Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Đề tài chuyển gen thực vật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (460.76 KB, 38 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT
University of Da lat
Bài báo cáo môn: NÔNG NGHIỆP
tài: Chuy n gen th c v tĐề ể ự ậ
Transgenic plants
MỞ ĐẦU

Hiện nay việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào đời sống ngày càng phát triển.
Việt Nam ta là một nước nông nghiệp nên việc ứng dụng khoa học vào trong
sản xuất là rất cần thiết, một trong những kỹ thuật dó là ứng dụng công nghệ
sinh học vào trong nông nghiệp. Hướng đi chính của việc ứng dụng này là giải
quyết vấn đề tăng năng xuất, hiệu quả sản xuất nông nghiệp.
Cùng với sự phát triển của công nghệ sinh học thì công nghệ chuyển gen vào
thực vật cũng ngày càng phát triển và được úng dụng rộng rãi. Nhiều cây trồng
quan trọng chuyển gen ra đời như lúa, ngô, lúa, mì, khoai tây, bắp cải, … Các
cây chuyển gen đã kháng được một số sâu bệnh, chịu hạn, kháng thuốc trừ sâu,
thuốc trừ cỏ, … Các cây chuyển gen đã đạt được nhiều thành tựu và giải quyết
được phần nào về vấn đề an ninh lương thực.
Vì vậy việc úng dụng công nghệ chuyển gen vào thực vật là một việc rất cần
thiết vì nó đem lại hiệu quả kinh tế cao cho người nông dân.
A. Khái niệm cây trồng biến đổi gen
1) Cây chuyển gen - Đối tượng của cuộc đối thoại
Chiến lược nông nghiệp toàn cầu đã gây ra cuộc
tranh luận sôi nổi về cây chuyển gen. Cuộc tranh
luận này đang diễn ra hầu khắp mọi nơi với
những nét đặc thù trong khoa học, kinh tế, chính
trị và thậm chí cả tôn giáo. Người ta đề cập tới
nó trong phòng thí nghiệm, cơ sở giao dịch, văn
phòng luật, ban biên tập báo, thể chế tôn giáo,
trường học, siêu thị, quán cà phê và thậm chí tại
cả tư gia. Điều gì là quan trọng trong cuộc tranh


luận này và tại sao dân chúng lại nhạy cảm về vấn đề này? Cuốn Pocket “K”
sẽ gắng làm sáng tỏ vấn đề này thông qua việc đề cập một số câu hỏi cơ bản
liên quan tới cây chuyển gen.

2) Tại sao phải tạo cây chuyển gen?
Theo phương pháp truyền thống, nhà tạo giống tìm cách tổ hợp lại các gen
giữa hai cá thể thực vật nhằm tạo ra con lai mang những tính trạng mong
muốn. Phương pháp này được thực hiện bằng cách chuyển hạt phấn từ cây
này sang nhuỵ hoa của cây khác.
Tuy nhiên phép lai chéo này bị hạn chế bởi nó chỉ có thể thực hiện được
giữa các cá thể cùng loài hoặc có họ hàng gần. Phải mất nhiều thời gian mới
thu được những kết quả mong muốn và thường là những đặc tính quan tâm
lại không tồn tại trong những loài có họ hàng gần.
Kỹ thuật chuyển gen cho phép nhà tạo giống cùng lúc đưa vào một thực vật
những gen mong muốn từ những sinh vật sống khác nhau, không chỉ giữa
các loài cây lương thực hay những loài có họ gần.
Phương pháp hữu hiệu này cho phép các nhà tạo giống thực vật đưa ra
giống mới nhanh hơn và vượt qua những giới hạn của tạo giống truyền
thống.
3) Ai tạo ra cây chuyển gen?
Hầu hết những nghiên cứu về cây chuyển gen đều được tiến hành ở các nước
phát triển, chủ yếu là Bắc Mỹ và Tây âu.
Tuy nhiên gần đây nhiều nước đang phát triển cũng đang bắt đầu những
nghiên cứu về kỹ thuật di truyền.
ở các nước phát triển, các công ty Công nghệ sinh học đã đi đầu trong việc
ứng dụng kỹ thuật chuyển gen vào nông nghiệp. Các Công ty này gồm
Aventis, Dow AgroSciences, DuPont/Pioneer, Monsanto và Syngenta.
4) Thế nào là một cây chuyển gen?
Cây chuyển gen là một thực vật mang một hoặc nhiều
gen được đưa vào nhân toạ thay vì thông qua lai tạo.

Những gen được tạo đưa vào (gen chuyển) có thể được
phân lập từ những loài thực vật có quan hệ họ hàng hoặc
từ những loài khác biệt hoàn toàn.
Thực vật tạo ra được gọi là “chuyển gen” mặc dù trên
thực tế tất cả thực vật đều được “chuyển gen” từ tổ tiên
hoang dại của chúng bởi quá trình thuần hoá, chọn lọc và
lai giống có kiểm soát trong một thời gian dài.


5) Cây chuyển gen được trồng ở đâu?
Năm 1994, giống cà chua Calgene chuyển gen
chín chem. trở thành cây chuyển gen đầu tiên
được sản xuất và tiêu thụ ở các nước công
nghiệp. Từ đó tới nay đã có thêm một số quốc gia
trồng cây chuyển gen làm tăng hơn 20 lần diện
tích cây chuyển gen trên toàn thế giới tăng hơn
47 lần.
Diện tích trồng cây chuyển gen tăng từ 1,7 triệu ha năm 1996 lên 90 triệu ha
trong năm 2005, có 14 nước được coi là có diện tích trồng cây chuyển gen
thuộc loại lớn (mega-countries) với diện tích trồng từ 50.000 ha trở lên,
trong đó có 10 nước đang phát triển và 4 nước công nghiệp. các nước có
diện tích trồng lớn xếp theo thứ tự từ lớn tới bé là Hoa Kỳ,Achentina,
Brazil,Canada, Trung Quốc, Paraguay, Ấn độ, Nam Phi,
Urugoay, Ôxtralia, Mexico, Rumani, Philippine và Tây Ban Nha (Theo
James, 2005)
6) Những lợi ích tiềm tàng của cây chuyển gen là gì?
ở các nước phát triển việc ứng dụng cây chuyển gen đã có những lợi ích rõ
rệt. Bao gồm:
• Tăng sản lượng
• Giảm chi phí sản xuất

• Tăng lợi nhuận nông nghiệp
• Cải thiện môi trường
Những cây chuyển gen thế hệ thứ nhất đã làm giảm chi phí sản xuất. Ngày
nay, các nhà khoa học đang hướng dẫn tạo ra những cây chuyển gen thế hệ
thứ hai có đặc điểm tăng giá trị dinh dưỡng hoặc có những tính trạng thích
hợp cho công nghiệp chế biến.
Lợi ích của những cây trồng này hướng trực tiếp hơn vào người tiêu dùng.
Một số ví dụ như:
• Lúa gạo giầu vitamin A và sắt
• Khoai tây tăng hàm lượng tinh bột
• Vacxin ăn được ở ngô và khoai tây
• Những giống ngô có thể trồng được trong điều kiện nghèo dinh dưỡng
• Dầu ăn có lợi cho sức khoẻ hơn từ đậu nành và cải dầu
7) Những nguy cơ tiềm ẩn của cây chuyển gen là gì?
Bao giờ cũng có những nguy cơ tiềm ẩn trong việc phát triển những kỹ thuật
mới.
Bao gồm:
• Mối nguy hiểm trong việc vô tình đưa những chất gây dị ứng hoặc
làm giảm dinh dưỡng vào thực phẩm
• Khả năng phát tán những gen biến nạp trong cây trồng sang họ hàng
hoang dại
• Sâu bệnh có nguy cơ tăng cường tính kháng với các chất độc tiết ra từ
cây chuyển gen
• Nguy cơ những chất độc này tác động tới sinh vật không phải sinh vật
cần diệt.
8) An toàn cho người tiêu dùng - Các thực phẩm chuyển gen
có an toàn hay không?
Năm 1994, thực phẩm chuyển gen đầu tiên, cây cà
chua mang tính trạng chín chậm, đã được trồng và
tiêu thụ ở một nước phát triển. Từ đó, ngày càng

nhiều các thực phẩm có nguồn gốc từ cây trồng
chuyển gen được thương mại hóa và sử dụng trên
toàn thế giới. Việc đưa các thực phẩm mới này vào
bữa ăn hàng ngày đang làm tăng lên những băn
khoăn chính đáng về độ an toàn của chúng.
Các giống cay trồng chuyển gen ngày càng được
phát triển nhừo vào các công cụ của Công nghệ sinh
học hiện đại. Cũng chính vì vậy mà rất nhiều người
thắc mắc tằng liệu các thực phẩm này có an toàn
bằng các loại thực phẩm có được nhờ sử dụng các biện pháp nông nghiệp
truyền thống hay không. Sự khác biệt giữa lai giống thông thường và Công
nghệ Sinh học thực vật là gì?
Thực ra cả hai đều có cùng một mục tiêu: Tạo ra các giống cây trồng có chất
lượng cao với những đặc tính đã được cải thiện giúp chúng phát triển tốt hơn
và ngon hơn. Sự khác biệt là ở chỗ mục đích này đạt được bằng cách nào.
“Lai giống truyền thống đòi hỏi sự trao đổi hàng ngàn gen giữa hai cây để có
được tính trạng mong muốn. Trong khi đó, nhờ Công nghệ sinh học hiện đại,
chúng ta có thể lựa chọn một đặc tính mong muốn và chuyển riêng nó vào
hạt giống. Sự khác biệt giữa hai kỹ thuật này
là rất lớn. Thử tưởng tượng bạn đang có gắng
thêm một từ tiếng Tây Ban Nha vào cuốn từ
điển tiếng Anh. Với lai giống truyền thống,
bạn phải kết hợp toàn bộ hai cuốn từ điển với
nhau và hy vọng rằng từ bạn định thêm sẽ
được đưa vào cuốn tiếng Anh. Tất nhiên rất
nhiều bạn không muốn cũng sẽ được thêm
vào. Công nghệ sinh học thực vật cho phép
chọn và chuyển chỉ riêng đặc tính mong
muốn. Phương pháp này hợp lý hiệu quả cao
và đem lại kết quả rất tốt”

Hiệp hội dinh dưỡng Mỹ Tiềm năng Công nghệ sinh học 2000.
Các kỹ thuật sử dụng trong công nghệ sinh học hiện đại cung cấp cho những
nhà lai tạo giống những công cụ chính xác cho phép họ chuyển những đặc
tính mong muốn vào cây trồng. Hơn thế nữa, họ có thể làm điều này mà
không bị chuyển thêm các tính trạng không mong muốn vào cây trồng như
vẫn thường xảy ra nếu sử dụng lai giống truyền thống. Công nghệ sinh học
thực vật tạo điều kiện cho các nhà khoa học có thể kiểm soát được những
gen chuyển, nhờ vậy có thể nghiên cứu rất chi tiết các tính trạng đưa vào.
Thực phẩm có nguồn gốc từ cây trồng chuyển gen phải trải qua nhiểu thử
nghiệm hơn bất kỳ loại thực phẩm nào trong lịch sử. trước khi được đưa ra
thị trường, chúng phải được đánh giá sao cho phù hợp với các quy định do
một vài tổ chức khoa học quốc tế đưa ra như Tổ chức Y tế Thế giới, Tổ chức
Nông nghiệp và Lowng thực thực phẩm và Tổ chức hợp tác và Phát triển
Kinh tế. Những quy định này như sau:
· Các sản phẩm chuyển gen cần được đánh giá giống như các loại thực phẩm
khác. Các nguy cơ gây ra do thực phẩm có nguồn gốc từ Công nghệ sinh học
cũng có bản chất giống như các loại thực phẩm thông thường.
· Các sản phẩm này sẽ được xem xét dựa trên độ an toàn, khả năng gây dị
ứng, độc tính và dinh dưỡng của chúng hơn là dựa vào phương pháp và kỹ
thuật sản xuất.
Bất kỳ một chất mới nào được đưa thêm vào thực phẩm thông qua Công
nghệ sính hcọ đều phải được cho phép trước khi đưa ra thị trường cũng như
việc các loại chất phụ gia mới như chất bảo quản hay nmàu thực phẩm cần
phải được cho phép trước khi thương mại hóa.
Các vấn đề còn tồn tại?
Các chất gây dị ứng
Một trong những mối quan tâm lớn nhất về thực phẩm chuyển gen là chất
gây dị ứng (một protein gây ra phản ứng dị ứng) có thể được chuyển vào
thực phẩm. May mắn thay, các nhà khoa học đã biết rất nhiều về các thực
phẩm gây ra dị ứng ở trẻ nhỏ và người trưởng thành. 90% sự dị ứng thức ăn

là có liên quan tới tám thực phẩm và nhóm thực phẩm - động vật có vỏ
(tôm, cua, sò, hến…), trứng, cá, sữa, lạc, đậu tương, quả hạch và lúa mỳ.
Những loại thực phẩm này và rất nhiều chất gây dị ứng khác đã được xác
định rất rõ và do vậy khó tin rằng chúng có thể được đa vào thực phẩm
chuyển gen.
Tuy vậy, việc kiểm tra tính dị ứng vẫn là một khâu quan trọng trong việc
kiểm tra an toàn trước khi một giống cây trồng được đưa ra làm thực phẩm.
Hàng loạt các thử nghiệm và câu hỏi phải được xem xét kỹ để quyết định
liệu thực phẩm này có làm tăng sự dị ứng hay không.
Các chất gây dị ứng có những đặc tính chung: chúng không bị phân hủy
trong quá trình tiêu hóa, chúng có xu hướng
không bị phân hủy trong quá trình chế biến thực
phẩm, và chúng thường có rất nhiều trong thực
phẩm. Không có bất kỳ protein nào được chuyển
vào thực phẩm chuyển gen đã được thương mại
hóa lại mang những đặc tính này. Chúng phải
không có tiền sử và khả năng gây dị ứng hay độc
tính, chúng không giống với các chất gây dị ứng
hay các độc tố đã biết và chức năng của chúng đã
được biết rõ. Chúng cũng có một hàm lượng rất
thấp trong thực phẩm chuyển gen, sẽ nhanh
chóng bị phân hủy trong dạ dày và được kiểm tra
lại xem có an toàn không trong các nghiên cứu
về thực phẩm cho động vật.
Vật chất (ADN), thực chất là các gen, mã hóa
cho thông tin di truyền có mặt trong tất cả các loại thực phẩm và việc ăn
chúng không gây ra bất kỳ ảnh hưởng xấu nào. Không có tác hại di truyền
nào xảy ra khi tiêu hóa AND cả. Trên thực tế, chúng ta luôn nhận AND mỗi
khi ăn do đó nó có mặt ở tất cả thực vật và động vật.
Đánh giá như thế nào về độ an toàn ủa các thực phẩm có nguồn gốc từ cây

trồng chuyển gen?
Bất kỳ một sản phẩm chuyển gen nào trước khi được đưa ra thị trường phải
được thử nghiệm toàn diện, được các nhà khoa học và các giám định viên
đánh giá độc lập xem có an toàn hay không về mặt dinh dưỡng, độc tính, khả
năng gây dị ứng và các khía cạnh khao học thực phẩm khác. Những đánh giá
về an toàn thực phẩm này dựa trên những quy đinh của các tổ chức có thẩm
quyền của mỗi nước. Chúng bao gồm: một hướng dẫn sản phẩm, thông tin
chi tiết về mục đích sử dụng sản phẩm, các thông tin về phân tử, hóa sinh,
độc tính, dinh dưỡng và khả năng gây dị ứng. Các câu hỏi điển hình có thể
được đặt ra là:
· Các thực phẩm chuyển gen có được tạo ra
từ thực phẩm truyền thống đã được công nhận
an toàn hay không?
· Nồng độ các độc tố hay chất gây dị ứng
trong thực phẩm có thay đổi hay không?
· Hàm lượng các chất dinh dưỡng chính có
thay đổi hay không?
· Các chất mới trong thực phẩm chuyển gen
có đảm bảo tính an toàn hay không?
· Khả năng tiêu hóa thức ăn có bị thay đổi hay không?
· Các thực phẩm có được tạo ra nhờ các quy trình đã được chấp nhận hay
không?
Ngay khi các câu hỏi này và các câu hỏi khác về thực phẩm chuyển gen đã
được trả lời, vẫn còn thiếu việc phải làm trong quá trình phê chuẩn trước khi
thực phẩm chuyển gen là loại sản phẩm được nghiên cứu nhiều nhất trong
các loại đã được sản xuất.
Sự kháng kháng sinh
Một vài giống cây trồng chuyển gen có chứa các gen quy định tính trạng
kháng kháng sinh. Các nhà khoa học sử dụng tính trạng này như một chỉ thị
để nhận biết ra những tế bào đã chuyển được gen vào. Ngày càng có nhiều lo

lắng rằng các gen chỉ thị này có thể được phát tán từ các cây trồng chuyển
gen sang các vi sinh vật cư trú trong ruột người và làm chúng tăng khả năng
đề kháng đối với kháng sinh. Đã có rất nhiều các nghiên cứu và thử nghiệm
khoa học về vấn đề này để đi tới các kết luận sau:
· Khả năng các gen kháng kháng sinh có thể được phát tán từ các cây trồng
chuển gen sang các sinh vật khác là vô cùng nhỏ; và
· Thậm chí khi sự kiệt ít xảy ra là một gen kháng kháng sinh được phát tán
sang một sinh vật khác thì tác động của việc này cũng không đáng kể do các
chỉ thị được sử dụng trong cây trồng chuyển gen có ứng dụng trong thú y và
y học rất hạn chế
Tuy nhiên, để làm dịu những lo lắng của xã hội, các nhà nghiên cứu được
yêu cầu tránh sử dụng các gen kháng kháng sinh trong cây trồng chuyển gen.
Việc sử dụng chỉ thị thay thế đang được đánh giá và phát triển.
“Các trích dẫn trong vấn đề an toàn thực phẩm”
“Mức độ an toàn của thực phẩm chuyển gen ít nhất cũng tương đương với
các thực phẩm khác bởi vì quá trình đánh giá an toàn đối với thực phẩn
chuyển gen kỹ lưỡng hơn nhiều so với việc đánh giá các thực phẩm khác.
Quá trình đánh giá an toàn thực phẩm đảm bảo rằng thực phẩm chuyển gen
mang lại tất cả các lợi ích như thực phẩm thông thường và không có thêm
một tác hại nào”. Tổ chức lương thực thực phẩm
Úc – New Zealand, 2000
“Không có bằnh chứng nào cho thấy thực phẩm chuyển gen hiện đang óc
trên thị trường gây ra bất cứ lo ngại nào về sức khỏe con người hay có bất kỳ
khía cạnh nào kém an toàn hơn so với cây trồng tạo được nhờ lai giống
truyền thống” (Jane E. Henney, ủy viên Cơ quan quản lý Thực phẩm và
Dược phẩm Mỹ, 2000)
“Ủy ban tư vấn đã thỏa mãn với những cách đánh giá độ an toàn của các
thực phẩm chuyển gen đã được phê chuẩn cho tương mại hóa” (Báo cáo
tham khảo chuyên môn của FAO/WHO, 2000)
“Một điểm đặc trưng của kỹ thuật chuyển gen là nó đưa vòa một hay nhiều

nhất là một vài gen đã được xác định rõ… Điều này làm cho việc việc thử
nghiệm độc tính của các cây trồng chuyển gen dễ làm hơn so với các cây
trồng được tạo ra bình thường với các tính trạng mới”.
9) Cây chuyển gen được tạo ra như thế nào?
Cây chuyển gen được tạo ra thông qua một quá trình được gọi là kỹ thuật di
truyền. Các gen quan tâm được chuyển từ cá thể này sang cá thể khác. Hiện
có hai phương pháp chính để chuyển một gen vào bộ gen thực vật.
Phương pháp thứ nhất cần dùng một dụng cụ có tên là “súng bắn gen”. Gen
chuyển được bao bọc ra ngoài những hạt kim loại vô cùng nhỏ, những hạt
này sau đó được đưa vào tế bào thực vật theo phương pháp lí học. Một vài
gen có thể bị thải loại và không gắn vào bộ gen của cây được biến nạp.
Phương pháp thứ hai là sử dụng một loại vi khuẩn để đưa gen mong muốn
vào bộ gen của thực vật.
10) Liệu cây chuyển gen có phù hợp với những quốc gia
đang phát triển không?
Trong khi hầu hết những cuộc tranh luận chống
vây chuyển gen diễn ra chủ yếu tại các quốc gia
phát triển ở bắc bán cầu, nam bán cầu vẫn giữ
vững quan điển qngs dụng bất jỳ công nghệ nào
làm tăng sản lượng lương thực.
ở các quốc gia thường xuyên không đủ lương
thực để phân phối và giá lương thực ảnh hưởng
trực tiếp tới thu nhập của đại bộ phận dân chúng thì lợi ích tiềm tàng của cây
chuyển gen là không thể phủ nhận được. Thực tế là những loại lương thực
được tăng cường hàm lượng dinh dưỡng có thể không cần thiết ở các nước
phát triển nhưng lại giữ vai trò thiết yếu trong việc giảm nạn đói ở những
nước đang phát triển.
Mặc dù tiềm năng về cây chuyển gen ở các nước đang phát triển là rất lớn,
nhưng họ phải cần được đầu tư. Hầu hết các nước đang phát triển không có
khả năng để đánh giá an toàn sinh học của cây chuyển gen một cách khoa

học, thiếu chuyên gia kinh tế để đánh giá giá trị, thiếu khả năng điều chỉnh
theo định hướng triển khai an toàn và hệ thống luật pháp để khuyến khích
hoặc trừng phạt những ai phạm luật. Rất may mắn là có một số tổ chức đang
hoạt động nhằm tạo những tiềm năng tại chỗ để quản lý thành quả thu được,
triển khai và đánh giá chất lượng cây chuyển gen.
Một khi luật pháp và những thể chế điều chỉnh được ban hành thì sẽ có
những đường lối chính xác để loại bỏ hoàn toàn hoặc hạn chế những nguy
cơ này. Đó là nghĩa vụ của những nhà cải cách công nghệ (chẳng hạn như
những nhà khoa học), các nhà sản xuất và chính phủ nhằm đảm bảo với công
chúng về độ an toàn cũng như ảnh hưởng tốt tới môi trường của những thực
phẩm mới này.
Cũng có thể xảy ra một số nguy cơ mà bản thân công nghệ không gây ra
hoặc không thể ngăn chặn được. Chẳng hạn như sự phân cách sâu sắc hơn về
kinh tế giữa các nước phát triển (người sử dụng công nghệ) và các nước
đang phát triển (người không sử dụng). Tuy nhiên người ta có thể hạn chế
những nguy cơ này bằng cách tăng cường những chuyên gia công nghệ được
đào tạo phù hợp với nhu cầu của các nước nghèo và bằng cách lập các tiêu
chuẩn để các nước nghèo có thể đánh giá được công nghệ mới.
11) Kết luận
Bên cạnh những điểm còn chưa rõ ràng về cây chuyển gen nhưng với khả
năng toạ ra những giống cây trồng mới có giá trị kinh tế, công nghệ này có
vai trò không thể phủ nhận được. Tuy vậy vẫn còn một số vấn đề đáng lo
ngại. Để giải quyết những vấn đề này thì những kết luận thu được phải dựa
trên những thông tin tin cậy, có cơ sở khoa học.
Cuối cùng vì tầm quan trọng của lương thực thực phẩm cho con người, nên
các chính sách liên quan tới cây chuyển gen sẽ phải dựa trên những cuộc
tranh luận cởi mở và trung thực có sự tham gia của mọi thành phần trong xã
hội.
12) Thuật ngữ
Công nghệ sinh học: Bất kỳ công nghệ nào sử dụng sinh vật (hay một phần

của sinh vật) để tạo ra hoặc cải biến các sản phẩm nhằm cải thiện các giống
cây trồng và vật nuôi hoặc để phát triển vi sinh vật cho những mục đích cụ
thể.
• AND: Phân tử có trong tế bào sinh vật, chứa thông tin di truyền.
• Gen: Một đơn vị sinh học xác định tình trạng di truyền của sinh vật.
• Kỹ thuật di truyền: sự chọn lọc, cải biến gen có chủ đích của con
người.
• Genom: Toàn bộ vật liệu di truyền trong một tế bào.
• Cây chuyển gen: Cây chuyển gen là loại thực vật có chứa một hoặc
nhiều gen được đưa vào nhân tạo.
• Tính trạng: Các đặc điểm như kích thước, hình dạng, mùi vị, màu
sắc, cao sản hoặc kháng bệnh.
• Gen chuyển: Một gen được đưa vào cơ thể thực vật một cách nhân
tạo.
B. Những lợi ích đã được ghi nhận của cây chuyển
gen
1) Tại Mỹ
Ở Bắc Mỹ, người ta đã đề cập rất nhiều tới lợi
ích của cây trồng chuyển gen. Tuy nhiên, trong
một vài năm qua, diện tích trồng cây chuyển gen
ở các nước đang phát triển đã liên tục tăng lên.
Rất nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng người nông dân
nghèo ở Châu Phi, châu á và châu Mỹ La Tinh
cũng có thể có lợi nhuận từ công nghệ này.
Pocket K này sẽ cung cấp cho bạn những số liệu và thông tin về lợi ích kinh
tế của cây chuyển gen ở nhiều nước khác nhau.Người nông dân Mỹ đã
nhanh chóng trồng nhiều giống cây chuyển gen từ khi chúng được tạo ra.
Cho đến năm 2000, xấp xỉ 20% diện tích ngô ở Mỹ, hơn 50 % diện tích đậu
tương và gần 75% diện tích bông trồng cây chuyển gen kháng côn trùng
hoặc thuốc diệt cỏ, hoặc cả hai.

Cây trồng Lợi nhuận
Đậu tương chống chịu thuốc diệt
cỏ
* Tiết kiệm 216 triệu đô la mỗi
năm trong tổng số chi phí kiểm
soát cỏ dại
* Giảm sử dụng 19 triệu liều
thuốc diệt cỏ (1999)
Bông chống chịu thuốc diệt cỏ * Giảm sử dụng 19 triệu liều
thuốc diệt cỏ (2000)
Bông kháng sâu * Sử dụng thuốc trừ sâu ít hơn
2,7 triệu Ib
* Giảm sử dụng 15 triệu liều
thuốc trừ sâu mỗi năm
* Tổng thu nhập tăng 99 triệu đô
la
Ngô kháng sâu * 66 triệu ruộng tránh được sâu
đục ngô
2) Tại Canada
Nông dân Canada đã nhanh chóng sử dụng các giống cải dầu chuyển gen từ
khi chúng được tạo ra vào năm 1995. Trong năm 2000, xấp xỉ 55% tổng
diện tích cải dầu trồng cây chuyển gen. Để đánh giá ảnh hưởng của việc này
đối với người nông dân và nền công nghiệp, một nghiên cứu ở Canada đã
được tiến hành để xác định những ảnh hưởng tới kinh tế và nông nghiệp.
Những kết quả của nghiên cứu như sau:
• Kiểm soát cỏ dại hiệu quả hơn
• Quản lý thuốc diệt cỏ dễ dàng hơn nhằm giảm tính kháng của cỏ
• Giảm cày cấy, do đó góp phần bảo tồn đất
• Sản lượng tăng 10 % (7,5 bu/ha)
• Giảm năng lượng cần sử dụng do có ít hoạt động trên đồng ruộng hơn

(tiết kiệm năng lượng 31,2 triệu lít năm 2000, tiết kiệm 8,7 triệu đô)
• Chi phí thuốc diệt cỏ giảm 40%
• Lượng thuốc diệt cỏ sử dụng giảm 6000 tấn
• Thu nhập người nông dân tăng 9,75 đô/ha
Từ khi được đưa ra thị trường vào giữa thập kỷ 90, việc sử dụng cây trồng
chuyển gen ở Bắc Mỹ đã tăng lên đáng kể. Trong năm 1996, Mỹ và Canada
trồng tương ứng 1,5 triệu ha và 0,5 triệu ha cây chuyển gen, trong khi đó
năm 2000, những con số này tăng tới 30,3 triệu ha. Vậy sử dụng công nghệ
này có đem lại lợi nhuận cho người nông dân và môi trường không?
Cho tới nay, số lượng những nghiên cứu đã công bố về ảnh hưởng của công
nghệ sinh học ở nông trại tại các nước ngoài Bắc Mỹ còn rất ít. Lợi nhuận đó
có đến được với người nông dân nghèo ở các nước đang phát triển ở châu á
và châu Mỹ la tinh hay không? Rất nhiều người đã nghi ngờ nhưng những
nghiên cứu sau đây lại chỉ ra ngược lại.
3) Ảnh hưởng của bông Bt ở Nam Phi
ở Nam Phi diện tích trồng bông khoảng trên
80.000 ha và bị thiệt hại đáng kể hàng năm do
sâu quả gây ra. ở vùng đồng bằng Makathini,
người nông dân nghèo trồng từ 1,5 đến 3,0 ha
bông; trong đó một số nông dân trồng tới 10 ha.
Từ năm 1997, ngày càng nhiều người nông dân
lựa chọn việc trồng bông Bt do nhiều lợi ích như tăng năng suất và giảm sử
dụng thuốc trừ sâu.
Số nông dân trồng bông Bt
Mùa Số lượng nông dân Ha trồng bông Bt
1998 - 1999 75 200
1999 - 2000 410 798
2000 - 2001 644 1250
Những nguyên nhân làm tăng số lượng người nông dân trồng bông Bt
• Giảm số lần sử dụng thuốc trừ sâu

• Giảm chi phí sản xuất
• Tăng cường sức khỏe do ít phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu hơn.
• Tiết kiệm thời gian do không phải mua thuốc trừ sâu mà cửa hàng gần
nhất cũng cách khu vực đồng bằng Makhatini 20 km
Số lần dùng thuốc trừ sâu và sản lượng của 4 người nông dân nghèo ở
Makhatini trồng bông Bt và bông truyền thống.
Nông
dân
Số lần sử dụng thuốc trừ sâu
h
a học (Số lần phun)
Sản lượng
Kg/ha
Bt Không BtTiết kiệm
số lần
phun
Bông Bt Không Bt Tăng sản
lượng
1 0 7 7 2,349 2,005 344
2 0 6 6 1,508 1,206 302
3 1 7 6 1,475 1,149 336
4 1

5

4

2,090 1,509 581
Lợi nhuận tương đối
của người nông dân

qui mô nông trại nhỏ
và trồng bông Bt
3
Loại nông
dân
% tăng sản
lượng
Tiết kiệm số
lần phun
thuốc trừ sâu
Lượng thuốc
trừ sâu giảm
(g ai*/ha)
Tổng lợi nhuận (đôla/ha)
Quy mô
lớn
Quy mô
nhỏ
23
26
4
6
160
240

112
165
*g ai/ha ? số gam của các thành phần hoạt động mỗi hecta
4) ảnh hưởng của bông Bt* ở Trung Quốc
Cho đến nay, những thành quả hứa hẹn nhất cho các nước đang phát triển là

việc trồng bông Bt của ít nhất 3 triệu nông dân nghèo ở Trung Quốc. Họ
trồng tổng số ít nhất 0,5 triệu ha năm 2000, thu được nhiều lợi nhuận.
Trang trại nhỏ hơn và thu nhập thấp hơn đạt
được gần gấp đôi thu nhập trên mỗi đơn vị đất
từ việc trồng bông Bt cũng như những người
nông dân quy mô lớn hơn và thu nhập cao hơn.
Phân bố lợi nhuận của bông Bt theo phân loại
qui mô nông trại và thu nhập.
a) Lợi nhuận của bông Bt chủ yếu đến tay người nông dân
Có ít nhất 82,5 % lợi nhuận năm 1999 do trồng bông Bt của Viện hàn lâm
Khoa học Nông nghiệp Trung Quốc (CAAS), ít nhất 87% lợi nhuận của
bông Bt Monsanto (Mon) và Bông Delta Pineland(DPL) đến tay người nông
dân
Những người nông dân trồng những giống bông Bt nổi tiếng nhất giảm được
chi phí sản xuất 20-23% so với những giống mới không phải Bt.
CAAS Hạt của người
nông dân
Mon /
PDL
Hạt của người
nông dân
Diện tích bông Bt
năm 1999 (ha)
120,000 60,000 100,000 60,000
Sản lượng (kg/ha) 3,500 3,500

3,440

3,440


Tổng lợi nhuận đến
người nông dân (triệu
đô)
45.5 24.1 33.1 36.5
Tổng thu nhập của
công ty hạt (triệu đô)
9.6 0 5.0 0
Hoàn lại cho CAAS
hoặc Mon/PDL
(triệu đô)
0 0 1.9

0
Cột ?Hạt của người nông dân ? là ước tính xấp xỉ ở những vùng có hạt do
nông dân bán truyền tay, không qua các công ty của Mon/DPL hay CAAS
b) Giảm sử dụng thuốc trừ sâu và các chất độc hại liên quan
Sử dụng bông Bt đã giảm lượng thuốc trừ sâu sử dụng 15.000 tấn hay 47
kg/ha. Người nông dân và người lao động ít bị tiếp xúc với thuốc trừ sâu
hơn, và những bằng chứng đã chứng minh sự ngộ độc thuốc trừ cũng giảm.
Giống Ngộ độc thuốc trừ sâu đã ghi chép
(% nông dân)
Chỉ Bt 4,7
Bt và không Bt 10,8
Chỉ không Bt 22,2
c) Tăng cường đa dạng sinh học
Sử dụng bông Bt có thể làm tăng sự đa dạng sinh học của côn trùng. Các nhà
chức trách địa phương ở tỉnh Hebei năm 1997 tìm thấy 31 loài côn trùng ở
cánh đồng Bt, trong đó có 23 loài có ích, trong khi đó những cánh đồng
bông không phải là Bt có 14 loài và trong đó 5 loài có ích.
5) Các nước đang phát triển còn lại

Việc trồng bông Bt ở Achentina cũng có những ảnh hưởng tương tự đối với
những người nông dân địa phương. Trong mùa 1999/2000, lợi nhuận tăng
65,05 đô la trên một ha. Điều này có được là do tăng sản lượng, cải thiện
chất lượng và tiết kiệm được chi phí sử dụng thuốc trừ sâu (27,55 đô /ha)
Các nghiên cứu thực địa ở mọi nơi ở châu á đều khẳng định những lợi ích
đó.
Chẳng hạn, ở inđônexia, bông Bt ưu việt hơn các giống bông địa phương ở
tất cả 15 địa điểm được kiểm tra và hiện nay đang được trồng rộng rãi ở
Nam Sulawesi.
Các nghiên cứu thực địa ở ấn Độ về bông Bt cũng cho những kết quả tương
tự.
ở Philippin, một nghiên cứu đã chứng minh ngô Bt cho sản lượng cao hơn.
6) Kết luận
Cây trồng chuyển gen sẽ đem lại lợi ích cho người nông dân ở các nước
đang phát triển hay không? Từ những kinh nghiệm về bông Bt ở Trung
quốc, Nam Phi, và Achentina, dường như câu trả lời là có. Tuy nhiên, không
phải tất cả Công nghệ sinh học thực vật sẽ có cùng những đặc điểm như
bông Bt. Chính người nông dân và chính phủ quyết định sản phẩm nào họ
muốn sử dụng
C. Các loại cây biến đổi gen
1) Cây cải dầu chuyển gen
Cây cải dầu là một loại cây được biến đổi gen từ hạt cải dầu, do các nhà
nhân giống thực vật Canada phát triển với mục đích biến đổi chất lượng dinh
dưỡng, đặc biệt là hàm lượng chất béo hòa tan của loại cây này. Cây cải dầu
đựơc trồng chủ yếu ở các vùng phía tây Canada và một vài hecta trồng ở
Ontario và tây bắc Thái Bình Dương, trung tâm phía bắc và vùng đông nam
nước Mỹ. Cây cải dầu cũng được trồng ở các nước khác như Châu Âu và
Ôxtrâylia.
Cây cải dầu được biến đổi gen để mang các tính trạng như khả năng chịu
thuốc diệt cỏ, có hàm lượng laurate và axit oleic cao.

2) Gạo vàng
Gạo vàng TM là một loại ngũ cốc chuyển gen có khả năng nâng cao hàm
lượng Vitamin A trong bữa ăn hàng ngày. Loại gạo này có khả năng sản sinh
và lưu giữ chất beta-carotene. Nó được đặt tên là gạo vàng TM bởi vì nội
nhũ (chất bột bên trong của hạt gạo) của nó có màu vàng nhạt, do chất beta-
carotene tạo ra.
Cây lúa chỉ sản sinh ra hợp chất caroteoid được chuyển thành Vitamin A
trong những bộ phận có màu xanh của cây, tuy nhiên trong hạt gạo mà con
người vẫn dùng lại không có hợp chất này. Chính vì thế sự thiếu hụt Vitamin
A (VAD) thường xảy ra ở những nơi sử dụng gạo làm lương thực chính.
Ơ các nước đang phát triển, sự thiếu hụt vitamin A là một trong những
nguyên nhân chính gây ra tử vong cho trẻ nhỏ. Hàng năm có hơn một triệu
trường hợp tử vong ở trẻ em liên quan đến thiếu hụt Vitamin A. Thiếu
vitamin A làm cho sức đề kháng của trẻ bị giảm đi, chính vì thế sẽ rất dễ
nhiễm những căn bệnh lây nhiễm. Đây cũng là nguyên nhân chính gây ra sự
mù lòa ở trẻ. Người ta đang cố gắng giải quyết vấn đề này (ví dụ như trộn
thêm Vitamin A vào gạo). Tuy nhiên, do chi phí cao và thiếu cơ sở hạ tầng
có hiệu quả phục vụ cho sự phân phối nên biện pháp còn nhiều hạn chế. Do
vậy biện pháp biến đổi gen đã được sử dụng để nâng cao chất lượng dinh
dưỡng của lúa gạo.
3) Ngô chuyển gen
Ngô là một trong ba loại lương thực quan trọng trên thế giới. Có trên 80
triệu ha ngô được trồng ở các nước đang phát triển. Khoảng 56 triệu hecta
ngô được trồng ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, những nơi này người dân
thường trồng ngô trên các thửa ruộng nhỏ. Hầu hết ngô được trồng để làm
lương thực, là một phần trong hệ thống nông nghiệp với đặc trưng sản xuất
là gồm một số loại cây trồng và hoạt động chăn nuôi.
Ngô được biến đổi gen để mang các tính trạng như kháng côn trùng và chịu
thuốc diệt cỏ.
4) Đậu tương biến đổi gen

Đậu tương là một loại cây trồng lâu đời đã được trồng tại Trung Quốc từ
năm 3000 trước công nguyên. Đây là loại cây chứa dầu đem lại lợi ích kinh
tế to lớn nhất trên thế giới. Hạt đậu tương có chứa tỷ lệ amino axit thiết yếu
nhiều hơn ở cả thịt, do vậy đậu tương hiện là một trong những loại cây trồng
lương thực quan trọng nhất trên thế giới.
Đậu tương được biến đổi gen để mang các tính trạng như khả năng chịu
thuốc diệt cỏ và có hàm lượng axit oleic cao.
5) Cây bông
Trên thế giới, cây bông là loại cây cung cấp sợi chủ yếu, chiếm tới một nửa
số lượng vải sợi ( Rabobank, 1996). Việc trồng bông đã ảnh hưởng đến sự
phát triển kinh tế của nhiều nước kể từ khi lần đầu tiên nó được đưa vào
canh tác từ cách đây 5 000 đến 10 000 năm ( Stephens và Mosley, 1974).
Tại Châu Âu, cây bông chỉ được biết đến vào cuối thời Trung cổ. Tuy nhiên,
trong suốt cuộc cách mạng công nghiệp xảy ra ở Tây Âu, cây bông đã đóng
một vai trò quan trọng; Sự gia công với quy mô lớn đã khiến bông trở thành
loại sợi chủ yếu trên thế giới để sản xuất quần áo vào cuối thế kỷ 19 với
lượng bông chiếm tới 80% tổng số nguyên liệu vải sợi cung cấp. Ngày nay,
trong khi cây bông vẫn duy trì được vị trí là một loại sợi tự nhiên quý giá và
được ưa chuộng nhất, thì đã có nhiều loại sợi tổng hợp nhân tạo ra đời khiến
thị phần bông giảm xuống còn 40%. Hiện nay, khoảng 20 triệu tấn bông thô
với trị giá khoảng 20 triệu đô la được sản xuất hàng năm, 30% trong số đó
được buôn bán dưới dạng nguyên liệu thô. Trong niên vụ 2000/2001, giá
bông đã xuống tới mức thấp kỷ lục, chỉ còn 0,40 đôla một pound và số tiền
trợ giá mà các chính phủ phải bỏ trong niên vụ này xấp xỉ 4 triệu đô la. Buôn
bán các sản phẩm liên quan đến bông chiếm tới một nửa trong tổng số 115 tỷ
đô la kim ngạch buôn bán vải sợi và 133 tỷ đô la kim ngạch buôn bán quần
áo ( Rabobank 1996).
Trên thế giới, bông được trồng ở các khu vực có khí hậu nóng, tức là ở
khoảng 65 nước nhiệt đới, cận nhiệt đới và những nước có khí hậu ôn hoà.
Trong khi thực chất bông là một loại cây trồng hợp với thời tiết nóng và tốt

nhất là được trồng ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, thì một số giống bông
đã được phát triển để trồng và thích nghi tốt ở những nước trồng bông có
nhiệt độ ấm hơn. Bông được trồng trên nhiều loại đất, kể cả đất sét và đất cát
nhưng tôt nhất là đất có nhiều mùn. Bông là một trong những loại cây trồng
có hiệu quả cao nhất trong việc tận dụng nước, đem lại một trong những vật
liệu làm khô có chất lượng cao nhất trong một lít nước. Quá trình từ trồng
trọt đến thu hoạch mất khoảng 140 đến 250 ngày (Hearn và Fitt 1992); cũng
có thể trồng bông ở những khu vực có thời kỳ sương giá ít hơn 180 ngày.
Thời gian trồng và thu hoạch bông ở khu vực Bắc bán cầu và Nam bán cầu
khác nhau và được liệt kê dưới đây theo số liệu của một số nước trồng bông
chính. Braxin được chia thành 2 khu vực sản xuất bông. Ơ phía nam Braxin,
có một hệ thống sản xuất bông thâm canh với đầu vào cao, còn ở phía bắc lại
có hệ thống sản xuất bông quanh năm với chi phí đầu vào thấp hơn.
Northern Hemisphere
Planting Harvesting
USA Feb-May Sep-Nov
China Apr-June Sep-Oct
CIS* Apr-May Sep-Nov
Turkey Apr-May Sep-Nov
Greece Apr-May Sep-Nov
India Apr-June Oct-Feb
Southern Hemisphere
Brazil (North) Feb-Aug Aug-Feb
Brazil (South) Oct-Nov Feb-Jun
Argentina Sep-Oct Feb-May
Australia Sep-Oct Apr-Jul
Source: Modified from Rabobank, 1996.
* CIS ? Commonwealth of Independent States

Việc cung cấp nước cho bông là đặc biệt quan trọng, lý tưởng nhất là tạo cho

cây bông thời kỳ đầu ẩm ướt phù hợp cho quá trình sinh trưởng vào mùa
khô. Đây là thời kỳ hoa và quả bông phát triển và khô đi. Cần phải thường
xuyên tưới nước cho cây. Cây bông cần nhiều ánh nắng mặt trời và nhiệt độ
tăng trưởng trung bình tối ưu là từ 25oC đến 30oC. Việc sản xuất bông đòi
hỏi phải có nhiều nhân công và vốn, vì thế việc trồng và thu hoạch bông
thường diễn ra ở các nước đang phát triển có nguồn nhân công rẻ và thiếu
vốn, còn việc cất giữ lại dành cho các nước công nghiệp.
Cây bông là thành viên thuộc giống Gossypium và thuộc họ Malvaceae, bao
gồm loài cây bụi có hoa Hibiscus và Okra. Hơn 95% cây bông trồng thương
mại được trồng là bông vùng cao, thuộc giống bông Gossypium có lông,
trong khi bông nguyên liệu sợi dài, còn gọi là bông có gai G. barbadense
chiếm một diện tích dưới 5%. Cả hai giống cây bông này đều tự thụ phấn và
không có các loại cây dại xác định nào lai chéo với bông vùng cao và bông
nguyên liệu sợi dài. Hai loại bông Châu A là G. arboretum và G. herbaceum
được trồng ở những vùng hạn chế giữa Châu A và Châu Phi; cả hai loại
bông này đều là cây lưỡng bội và không thể lai với cây bông vùng cao và
cây bông nguyên liệu sợi dài.
Cây bông vùng cao và cây bông nguyên liệu sợi dài đều cho bông quanh
năm, nhưng chúng thường được thu hoạch như cây trồng một vụ. Với một số
ngoại lệ, những loại hạt giống thương mại đem bán cho người nông dân trên
khắp thế giới này đa dạng hơn những loại hạt lai: Ân Độ là một ngoại lệ vì
nước này có tơi 50% cây bông lai.
Bông được trồng chủ yếu để lấy sợi mặc dù một lượng nhỏ hạt bông được
dùng như một nguồn thực phẩm, thức ăn gia súc và dầu ăn cho con người và
vật nuôi. Dầu hạt bông được tinh chế trước khi dùng để loại bỏ chất
Gossypol độc hại cho người và tiêu hoá của động vật. Quả bông thường
được biết đến như quả nang, có chứa khoảng 10 hạt và được bao quanh bởi
sợi tơ, tạo thành vỏ bọc của hạt. Sợi bông là sản phẩm thương mại chính
đem lại thu nhập cho những người trồng bông và sản lượng sợi bông gần
bằng một phần ba trọng lượng hạt bông được người nông dân thu hoạch. Sợi

bông được tách khỏi hạt thông qua công đoạn tỉa hạt bông. Vì bông là loại
cây tự thụ phấn nên người nông dân có thể cất trữ hạt giống để gieo trồng.
Tuy nhiên, trong qúa trình tỉa hạt bông, một số sợi bông nhỏ vẫn dính vào
hạt, vì thế cần phải tiếp tục công đoạn tách nữa trước khi sợi bông được
dùng như loại hạt có chất lượng cao để sản xuất ra loại bông tốt nhất. Do vậy
trên thực tế hàng năm người nông dân vẫn phải chi phí để mua hạt giống
mới. Sản lượng sợi bông thế giới đã tăng hơn gấp đôi từ 9,8 triệu tấn niên vụ
1960/1961 lên 21,2 triệu tấn năm 2001/02. Năng suất sợi bông cũng tăng
gấp đôi trong vòng 20 năm qua từ 305 kg/hecta lên 635 kg/hecta trong khi
đó diện tích bông vẫn gần như giữ nguyên. Trong khi sản lượng bông ở
Châu Nam Mỹ và Châu Âu tăng khá chậm trong suốt 20 năm qua, thì tại
một số nước Châu á như Trung Quốc sản lượng bông lại tăng đáng kể.
6) Cây bí đỏ biến đổi gen
Bí đỏ mùa hè là một loại quả mềm và hợp với khí hậu ấm áp, được trồng ở
nhiều nơi trên thế giới. Bí đỏ mùa hè khác bí đỏ mùa thu và mùa đông ở chỗ
nó được chọn thu hoạch trước khi vỏ quả cứng và quả chín. Không mọc lan
như bí đỏ và bí ngô mùa thu và mùa đông, bí đỏ mùa hè mọc thành bụi rậm.
Một số cây khỏe và có sức đề kháng tốt cho sản lượng khá cao.
Bí đỏ được biến đổi gen để kháng virut đặc biệt là virut khảm dưa hấu
(WMV) và virut khảm vàng zucchini (ZYMV).
7) Đu đủ biến đổi gen
Liệu công nghệ do Trường Đại học Hawaii phát triển có được áp dụng ở các
nước sản xuất đu đủ hay không? Đu đủ là một loại cây trồng quan trọng ở
khu vực Đông Nam A, được dùng làm thức ăn phổ biến trong các hộ nông
dân sản xuất nhỏ và gia đình của họ. Tháng 3 năm 1998, các đại biểu đến từ
Inđônêxia, Malaixia, Philippin, Thái Lan và Việt Nam đã họp mặt và thành
lập Mạng lưới Công nghệ Đu đủ của khu vực Đông Nam á. Mạng lưới này
nhằm xây dựng các sáng kiến riêng và tập hợp chúng lại cùng nghiên cứu và
khuyến khích việc ứng dụng các lợi ích của công nghệ sinh học đối với khu
vực Đông Nam á.

Mục tiêu cơ bản của mạng lưới này là nhằm cải thiện cuộc sống cho những
người nông dân nghèo trong khu vực bằng cách nâng cao sản lượng đu đủ
làm thực phẩm và nâng cao thu nhập của họ nhờ bán ra chợ những quả còn
thừa. Với sự giúp đỡ của ISAAA, Công ty Monsanto và trường Đại học
Hawaii, mục tiêu này đang dần dần đạt được thông qua sự hỗ trợ và chuyển
giao công nghệ độc quyền. Bên cạnh đó là việc chia sẻ thông tin và tài liệu
có liên quan, như những quy định về an toàn sinh học đối với cây đu đủ của
USDA và những khía cạnh thực tế mà Hawai cân nhắc trong việc phát triển
trồng thử nghiệm trên cánh đồng một cách có hiệu quả và an toàn. Hiện nay,
đu đủ chuyển gen đang được phát triển với sự hợp tác của các nước thuộc
khu vực Đông Nam á.
8) Củ cải đường biến đổi gen
Đường có nguồn gốc từ củ cải đường (có tên khoa học là Beta VulgarisL)
đáp ứng gần một phần ba nhu cầu về đường trên thế giới, trong khi hai phần
ba còn lại là đường mía. Củ cải đường được trồng ở những nước có khí hậu
ôn hòa như Châu Âu, Liên bang Nga và Hoa Kỳ. Tính đến năm 2000, Châu
Âu đã sản xuất được 168.732.216 tấn củ cải đường, sau đó là Hoa Kỳ với
29.502.500 tấn và Liên Bang Nga với 14.040.800 tấn. Các nước như
Ôxtrâylia, Braxin, Trung Quốc, Cuba, Liên minh Châu Âu, Thái Lan,
Ucraina là những nước xuất khẩu củ cải đường lớn nhất thế giới.
Củ cải đường là một loại cây trồng đặc biệt. Hầu hết các phần của cây đều
có thể sử dụng. Trong khi củ cải được chế biến thành đường sucrôza, thì lõi
rễ cây khô có chứa hàm lượng chất xơ dễ tiêu hóa và nguồn năng lượng cao
có thể được sử dụnglàm thức ăn gia súc bổ sung trong các ngành chăn nuôi
bò lấy thịt và lấy sữa. Bên cạnh đó, từ củ cải người ta còn chiết xuất được
một lượng đáng kể muối natri của axit gulamic, một loại muối axit amin có
tác dụng làm tăng hương vị món ăn. Phần đầu củ cải bị bỏ lại trên cánh đồng
sau khi thu hoạch có thể được dùng làm phân bón cho cây trồng kế tiếp hoặc
dùng làm thức ăn cho vật nuôi.
Trồng củ cải đường có thể đem lại hiệu quả trong việc sử dụng đầu vào nông

nghiệp như phân đạm và nước. Cải đường cần ít phân đạm hơn bởi nó có bộ
phận tự tổng hợp đạm có sẵn trong đất.
Củ cải đường được biến đổi gen để mang các tính trạng như khả năng chịu
thuốc diệt cỏ, kháng virut và sự sinh tổng hợp fructant.
9) Khoai tây biến đổi gen
Khoai tây được xem là cây lương thực quan trọng thứ tư trên thế giới, với
sản lượng hàng năm lên đến 300 triệu tấn và được trồng trên hơn 18 triệu
hecta. Hiện nay hơn một phần ba sản lượng khoai tây trên thế giới là của các
nước đang phát triển. Sau khi Liên Xô tan rã thì Trung Quốc trở thành nước
sản xuất khoai tây lớn nhất thế giới. Ân Độ đứng thứ tư. Mặc dù sản lượng
khoai tây tại Châu Âu đã giảm xuống từ đầu những năm 1960, nhưng bù vào
đó sản lượng khoai tây ở Châu á, Châu Âu và Châu Nam Mỹ lại tăng lên,
điều này giải thích tại sao sản lượng khoai tây trên thế giới ngày càng tăng.
Khoai tây được biến đổi gen để mang các tính trạng như khả năng kháng côn
trùng và kháng virút.
10) Cà chua biến đổi gen
Cà chua được coi là loại quả vườn phổ biến nhất hiện nay. Tuy nhiên trong
nhiều năm cà chua bị coi là quả độc và chỉ được trồng chỉ để làm cảnh. Cà
chua thường rất dễ trồng và một số giống cà chua đem lại vụ mùa bội thu
cho các gia đình trồng chúng. Chất lượng quả cà chua chín cây vượt xa tất cả
những loại quả khác có mặt trên thị trường thậm chí trong cả mùa vụ. Cây cà
chua rất mềm và thích hợp với thời tiết ấm áp thế nên nó thường được trồng
vào vụ hè.
Cà chua được biến đổi gen để mang các tính trạng như khả năng chịu thuốc
diệt cỏ và làm chậm quá trình chín.
11) Táo biến đổi gen
Bạn có biết có tới hơn 6000 loại táo? Những loại phổ biến nhất là Fuji, Gala,
Golden Delicious, Granny Smith, McIntosh, Red Delicious và Spartan. Ươc
tính đến năm 2005, sẽ có thêm nhiều loại táo có chất lượng cao. Cho tới năm
2000, sản lượng táo trên toàn thế giới là 60.831.349 triệu tấn.

Táo là một trong những loại trái cây được ưa thích nhất không chỉ bởi hương
vị thơm ngọt mà nó còn rất tốt cho sức khỏe. Các cuộc nghiên cứu cho thấy
ăn táo có thể giảm được nguy cơ mắc bệnh ung thư, các bệnh tim mạch và
béo phì.
Táo được biến đổi gen để mang các tính trạn như làm chậm quá trình chín và
kháng sâu bệnh.
12) Xoài biến đổi gen
Xoài là loại trái cây phổ biến nhất và được xem như ?táo? hay ?đào? ở khu
vực nhiệt đới. Trong tổng số sản lượng trái cây nhiệt đới, xoài chiếm tới
40%. Và khoảng 63% sản lượng xoài trên thế giới do Ân Độ sản xuất với
hơn 1000 giống xoài đang được trồng thương mại. Bên cạnh Ân Độ, các
nước trồng xoài chính là Braxin, Trung Quốc, Haiti, Inđônêxia, Mêxicô,
Pakistan, Peru, Philippin, Thái Lan và Venezuala. Những nước này đã cung
cấp cho chúng ta một loại trái cây thơm ngon quanh năm.
Xoài được thu hoặc khi chúng sắp chín. Nhưng một khi đã chín, thì xoài rất
dễ bị dập chính vì thế để tránh thiệt hại người ta phải cẩn thận khi vận
chuyển. Vì lý do này mà hiện nay các cuộc nghiên cứu đang được tiến hành
để tìm cách làm chậm quá trình chín của xoài. Hiện nay tại các nhà khoa học
đang nghiên cứu để làm tăng hương vị của xoài.
13) Chuối biến đổi gen
Trong số các loại cây trồng nhiệt đới, chuối rất được ưa thích do hương vị
hấp dẫn của nó. Ngoài ra chuối còn là một loại trái cây đa dụng, vì người ta
có thể chế biến chuối thành nhiều sản phẩm khác nhau chứ không chỉ dùng
để ăn luôn. Loại trái cây giàu dinh dưỡng và không có chất béo này có chứa
hàm lượng kali và chất xơ rất cao, và là nguồn cung cấp vitamin C chống
oxy hóa.
Trên thế giới chuối được xếp vào một trong bốn loại cây trồng có diện tích
trồng lớn nhất, với sản lượng ước tính là 64.627.049 tấn trong năm 2000.
Các nước trồng chuối gồm có Châu Phi, Châu A, Châu Uc, Châu Nam Mỹ
và Caribê. Tính đến cuối năm 2000, nước có sản lượng chuối cao nhất là Ân

Độ ( 13, 9 triệu tấn), chiếm 21, 5% tổng sản lượng trên toàn thế giới.
Chuối có một tính trạng đặc biệt, đó là xu hướng đột biến, tạo ra nhiều giống
chuối khác nhau. Có khoảng 1000 loại chuối, thuộc 50 giống và giống chuối
phổ biến nhất là Cavendish.
Chuối được biến đổi gen để mang các tính trạng như kháng virut, giun tròn
và nấm và có khả năng làm chín chậm. Chuối cũng là loại cây dự kiến được
dùng làm vacxin có thể ăn được để phòng chống nhiều loại bệnh dịch khủng
khiếp ở Thế giới thứ ba.
14) Dứa biến đổi gen
Cho dù có nhắm mắt lại, thì chúng ta vẫn nhận ra được hương vị của dứa
giữa nhiều loại hương thơm pha chế và món salat trái cây.
Có nguồn gốc từ Trung Mỹ và Nam Mỹ, dứa đã được Christopher Columbus
đưa sang Châu Âu vào năm 1943. Vào thế kỷ 16, dứa được đưa sang Châu á
và tại đây đã xuất hiện nhiều ngành công nghiệp sản xuất dứa đóng hộp.
Dứa được xem như loại trái cây nhiệt đới được bán rộng rãi nhất, chiếm tới
44% tổng kim ngạch buôn bán trái cây nhiệt đới. Tính tới tháng 1 năm 2001,
toàn thế giới đã trồng được khoảng 12 triệu tấn dứa. Trong vòng 30 năm
qua, sản lượng dứa hàng năm trên thế giới đã tăng lên gấp ba lần.
Theo số liệu thống kê của Tổ chức Nông Lương thế giới vào năm 2000, năm
quốc gia trồng dứa lớn nhất trên thế giới là Thái Lan (2, 281 triệu tấn),
Philippin (1, 524 triệu tấn), Ân Độ (1, 44 triệu tấn), Braxin (1,353 triệu tấn),
Trung Quốc (1,318 triệu tấn).
Hiện nay một số tổ chức nghiên cứu đang tiến hành nghiên cứu sự đa dạng
di truyền của cây dứa. Bên cạnh đó, người ta đã biến đổi gen cây dứa để tăng
khả năng kháng sâu bọ và virut và bổ sung tính trạng làm chậm chín của cây.
15) Lúa mạch biến đổi gen
Lúa mạch (có tên khoa học là Hordeum vulgare subsp, hay vulgare) là một
trong những loại cây trồng ngũ cốc quan trọng nhất trên thế giới. Hầu hết lúa
mạch được trồng ở những khu vực có khí hậu nóng mà cả lúa mỳ, lúa mạch
đen và yến mạch đều được trồng. Những nước trồng lúa mạch nhiều nhất là

Liên minh Châu Âu, Canada, Nga, Tây Âu, Thổ Nhĩ Kỳ, Ucraina và Hoa
Kỳ. Trong năm 2000, tổng sản lượng lúa mạch trên thế giới đạt tới 132.182
triệu tấn.
Trên thế giới, khoảng một nửa sản lượng lúa mạch sản xuất ra được dùng
làm thức ăn gia súc và làm mạch nha. Mạch nha từ lúa mạch được dùng
trong sản xuất bia và một số loại nước uống được chưng cất khác. Những
sản phẩm sản xuất từ lúa mạch cho người tiêu dùng thường được xay xát và
qua quá trình xử lý. Trên thị trường một loại sản phẩm nổi tiếng là lúa mạch
nghiền nhỏ. Các hình thức khác của sản phẩm từ lúa mạch là bột lúa mạch
(làm bánh mỳ hoặc chất làm đặc súp), cám lúa mạch (làm bánh và cháo yến
mạch), mạt lúa mạch (bảo quản và làm cho thịt mềm hơn).
Chính vì tầm quan trọng của lúa mạch, mà hiện nay người ta đang tiến hành
nghiên cứu để cải tiến chất lượng lúa mạch và nâng cao khả năng kháng
nhiều loại bệnh và sâu bọ của cây.
16) Khoai lang biến đổi gen
Robert Odeu từ làng Dohoko, đông bắc Uganda cho biết ?nếu không có
khoai lang thì chúng tôi đã phải chịu một trận đói khủng khiếp?. Một thập kỷ
của nội chiến, sâu bọ phá hoại và bệnh dịch đã để lại hậu quả là sự tàn phá
và trận đói. Làng Dohoko không phải là nơi duy nhất. ở Uganda, cũng như ở
các nước khác như Tiểu bang Saharan ở Châu Phi, và hàng nghìn ngôi làng
đang phải dựa vào khoai lang để đảm bảo an ninh lương thực.
Tại sao khoai lang lại phổ biến như vậy?Khoai lang là một loại cây dễ trồng.
Trong những điều kiện về khí hậu bất lợi và không cần đầu tư nhiều, sản
lượng khoai lang trên một hecta có thể đem lại nguồn năng lượng và tiểu
dinh dưỡng cao hơn bất cứ cây trồng nào khác. Cây trồng này có thể phát
triển trong điều kiện khô hạn nhiều tháng liền. Khoai lang rất linh hoạt.

×