện thoại di động, ví điện tử, đã được cung
ứng nhằm đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế.
Với xu thế phát triển hiện tại, thẻ ngân hàng đã và đang trở thành phương tiện thanh toán
phổ biến tại Việt Nam, được các NHTM chú trọng phát triển. Đến cuối tháng 6/2009,
toàn thị trường đã có 8.800 ATM và 28.300 POS, khoảng 17.032.000 thẻ đang lưu hành
với 176 thương hiệu thẻ do 41 tổ chức phát hành.
Để phát triển dịch vụ thanh toán thẻ hiệu quả, đáp ứng nhu cầu cấp thiết hiện nay, Ngân
hàng Nhà nước đã trình và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án xây dựng Trung
tâm chuyển mạch thẻ thống nhất, qua đó thực hiện kết nối các hệ thống ATM của các liên
minh thẻ hiện hành thành một hệ thống nhất trên toàn quốc nhằm tăng tính thuận tiện cho
người sử dụng dịch vụ thẻ ngân hàng, thúc đẩy thanh toán bằng thẻ ngân hàng, góp phần
thực hiện chủ trương của Chính phủ phát triển thanh toán không dùng tiền mặt; đồng thời
tăng hiệu quả quản lý nền kinh tế của các cơ quan quản lý thông qua kênh thanh toán và
từng bước minh bạch hoá nền kinh tế.
Thanh toỏn bằng thẻ, dự cũn khỏ khiờm tốn nhưng được coi là khả
quan và cú chiều hướng phỏt triển vỡ đang hấp dẫn cỏ nhõn sử dụng. Sau
thời kỳ hoàng kim những năm đầu thập kỷ 90, tỡnh hỡnh sử dụng thẻ tớn
dụng tại Việt Nam đó chững hẳn lại, và chỉ gần đõy mới sụi động lờn với sự
tham gia của nhiều ngõn hàng phỏt hành và thanh toỏn.
Ta có thể thấy thực trạng của hoạt động thanh toán thẻ qua sự phát triển và một số
vấn đề của hình thức thanh toán này ở các ngân hàng lớn tại Việt Nam.
ở nước ta, thanh toán bằng séc đã ra đời từ những năm 1960 nhưng đến nay, phương tiện
thanh toán này ngày càng giảm. Mặc dù thanh toán bằng séc có nhiều thuận lợi và nhanh chóng

trong giao dịch mua bán, người mua hàng ký séc đưa cho người bán và người bán chỉ cần cầm
séc và CMND ra ngân hàng là có thể nhận được tiền hoặc chuyển vào tài khoản nhưng hiện nay,
tỷ lệ thanh toán bằng séc mới chiếm khoảng 2% trong tổng thanh toán phi tiền mặt; Ông Vũ Huy
Toản - Phó Giám đốc NHNN thành phố Hồ Chí Minh cho rằng nguyên nhân thanh toán bằng séc
bị hạn chế là do chưa có quy định bắt buộc về hạn mức phải thanh toán bằng séc mà hiện chỉ
“động viên” dùng séc và một nguyên nhân khác là sự lo ngại của người bán hàng sợ tài khoản
của người mua không còn tiền, séc giả, dễ dẫn đến rủi ro. Việc thanh toán séc cũng gặp không ít
phiền phức nếu khách mua và khách bán không có tài khoản ở cùng một ngân hàng, buộc các
NHTM phải thông qua hệ thống thanh toán bù trừ của NHNN nhưng hiện tại, NHNN chưa có
Trung tâm thanh toán bù trừ séc.
Tuy nhiên, nhìn chung, thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam hiện nay vẫn chưa
phát triển mạnh, tiền mặt vẫn là phương thức thanh toán chủ yếu, chiếm tỷ trọng lớn
trong khu vực công, doanh nghiệp và dân cư. Chất lượng, tiện ích mới trong thanh toán
không dùng tiền mặt còn hạn chế, các tiện ích thiết thực và phổ biến (như thanh toán tiền
điện, nước, điện thoại, truyền hình cáp) chưa được triển khai mạnh trên thực tế. Các dịch
vụ thanh toán trực tuyến như Mobile Banking, Internet Banking, Ví điện tử… mới chỉ
dừng lại ở quy mô nhỏ hẹp, chưa triển khai trên diện rộng để đáp ứng nhu cầu thanh toán
nhỏ lẻ của khách hàng.
Trong quá trình triển khai thanh toán không dùng tiền mặt trong khu vực công, bên cạnh
mặt đạt được vẫn còn những tồn tại, hạn chế. Mặc dù, các tổ chức cung ứng dịch vụ
thanh toán đã cố gắng tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng, đa dạng hóa dịch vụ, mở rộng
mạng lưới khách hàng, nhưng hạ tầng CNTT và viễn thông phục vụ thanh toán của các
NHTM còn chưa đáp ứng nhu cầu gia tăng về hoạt động thanh toán trong nền kinh tế;
trong quá trình triển khai Chỉ thị 20 đã nảy sinh một số vướng mắc, chất lượng dịch vụ
trả lương qua tài khoản và chăm sóc khách hàng chưa tốt (máy ATM hết tiền, gặp trục
trặc kỹ thuật, việc giải quyết khiếu nại, khiếu kiện chưa nhanh chóng, kịp thời, …). Do
nhiều nguyên nhân, các Đề án thành phần về thanh toán không dùng tiền mặt được triển
khai khá chậm, chưa được như mong muốn và thực tế đang gặp nhiều khó khăn. Các Đề
án thành phần đều là những vấn đề mới, phức tạp, nên ý kiến của các đơn vị cũng còn rất
khác nhau; cách tiếp cận và xử lý vấn đề cũng khác nhau. Vấn đề chi trả trợ cấp ưu đãi xã

hội và trợ cấp xã hội qua tài khoản thời gian qua cũng gặp nhiều khó khăn. Đối tượng
được chi trả là những người có công với cách mạng nhiều ở khắp các thôn bản, xã,
phường trong cả nước, hầu hết là người cao tuổi, thương binh, bệnh binh đi lại gặp nhiều
khó khăn; mặt khác nhiều đối tượng là dân tộc thiểu số và có những trường hợp không
biết chữ nên việc tự giao dịch qua tài khoản là không thực hiện được; bên cạnh đó, các
ngân hàng chỉ có các chi nhánh tại các quận, huyện, thành phố thuộc tỉnh chưa có tại cấp
xã nên việc chi trả cũng không đáp ứng được yêu cầu.
Một số đề xuất để tạo đà phát triển
Thanh toán không dùng tiền mặt nói chung và trong khu vực công nói riêng là một lĩnh
vực rất quan trọng trong hoạt động ngân hàng và còn rất nhiều việc phải làm. Đây là
những lĩnh vực mới, phức tạp và có những thay đổi nhanh chóng do sự tác động của tiến
bộ khoa học công nghệ. Để đẩy mạnh phát triển thanh toán không dùng tiền mặt trong
khu vực công, trong thời gian tới, cần triển khai
một số định hướng, giải pháp cụ thể sau:
Thứ nhất, tiếp tục triển khai thực hiện Đề án thanh toán không dùng tiền mặt theo Quyết
định 291, phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế, hạ tầng kỹ thuật công nghệ và
hệ thống thanh toán. Các giải pháp phát triển thanh toán không dùng tiền mặt không
mang tính hành chính, áp đặt, gây tác động tiêu cực đến sự phát triển của các hoạt động
kinh tế - xã hội, mà hướng tới việc sử dụng các biện pháp kinh tế là chủ yếu nhằm huy
động các nguồn lực của tư nhân để đầu tư phát triển thanh toán không dùng tiền mặt. Cần
có sự phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ, ngành, tăng cường tính kỷ luật trong quá trình triển
khai thực hiện và tuân thủ các quy định về thanh toán bằng tiền mặt tại Nghị định 161
của Chính phủ và Quyết định 291 của Thủ tướng Chính phủ. Trên cơ sở rà soát, đánh giá
tình hình triển khai Đề án thanh toán không dùng tiền mặt giai đoạn 2006 - 2010, Ngân
hàng Nhà nước cần trình Thủ tướng Chính phủ bổ sung, chỉnh sửa các quy định tại Quyết
định 291 đảm bảo tính khả thi, phù hợp với tình hình phát triển của công nghệ thông tin,
lĩnh vực thanh toán và nền kinh tế trong giai đoạn tới.
Thứ hai, Ngân hàng Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện cơ sở pháp lý liên quan đến hoạt
động thanh toán, ngay từ việc sửa đổi, bổ sung Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ
chức tín dụng để củng cố vị thế pháp lý của Ngân hàng Nhà nước trong việc kiểm soát

hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt; đồng thời hoàn thiện các văn bản dưới Luật
liên quan đến các phương tiện, hình thức thanh toán hiện đại để đảm bảo tính ổn định, an
toàn và hiệu quả của hệ thống thanh toán. Khung pháp lý rõ ràng, minh bạch và sự giám
sát hợp lý của Ngân hàng Nhà nước đối với hệ thống ngân hàng cũng là một yếu tố quan
trọng trong việc tăng cường lòng tin của người sử dụng và giới doanh nghiệp vào hệ
thống thanh toán quốc gia.
Thứ ba, thúc đẩy phát triển thanh toán trong khu vực công nhằm từng bước tăng hiệu lực
quản lý thu chi ngân sách; thúc đẩy thanh toán trong khu vực doanh nghiệp để tăng hiệu
quả sử dụng vốn, phục vụ cho mục tiêu phát triển thương mại điện tử và tăng sức cạnh
tranh của doanh nghiệp trong tiến trình hội nhập; khuyến khích mở rộng thanh toán trong
khu vực dân cư bằng các phương tiện thanh toán phù hợp để từng bước giảm giao dịch
bằng tiền mặt trong lưu thông.
Thứ tư, tăng cường hiện đại hóa và đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong công tác thanh toán
trên nền tảng CNTT hiện đại, theo hướng tự động hóa và tăng tốc độ xử lý các giao dịch,
bảo đảm dễ dàng kết nối, giao diện với các hệ thống ứng dụng khác; thực hiện kết nối Hệ
thống Thanh toán điện tử liên ngân hàng và Hệ thống thanh toán điện tử Kho bạc Nhà
nước (Hệ thống TABMIS). Triển khai nhanh chóng, có hiệu quả Đề án xây dựng Trung
tâm chuyển mạch thẻ thống nhất.
Thứ năm, tiếp tục triển khai thực hiện Chỉ thị 20 trong giai đoạn 2 với mục tiêu trong năm
2009 là phát huy những ưu điểm và kinh nghiệm tốt, khắc phục những mặt hạn chế và xử
lý tốt những vướng mắc trong năm 2008, trong đó đặt trọng tâm vào chất lượng, tiếp tục
triển khai mở rộng theo tinh thần thận trọng, đúng đối tượng; mở rộng việc thực hiện trả
lương qua tài khoản cho các đối tượng hưởng lương ngân sách ở những nơi các tổ chức
cung ứng dịch vụ thanh toán có khả năng đáp ứng, kể cả mở rộng việc trả lương cho
người lao động ở các doanh nghiệp cũng như các đối tượng khác. Đồng thời, chú ý và
tăng cường tuyên truyền dưới nhiều hình thức như trên các phương tiện thông tin đại
chúng, tờ rơi, tạo các diễn đàn trao đổi thông tin v.v để khách hàng tiềm năng có thể
thấy được những tiện ích của việc thanh toán không dùng tiền mặt;
Về vấn đề chi trả trợ cấp ưu đãi xã hội và trợ cấp xã hội, trước mắt vẫn thực hiện chi trả
theo quy định hiện hành của Bộ Tài chính. Mặc dù theo Quyết định 291, lộ trình ban đầu

triển khai thí điểm tại các quận, huyện, sau đó triển khai trên diện rộng, tuy nhiên hiện
nay, việc thực hiện trả lương qua tài khoản vẫn phải rút tiền mặt từ tài khoản mà chưa
phát triển thanh toán không dùng tiền mặt qua tài khoản, vì vậy, đối với đối tượng này
cần triển khai thận trọng và có lộ trình cụ thể, phù hợp với cơ sở hạ tầng cho phép.
Thứ sáu, cần tăng cường thu hút nguồn lực và sự hỗ trợ kỹ thuật từ các tổ chức quốc tế;
Ưu tiên nguồn kinh phí cho việc phát triển công nghệ, đạo tạo cán bộ trong lĩnh vực
thanh toán; Tăng cường trao đổi, học tập kinh nghiệm về quản lý chi tiêu công của các
nước phát triển trên thế giới và trong khu vực.
Có thể nói, trong bối cảnh nhập kinh tế khu vực và thế giới hiện nay, thanh toán không
dùng tiền mặt trong khu vực công thực sự là một giải pháp có hiệu quả, đi tiên phong, mở
đường, làm hình mẫu để triển khai thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam
*NHTM nên làm gì để phát triển hoạt động
TTKDTM ở việt nam?
3.1 Một số đinh hướng phát triển các hình thức thanh toán không dùng
tiền mặt tại việt nam.
+ Hình thành môi trường minh bạch, lành mạnh và bình đẳng cho hoạt động tiền tệ -
ngân hàng. ứng dụng phổ biến công nghệ thông tin, mở rộng nhanh các hình thức thanh
toán không dùng tiền mặt và thanh toán qua ngân hàng. Đa dạng hóa các hình thức huy
động vốn, cho vay, cung ứng các dịch vụ và tiện ích ngân hàng thuận lợi và thông thoáng
đến mọi doanh nghiệp và dân cư, đáp ứng kịp thời các nhu cầu vốn tín dụng cho sản xuất,
kinh doanh và đời sống, chú trọng khu vực nông nghiệp, nông thôn.
+ Hình thành đồng bộ khuôn khổ pháp lý, áp dụng đầy đủ hơn các thiết chế và chuẩn
mực quốc tế về an toàn trong kinh doanh tiền tệ - ngân hàng.
+ Cùng với việc sắp xếp lại bộ máy tổ chức, đào tạo cán bộ, xây dựng hoàn chỉnh cơ
chế chính sách, hệ thống thanh tra, kiểm soát Ngành Ngân hàng cần đặc biệt chú ý đến
lĩnh vực đầu tư đổi mới công nghệ, ứng dụng nhanh sự tiến bộ của Khoa học Công nghệ
thông tin (CNTT) trong hoạt động Ngân hàng.
+ ứng dụng các thiết bị hiện đại cho hoạt động Ngân hàng.
Trong cơ chế thị trường, để phục vụ cho nền kinh tế, tăng cường sức
cạnh tranh lành mạnh của từng Ngân hàng: Mở rộng, đa dạng các loại hình

dịch vụ và hoạt động Ngân hàng của một Ngân hàng hiện đại, nhất thiết phải
đầu tư, trang bị các phương tiện kỹ thuật tiên tiến, xây dựng một hệ thống kỹ
thuật công nghệ thông tin hiện đại. Việc xác định điểm xuất phát, lựa chọn
giải pháp và hướng đi là bài toán khó, cho dù chúng ta có lợi thế của "người
đi sau", thông qua những kinh nghiệm của "người đi trước". Tuy nhiên, vấn
đề này phải được nghiên cứu thận trọng, tỷ mỷ, khoa học trên cơ sở phù hợp
với điều kiện kinh tế Việt Nam để quyết định một hướng đi, một giải pháp
khoa học. Chúng ta không thể theo giải pháp "đóng" của các nước đã đi
trước khi mà xu thế của thế giới là toàn cầu hóa, đa dạng hóa. Giải pháp
"mở" sẽ tạo ra chúng ta nhiều cơ hội thuận lợi trong đầu tư những thiết bị
mạnh nhất, phù hợp với khả năng tài chính và kỹ thuật.
+ Nhân lực cho công nghệ. Đây là yếu tố rất quan trọng, quyết định mọi sự thành công.
Khi đổi mới từ cơ chế quản lý kế hoạch hóa sang cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước, không chỉ trang bị thêm cho đội ngũ cán bộ Ngân hàng kiến thức quản lý
mới, nghiệp vụ mới, mà còn phải trang bị thêm những kiến thức công nghệ hiện đại, thay
đổi cách nghĩ, cách làm, kỹ năng mới. Trong chiến lược cán bộ thì đào tạo, đào tạo lại đội
ngũ cán bộ Ngân hàng hiện có mang ý nghĩa quan trọng; bởi lẽ, đây là đội ngũ nòng cốt,
có bề dày công tác, nhiều kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ. Đồng thời, tăng
cường chất lượng lực lượng cán bộ trẻ được đào tạo chính quy tại các trường đại học
trong nước, ngoài nước để vận hành, quản lý Ngân hàng hiện đại trong tương lai. Khi đó,
không chỉ đơn thuần trong mối quan hệ điều hành giữa Người với Người trước đây, nó
được thay thế bằng mối quan hệ giữa Người với Máy tính. Sự điều hành, tác nghiệp của
mỗi cán bộ Ngân hàng trên cơ sở những thông tin chính xác do máy tính thu nhận, phân
tích và cung cấp. Vì vậy, đòi hỏi từ thực tiễn phải chuẩn bị một lực lượng khoa học công
nghệ cho hiện tại và tương lai.
+ Sử dụng các công cụ Marketing nâng cao khả năng cạnh tranh của các ngân hàng.
*giải pháp
Qua việc phân tích thực trạng, thuận lợi, khó khăn và hướng phát triển nêu
trên, để có thể mở rộng hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt, phát huy
đầy đủ thế mạnh và vai trò của nó trong nền kinh tế thiết nghĩ cần phải thực

hiện một số giải pháp sau :
+ thứ nhất, xây dựng và ban hành hệ thống các văn bản pháp quy có
hiệu lực cao để tạo môi trường và hành lang pháp lý vững chắc cho các hoạt
động thanh toán.
Cần hoàn thiện Luật Séc. Hiện nay Séc vẫn là công cụ thanh toán rất phổ
biến ngay cả khi có các công cụ thanh toán mới xuất hiện như thẻ thanh
toán. Do vậy cần hoàn thiện luật Séc, có vậy thì mới điều chỉnh được các
quan hệ về nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi của các bên liên quan. Cả
khách hàng và ngân hàng sẽ thực sự yên tâm hơn khi sử dụng Séc.
+ Thứ hai, thúc đẩy nhanh quá trình hiện đại hoá công nghệ ngân hàng.
Đầu tư trang thiết bị hiện đại, đổi mới công nghệ ngân hàng để thực hiện
nhanh chóng, an toàn và chính xác là chủ trương lớn mà nghành ngân hàng
đã đề ra từ nhiều năm nay.
- Ngân hàng nhà nước phải có kế hoạch, biện pháp tiếp nhận và sử
dụng hợp lý các nguồn tài trợ của nước ngoài, đặc biệt là của WorldBank.
- Ngân hàng nhà nước và các ngân hàng thương mại phải phối hợp
với nhauđể nghiên cứu xây dựng quy trình chuyển tiền thanh toán điện tử
đồng bộ, thống nhất dựa trên một số nguyên tắc chung nhất. Tránh tình trạng
tự phát gây sự lãng phí lớn và thiếu đồng bộ.
+ Thứ ba, là tiếp tục triển khai, khuyến khích tổ chức cá nhân mở tài
khoản và thanh toán tại ngân hàng.
- Ngân hàng phải cung cấp các thông tin về hoạt động của ngân hàng,
các tiện ích của các dịch vụ mà ngân hàng cung ứng bằng cách tuyên truyền,
quảng cáo bằng nhiều hình thức khác nhau. Đây phải là việc làm thường
xuyên tích cực chứ không phải qua loa đại khái, hình thức. Nói cách khác
các ngân hàng phải nâng cao năng lực cạnh tranh của mình.
- Trong giai đoạn đầu, để khuyến khích sử dụng thanh toán không
dùng tiền mặt, chúng ta có thể chú trọng phát triển theo chiều rộng để người
dân thấy được ưu điểm của nó. Các ngân hàng nên thu phí dịch vụ thấp,
thậm chí chịu lỗ trong giai đoạn đầu, thể hiện sự “nhìn xa trông rộng của

mình”.
+ Thứ tư, la nâng cao năng lực trình độ của cán bộ làm công tác thanh
toán, tiếp xúc khách hàng.
- Trong hoạt động ngân hàng nói chung và lĩnh vực thanh toán nói
riêng, yếu tố tổ chức và con người là quyết định. Do vậy người làm công tác
thanh toán phải có đầy đủ năng lực, chuyên môn. Ngoài ra còn phải nắm
vững luật pháp và chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước, của nghành.
- Tất cả những yếu tố như cơ sở vật chất, con người…dưới con mắt
khách hàng đó là hình ảnh của ngân hàng. Vì vậy cần hết sức lưu ý. Chúng
ta phải xây dựng hệ thống ngân hàng hiện đại nhưng phải phù hợp với hoàn
cảnh. Đại bộ phận dân cư còn có mức thu nhập thấp, họ rất ngại đến ngân
hàng và tiếp xúc với nhân viên ngân hàng. Hình ảnh một nhân viên tiếp xúc
khách hàng với vẻ mặt khó đăm đăm, hành chính là rất khó chịu với khách
hàng. Đây cũng là yếu tố khiến cho cách hoạt động của ngân hàng chưa
được xã hội hoá.
Vì vậy phải đào tạo đội ngũ nhân viên ngân hàng cỏi mở, phải xây dựng
hình ảnh ngân hàng luôn là bạn tốt của Doanh nghiệp, của người dân.
Không những cung cấp dịch vụ tốt nhất cho khách hàng mà còn có khả
năng tư vấn, hỗ trợ khách hàng.
-Vấn đề an toàn, bảo mật :
Hiện nay rất nhiêu người còn e dè chưa giám sử dụng các hình thức thanh
toán không dùng tiền mặt vì vấn đề an toàn và bảo mật thông tin. Nhà
nước nên coi các hành vi trộm cắp các thông tin về tài khoản, mã số …là
hành vi vi phạm pháp luật và có khung hình phạt thích đáng. Đồng thời
các ngân hàng phải phối hợp tìm giải pháp bảo mật thông tin cho khách
hàng. Phải để khách hàng thấy rằng gửi tiền vào ngân hàng là an toàn và
kinh tế hơn là cất trong két sắt. Điều còn có lợi cho ngân hàng trong việc
huy động vốn phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội.
- Các cơ quan nhà nước nên đi đầu trong lĩnh vực này. Chẳng hạn thay
vì dùng thủ quỹ trả lương cho nhân viên như hiện nay chúng ta chuyển

lương vào tài khoản của nhân viên mở tại ngân hàng, tạo thói quen và nhân
rộng các hoạt động thanh toán qua ngân hàng .
- Về phía ngân hàng, phải làm tốt thanh toán liên hàng nói riêng và sự
hợp tác giữa các ngân hàng nói chung.
Trên đây là một số giải pháp chung, cơ bản để có thể phát triển thanh toán
không dùng tiền mặt tại Việt Nam hiện nay.
+ Thứ năm, có chính sách vĩ mô về quản lý bằng tiền mặt, trước mắt là
các tổ chức , doanh nghiệp nhà nước.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×