Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

BỆNH HỌC THỰC HÀNH - THAI ĐỘNG KHÔNG YÊN pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.63 KB, 7 trang )

BỆNH HỌC THỰC HÀNH
THAI ĐỘNG KHÔNG YÊN
Đại Cương
Có thai mà thai động như trụy xuống hoặc kèm cả đau đầu, hoặc âm
đạo ra ít máu, gọi là "Thai động không yên ".
Chứng này tương đương trong phạm vi 'Động thai" của y học hiện đại.
Nguyên Nhân
Sách ‘Nữ Khoa Kinh Luân‘ viết: “Có thai mà thai dộng không yên do
mạch Xung và Nhâm đều hư, thai không vững. Cũng có khi vì uống rượu,
phòng dục quá độ, khiến cho thai động không yên; Có khi do chấn thương té
ngã làm cho thai bị động; Có khi tức giận làm thương tổn Can khí, hoặc uất
kết không thư thái, xúc động tới huyết mạch, gân nên không yên. Hoặc quá
uống các thứ thuốc ôn ấm và thuốc kiêng kỵ nên động thai. Cũng có khi vì
mẹ có bệnh động thai”.
Nguyên nhân chứng động thai rất phức tạp: Mạch Xung, Nhâm hư
suy, uất giận làm tổn thương Can, ăn uống không điều độ, lao động không
cẩn thận, uống thuốc lầm lẫn, bệnh nhiệt ảnh hưởng đến thai.
Nguyên Tắc Điều Trị
Chủ yếu là an thai, vì mẹ có bệnh mà dộng thai, chỉ trị mẹ thì thai
được yên, có khi vì thai không vững chắc, làm mẹ sinh bệnh, phải an thai thì
mẹ khỏi bệnh. Đó là hai phương pháp trị bệnh an thai.
Sách 'Sản Bảo Bách Vấn" cho rằng: “Thai động, bụng đau, uống ngay
thuốc thuận khí an thai, nếu không sẽ thành chứng lậu thai khó trị”.
Sách 'Nữ Khoa Kinh Luân " viết: “Trước khi có thai, dùng thuốc chủ
yếu là thanh nhiệt dưỡng huyết, sau khi thanh nhiệt dưỡng huyết cần phải bổ
Tỳ, đó là gốc bồi dưỡng cho thai khí”.
Sách "Trúc Lâm Nữ Khoa" viết rằng: ‘Đàn bà thụ thai, trở ngại sự vận
hóa của Tỳ, vận hóa chậm thì sinh thấp, đã thấp thì sinh nhiệt, nhiệt thì huyết
dễ động, huyết động thì thai không yên”.
Bạch truật, Hoàng cầm là vị thuốc rất cần để an thai, phép an thai
không thường chú trọng về bổ ích, vì thai động không yên phần nhiều do


mạch Xung, Nhâm hư yếu, hoặc khí huyết đều hư, hoặc Tỳ hư, Thận hư, hư
hàn, hư nhiệt khác nhau, để theo chứng chữa trị. Nếu như đang mang thai
mà có nhiệt, tạng phủ bị nhiệt nung nấu dẫn đến thai động không yên, khi trị
bệnh nhiệt trước thì thai sẽ tự yên, đó !à phép trị thông thường về thai động
không yên.
Triệu Chứng
Chứng Khí Hư: Thai động không yên, vùng sườn lúc đau lúc không,
tinh thần mỏi mệt, nói không có sức, hồi hộp, thở ngắn, lưng nặng, bụng
đau, bụng dưới như xệ xuống, âm đạo ra huyết ít, mầu nhạt hoặc có cục, da
mặt trắng, lưỡi nhạt, rêu lưỡi bạc, mạch Hoãn Hoạt.
Điều trị: Ích khí, cố Xung (mạch), an thai. Dùng bài Bổ Trung Ích Khí
gia giảm, hoặc Cử Nguyên Tiễn thêm Tục đoạn, Tang ký sinh, A giao.
Âm đạo rỉ huyết thêm Ô tặc cốt, Ngải diệp (tro) để cố Xung (mạch),
chỉ huyết.
+ Chứng Huyết Hư: Thai động không yên, đầu váng, hoa mắt, sắc mặt
vàng úa, hồi hộp, ngủ ít, gầy ốm, da khô, bụng đau, ra nước hồng, lưỡi nhạt,
rêu lưỡi ít, mạch Tế, Hoạt.
Điều trị: Bổ huyết, cố Xung (mạch), an thai. Dùng bài Giao Ngải
Thang hoặc Thai Nguyên Ẩm (Cảnh Nhạc Toàn Thư).
(Nhân sâm, Đương quy, Đỗ trọng, Thược dược, Trần bì, Chích Cam
thảo, bổ tỳ khí điều trung, Đương quy, Bạch thược, Thục địa dưỡng huyết,
Đỗ trọng cố thận an thai. Toàn bài có tác dụng bổ tỳ ích huyết an thai).
Nếu thai trụy nặng gia thêm Thỏ ty tử, Tang ký sinh. Nếu máu rỉ ra
thêm A giao, Ngải diệp. Khí hư thêm Hoàng kỳ.
+ Chứng Khí Huyết Đều Hư: Tức là chứng của hai chứng trước hợïp
lại.
Dùng bài Ngưu Tỷ Bảo Thai Hoàn (Đỗ trọng, Đảng sâm, Hoàng kỳ,
mỗi thứ 80g, Xuyên khung, Sơn dược mỗi thứ 120g, Vu truật, A giao mỗi vị
40g, Sa nhân, Hoàng cầm, mỗi vị 28g, Đương quy, Bạch truật mỗi vị 60,
Cam thảo 20g. Tất cả tán bột, dùng lá sen cuốn lại 48g, Kén con tằm 40g,

Hoàng ngưu tỷ 1 cái, 3 vị đốt cháy tồn tính, Đại Thục địa 160g quết nhừ,
trộn với thuốc bột và mật làm thành viên, mỗi lần uống 12g với nước đã nấu
sôi (Thích hợp với đàn bà huyết hư khí yếu có thai không vững, dễ bị sinh
non).
Hoặc dùng bài An Thai Ẩm thêm Nhân sâm.
+ Chứng Tỳ Hư: Thai động không yên, phù thũng hoặc không phù,
đại tiện lỏng, mệt mỏi, yếu sức, ăn ít, lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng, mạch Hoạt,
Nhược.
Điều trị: Kiện Tỳ, ích khí, cố Xung, an thai. Dùng bài Tứ Quân Tử
Thang thêm Mộc hương, Sa nhân làm chủ.
+ Chứng Thận Hư: Thai động không yên, lưng mỏi, chân yếu, gầy
ốm, váng đầu, ù tai, lưỡi trắng, mạch Trầm Tế.
Điều trị: Bổ Thận, cố Xung, an thai. Dùng bài Bảo Thai Hoàn (Sản
Khoa Tâm Pháp): Đỗ trọng 32g. Dùng gạo nếp nấu cháo trộn vào, chưng,
phơi khô rồi sao. Xuyên Tục đoạn 160g (sao nước muối), Sơn dược 240g
(sao), lấy riêng 80g giã nhỏ làm hồ để hoàn, Đương 80g (sao rượu). Dùng
bột Sơn dược nấu hồ làm hoàn, cũng có khi dùng Táo nhục làm hồ để hoàn,
lúc nào dùng cũng được, một lần uống 16g với nước sôi.
Hoặc Thọ Thai Hoàn (Giản Minh Trung Y Phụ Khoa Học): Thỏ ty tử,
Tang ký sinh, Tục đoạn, A giao. Thuốc tán bột, sắc lấy nước A giao trộn
thuốc bột làm viên, mỗi lần uống 20 viên với nước. Nếu có ra máu, thêm
Ngải diệp sao đen. Tiểu không tự chủ thêm Ích trí nhân.
+ Chứng Hư Hàn: Thai động không yên, bụng trên hoặc dưới lạnh giá,
tiểu không thông, lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng, mạch Trầm Trì.
Điều trị: Ôn bào, cố Xung, an thai. Dùng bài Bạch Truật Tán (Kim
Quỹ Yếu Lược): Bạch truật, Khung cùng mỗi vị 1,6g, Thục tiêu 1,2g, Mẫu
lệ 0,8g.
+ Chứng Hư Nhiệt: Thai động không yên hoặc có khi đau bụng,
miệng khô ráo, có khi như có lửa đốt, lưỡi đỏ, rêu lưỡi hơi vàng, mạch Tế
Sác.

Điều trị: Tư âm, dưỡng huyết, cố Xung, an thai. Dùng bài Hoàng Cầm
Thang (Chứng Trị Chuẩn Thằng): Hoàng cầm, Bạch truật, mỗi vị 20g,
Đương quy 8g, sắc uống lúc nào cũng được.
Y ÁN THAI ĐỘNG KHÔNG YÊN
(Trích trong ‘ Y Lược Lục Thư)’
“Một bà có thai, bứt rứt, nóng nảy, thai động không yên, ăn uống ít,
mỏi mệt kém sức, mạch Sác Huyền Hư. Đó là do huyết hư có nhiệt mà thai
thiếu bổ dưỡng. Cho uống 'An Thai Ẩm’ (Sản Khoa Tâm Pháp): Đại Thục
địa 12g, Quy thân, Bạch thược, Bạch truật, A giao đều 4g, Chích thảo, Ngải
diệp, Sa nhân đều 2g, Phục linh 20g, Xuyên khung 1,2g) thêm Thục địa,
Bạch thược. Uống 3 thang thì bệnh giảm, uống tiếp 4 thang ' Đương Quy
Tán’ thêm Sinh địa, Mẫu lệ theo sách Kim Quỹ Yếu Lược thì được an toàn,
về sau phải kiêng cử trèo cao, gánh nặng mới khỏi lo trụy thai”.

×