Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

Quy trình kỹ thuật trồng khổ qua ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.96 KB, 14 trang )


Quy trình kỹ thuật trồng khổ qua





1. Thời vụ
Trồng được quanh năm, tốt nhất là vụ Đông Xuân. Vụ Hè Thu (mưa
nhiều) thường bị ruồi đục trái gây hại nặng.
2. Gieo trồng
- Đối với giống lai F1 lượng hạt cần gieo là 140-170 g/1.000m
2
(mật
độ 500-700cây/1.000m
2
) vì cây phát triển mạnh, bò dài, trồng thưa hơn
giống địa phương, cần phải làm giàn mới phát huy hết tiềm năng của giống.
Thường trồng hàng đôi khoảng cách 4-5 m hoặc hàng chiếc 2-2,5m, cây
cách cây 70-80 cm.
- Đối với giống địa phương cần 300 - 500 kg/1.000m
2
. Trồng hàng
cách hàng 1,2m, cây cách cây trên hàng 30-35 cm, mật độ trung bình 2.400-
2.700 cây/1.000m
2
. Mùa nắng có thể trồng bò đất, hàng đôi cách nhau 3-3,5
m, mật độ 1.600-1.900 cây/1.000m
2
.
Vỏ hột khổ qua khá dầy nên ngâm hạt 1-2 giờ trong nước ấm 2 sôi - 2


lạnh, vớt ra ủ cho nhú mầm rồi đem gieo sẽ lên tốt hơn. Khi hột nhú mầm
đem gieo thẳng ra đồng hoặc gieo trong bầu đất. Bầu đất làm bằng túi nylon
có cắt góc hoặc bầu lá chuối, lá dừa. Phun thuốc trừ bệnh như Copper B,
Rovral, Topsin M trên bầu đất trước khi gieo hột và rãi Basudin 10H xung
quanh bầu và phía trên bầu để tránh côn trùng gây hại. Khi cây được 10 -12
ngày thì trồng ra đồng.
Đất thích hợp trồng khổ qua là dất thịt nhẹ hoặc cát pha, thoát nước
tốt. Đất phải cày bừa kỹ, lên luống cao 20 - 25 cm.
3. Sử dụng màng phủ nông nghiệp
Màng phủ nông nghiệp còn gọi là "màng bạt" hay "thảm", là một loại
nhựa dẽo, mỏng, chuyên dùng để phủ liếp trồng rau, dầy 0,03-0,035 mm,
mặt trên có màu xám bạc, mặt dưới màu đen, sử dụng bình quân 2 vụ khổ
qua.
Mục đích:
a. Hạn chế côn trùng gây hại: Mặt màu bạc của màng phủ phản
chiếu ánh sáng mặt trời nên giảm bù lạch, rầy mềm, dòi đục lòn lá và giảm
thun đọt khổ qua.
b. Hạn chế bệnh hại: Bề mặt màng phủ ráo nhanh sau khi mưa; bộ lá
cây luôn khô, thoáng, giảm bệnh do nấm tấn công ở gốc thân và đốm phấn
trên lá chân.
c. Ngăn ngừa cỏ dại: Mặt đen của màng phủ ngăn cản ánh sáng mặt
trời, làm hạt cỏ bị chết trong màng phủ.
d. Điều hoà độ ẩm và giữ cấu trúc mặt đất: Màng phủ ngăn cản sự
bốc hơi nước trong mùa nắng, hạn chế lượng nước mưa nên rễ cây không bị
úng nước, giữ độ ẩm ổn định và mặt đất tơi xốp, thúc đẩy rễ phát triển, tăng
sản lượng.
e. Giữ phân bón: Giảm rửa trôi của phân bón khi tưới nước hoặc
mưa to, ít bay hơi nên tiết kiệm phân.
f. Tăng nhiệt độ đất: Giữ ấm mặt đất vào ban đêm (mùa lạnh) hoặc
thời điểm mưa dầm thiếu nắng mặt đất bị lạnh.

g. Hạn chế độ phèn, mặn: Màng phủ làm giảm sự bốc hơi qua mặt
đất nên phèn, mặn được giữ ở tầng đất sâu, giúp bộ rễ hoạt động tốt hơn.
Trồng khổ qua sử dụng màng phủ nông nghiệp có thể khắc phục được
một phần yếu tố bất lợi của môi trường, mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn so
với trồng tủ rơm.
CÁCH SỬ DỤNG MÀNG PHỦ NÔNG NGHIỆP:
a. Chuẩn bị trước khi trồng:
- Vật liệu và qui cách: Dùng màng phủ khổ rộng 1-1,2 m (trồng hàng
đơn) hoặc 1,4-1,6 m (trồng hàng đôi. Chiều dài mỗi cuồn màng phủ là 400
m, trung bình trồng 1.000m
2
khổ qua cần khoảng 1 cuồn nếu trồng hàng đôi
như dưa hấu, còn tốn 1,5 cuồn nếu khỏang cách hàng gần hơn. Khi phủ liếp
mặt xám bạc hướng lên, màu đen hướng xuống.
- Lên liếp: Lên liếp cao 20-40 cm tùy mùa vụ, đất ruộng trong mùa
mưa cần lên liếp cao, mặt liếp phải làm bằng phẳng không được lồi lõm vì rễ
khó phát triển và màng phủ mau hư, ở giữa liếp hơi cao hai bên thấp để tiện
việc tưới nước.
- Rãi phân lót: cách bón và liều lượng phân ở phần sau.
- Xử lý mầm bệnh: Phun thuốc trừ nấm bệnh như Oxyt đồng hoặc
Copper B (20 g/10 lít) hoặc Validacin (20 cc/10lít) đều trên mặt liếp trước
khi đậy màng phủ.
- Đậy màng phủ: Mùa khô nên tưới nước ngay hàng trồng cây trước
khi đậy màng phủ. Khi phủ kéo căng vải bạt, hai bên mép ngoài được cố
định bằng cách dùng dây ni long căng ngang mặt líp, mỗi đầu dây cột một
que cây 15-20cm, hoặc dùng dây chì bẻ hình chữ U mỗi cạnh khoảng 10 cm
ghim sâu xuống đất (dây chì sử dụng được nhiều năm) hoặc dùng tre chẻ lạc
ghim mé liếp nếu như đất mịn và dẽo như ở huyện Chợ Mới tỉnh An Giang,
cũng có thể lâp đất tấn xung quanh mé liếp để tránh gió tốc nhưng chỉ thích
hợp trong mùa nắng.

Khi phủ xong không nên dùng rơm hay cỏ đậy trên màng phủ vì làm
mất tác dụng phản chiếu ánh sáng, không nên đi đạp lên vải bạt vì mau rách.
- Đục lổ màng phủ: Dùng lon sữa bò đường kính khoảng 10 cm, có
đục lổ thông gió xung quanh chân lon, làm cán để cầm, cột dây chì vòng
miệng lon chừa râu dài 50-70 cm làm cự ly giữa các cây, đốt than nóng cho
vào trong lon.
b. Trồng cây:
Rãi một ít đất mịn hoặc rơm hoặc trấu mục vào trong lổ (không nên
dùng nhiều tro trấu, nhất là trong mùa nắng vì sức nóng của màng phủ và
của tro làm cây con bị hóc phát triển yếu), tưới nhiều nước vào lổ rồi gieo
hột hoặc đặt cây con. Xử lý côn trùng bằng thuốc hột như Basudin 10H hay
Regent rãi xung quanh gốc sau khi gieo hột hoặc sau khi cấy cây con (2
kg/1.000 m
2
).
4. Chăm sóc
4.4.1. Bón phân: lượng phân sử dụng cho 1.000 m
2
: Hữu cơ 1 tấn +
95 kg hỗn hợp 16-16-8 và 5 kg Clorua kali + 5 kg Calcium nitrat + 50 kg vôi
bột (tương đương công thức 160 N-150 P2O5-100 K2O- 10 Ca kg/ha).
Trong mùa mưa nên bón thêm 5-8 kg Calcium nitrat giúp trái cứng ít bị hư.
Cách bón được thực hiện như sau:
* Bón lót: 25 kg 16-16-8 + 1 tấn hữu cơ + 50 kg vôi. Vôi rải đều trên
mặt đất trước khi cuốc đất lên liếp, phân chuồng hoai và phân hóa học rãi
trộn đều trên mặt liếp. Lượng phân bón lót nhiều hơn trồng phủ rơm vì phân
nằm trong màng phủ ít bị bốc hơi do ánh nắng, hay rửa trôi do mưa.
* Bón phân thúc:
Lần 1: 15-20 ngày sau khi trồng
Liều lượng 20 kg 16-16-8 + 1 kg Calcium nitrat.

Bón phân bằng cách vén màng phủ lên rãi phân một bên hàng khổ qua
hoặc đục lổ màng phủ giữa 2 gốc.
Lần 2: 35-40 ngày sau khi trồng, khi đã đậu trái đều, chuẩn bị thu trái
lưa đầu.
Lượng bón 20 kg 16-16-8 + 1 kg Clorua kali + (1-2) kg Calcium
nitrat.
Vén màng phủ lên rãi phân phía còn lại hoặc bỏ phân vào lổ giữa 2
gốc.
Lần 3: Khi cây 55-60 ngày sau khi trồng, bắt đầu thu trái rộ.
Lượng bón 20 kg 16-16-8 + 2 kg Clorua kali + (2-3) kg Calcium
nitrat.
Vén màng phủ lên rãi phân hoặc bỏ phân vào lổ giữa 2 gốc.
Lần 4: Khi cây 70-80 ngày sau khi trồng
Lượng bón: 10 kg 16-16-8 , 1 kg Clorua kali + (1-2) kg Calcium
nitrat.
Vén màng phủ lên rãi phân hoặc bỏ phân vào lổ giữa 2 gốc.
Sử dụng thêm các loại phân bón qua lá để tăng cường sức sinh trưởng
của cây trong lúc ra hoa kết trái.
5. Làm giàn: Tiến hành làm giàn cây hay giàn lưới khi cây bắt đầu
bò. Cây làm giàn có chiều dài > 2 m, làm giàn hình chử nhân (X) đối với
giống địa phương hay giàn mặt bằng đối với giống lai F1. Trồng bò đất phải
thả rơm cho khổ qua bám và trái thương phẩm được nhiều.
6. Tưới nước: Cần tưới đủ nước cho cây phát triển nhất là vào mùa
khô, thiếu nước giai đoạn ra hoa sẽ làm cho hoa trái bị rụng và nhiều trái
đèo. Trong mùa nắng, trồng có màng phủ cần chú ý cung cấp đủ nước bằng
cách bơm nước vào rãnh hoặc tưới vào lổ giữa 2 gốc. Vào mùa mưa tránh
ruộng bị ngập úng làm hư hại rễ.
7. Bấm ngọn, tỉa dây: Tùy theo đặc tính giống trồng mà có hình thức
tỉa dây, bấm ngọn cho thích hợp. Các giống ra nhánh sớm ngay từ nách lá
đầu tiên nên tỉa bỏ 2-3 nhánh đầu để tạo sự thông thoáng ở gốc. Nếu giống

ra nhánh từ nách lá thứ 4 trở lên thì không cần tỉa nhánh. Một số nơi có tập
quán ngắt ngọn khi cây có 5-7 lá, sau đó chừa 3 nhánh mọc mạnh và để trái
trên các dây nhánh đó. Khổ hoa cho trái trên dây chánh cũng như dây nhánh
nên cây có nhiều dây sẽ cho nhiều trái.
Do cây ra hoa kết trái liên tục, vì vậy cần tỉa bỏ sớm các trái dị dạng,
teo đèo để cây tập trung dinh dưỡng nuôi trái thương phẩm tốt.
8. Phòng trừ sâu bệnh
* SÂU HẠI
- Ruồi đục trái (Bactrocera cucurbitae): Ruồi có hình dạng và kích
thước rất giống ruồi đục trái cây, nhưng chỉ gây hại trên các cây họ Bầu Bí.
Ấu trùng là dòi có màu trắng ngà, đục thành đường hầm ngoằn ngèo bên
trong trái làm trái thối vàng, rụng sớm.
Nên thu gom tiêu diệt trái rụng xuống đất, cày phơi đất sau vụ hoặc
cho nước ngập ruộng vài ngày để diệt nhộng. Phun ngừa ruồi bằng các thuốc
Sherpa, Karate, Cyper-alpha, Cyperan. Nếu ruồi ở mật độ cao có thể dùng
dấm pha với một ít đường và trộn với thuốc trừ sâu, xong đặt rải rác, 6 -10 m
một bẩy. Cũng có thể dùng giấy báo, bao nilong để bao trái sau khi trái đậu 2
ngày.
- Rầy lửa, bọ trỉ, bù lạch (Thrips sp.)
- Thành trùng và ấu trùng rất nhỏ có màu trắng hơi vàng, sống tập
trung trong đọt non hay mặt dưới lá non, chích hút nhựa cây làm cho đọt non
bị xoăn lại. Bù lạch phát triển mạnh vào thời kỳ khô hạn, thiệt hại do bọ trĩ,
bọ dưa có liên quan đến bệnh siêu trùng. Nên kiểm tra ruộng dưa thật kỹ để
phát hiện sớm ấu trùng bù lạch.
- Bù lạch có tính kháng thuốc rất cao, nên định kỳ 7-10 ngày/lần phun
dầu khoáng DC-Tron plus (Caltex) sẽ giảm đáng kể sự tấn công của bù lạch;
khi thấy mật số vài ba con trên một đọt non cần phun một trong các loại như
Confidor 100SL, Admire 50EC, Danitol 10EC, Vertimec 0.5-1%o, cần
thay đổi thuốc thường xuyên
- Rệp dưa, rầy nhớt (Aphis spp.)

Còn được gọi là rầy mật, cả ấu trùng lẫn thành trùng đều rất nhỏ, dài
độ 1-2mm, có màu vàng, sống thành đám đông ở mặt dưới lá non từ khi cây
có 2 lá mầm đến khi thu hoạch, chích hút nhựa làm cho ngọn dây dưa chùn
đọt và lá bị vàng. Rầy truyền các loại bệnh siêu vi khuẩn như khảm vàng.
Chúng có rất nhiều thiên địch như bọ rùa, dòi, kiến, nhện nấm nên chỉ phun
thuốc khi nào mật số quá cao ảnh hưởng đến năng suất. Phun các loại thuốc
phổ biến như trừ bọ rầy dưa hoặc Trebon.
- Sâu ăn lá (Diaphania indica)
- Bướm nhỏ, màu nâu, khi đậu có hình tam giác màu trắng ở giữa
cánh, hoạt động vào ban đêm và đẻ trứng rời rạc trên các đọt non. Trứng rất
nhỏ, màu trắng, nở trong vòng 4-5 ngày. Sâu nhỏ, dài độ 8-10mm, màu xanh
lục có sọc trắng đặc sắc ở giữa lưng, thường nhả tơ cuốn lá non lại và ở bên
trong ăn lá hoặc cạp vỏ trái non. Sâu đủ lớn, độ 2 tuần làm nhộng trong lá
khô.
- Phun thuốc ngừa bằng các loại thuốc phổ biến trên đọt non và trái
non khi có sâu xuất hiện rộ như thuốc trừ rệp dưa, bọ rầy dưa.
* BỆNH HẠI
- Bệnh đốm phấn, sương mai do nấm Pseudoperonospora cubensis.
Lúc đầu, ở mặt trên lá vết bệnh nhỏ màu xanh nhạt, sau đó chuyển sang màu
vàng nâu và giới hạn trong các gân phụ của lá, nên đốm bệnh có hình góc
cạnh. Bên dưới ngay vết bệnh có lớp tơ nấm lúc đầu màu trắng sau đó
chuyển sang màu vàng tím. Nhiều vết bệnh liên kết lại làm lá vàng, cây phát
triển chậm, trái nhỏ kém chất lượng. Bệnh phát triển mạnh trong điều kiện
ẩm độ cao.
Phun Curzat M-8, Mancozeb 80 WP, Copper-zinc, Zin 80WP,
Benlate-C 50 WP hoặc Ridomil 25WP 1-2 % kết hợp tỉa bỏ lá già.
- Bệnh thán thư do nấm Colletotrichum lagenarium: Bệnh gây hại
trên hoa, cuống trái, trái non và cả trái chín. Vết bệnh trên trái có màu nâu
tròn, lõm, khi bệnh nặng các vết này liên kết thành mảng to gây thối trái và
làm trái rụng sớm.

- Phun Manzate 200, Mancozeb 80WP, Antracol 70W, Curzate M8,
Copper-B, Topsin-M, Benlat-C 50WP nồng độ 2-3%o.
9. THU HOẠCH
Khổ qua cho thu hoạch nhiều lần. Lần đầu cho thu hoạch 40 - 45 ngày
sau khi gieo, thu khoảng 20 - 30 kg/1.000m2. Trung bình cách 3 - 4 ngày thu
một lần, thu tổng cộng 10 -15 lứa trong 40 - 50 ngày tùy theo mùa vụ và
mức độ thâm canh của người trồng. Năng suất cao nhất ở các lứa thứ 4 - 6,
khoảng 200 - 300 kg/1.000m
2
. Năng suất tổng cộng cả vụ 1,5 - 3/1.000m2
tấn trong 3 - 3,5 tháng trồng.
10. ĐỂ GIỐNG
Không nên sử dụng trái thương phẩm của giống lai F1 để làm giống
vụ sau cho trái không đồng đều về hình dạng, màu sắc và năng suất thấp.
Giống địa phương muốn để giống phải chú ý trồng cách ly với các
giống khác ở xung quanh để giống đảm bảo độ thuần. Chọn trái tốt trên cây
sinh trưởng tốt và không sâu bệnh để làm giống.
Khi trái chín vàng đều, thu vào để nơi mát. Nên phân biệt trái chín
hoàn toàn với trái bị vết sâu bệnh, trong quá trình thu phải bỏ hẳn trái bị sâu
bệnh để không ảnh hưởng đến chất lượng giống sau này. Trái giống chín
mềm bốc ra cào lấy hạt rồi để ủ 1 đêm sau đó rửa sạch chất nhờn bằng nước.
Hạt giống sau khi rửa sạch phải phơi khô nhanh, vì thời gian phơi hạt lâu vỏ
hạt biến màu khi khô và giảm chất lượng.

×