1. Định nghĩa tín dụng?
“Tín dụng là một hệ thống các quan hệ phân phối theo nguyên tắc có hoàn trả giữa người đang tạm thời thừa
vốn sang người tạm thời thiếu vốn và ngược lại”
Tín dụng thường kèm theo một khoản lãi
Căn cứ quan trọng nhất của tín dụng là sự tin tưởng
Có 3 giai đoạn trong quá trình thực hiện tín dụng
Việc hoàn trả trong tín dụng là vô điều kiện
2. Quy trình tín dụng là gì?
Quy trình tín dụng là bảng tổng hợp mô tả công việc của ngân hàng từ khi tiếp nhận hồ sơ vay vốn của một
khách hàng cho đến khi quyết định cho vay, giải ngân, thu nợ và thanh lý hợp đồng tín dụng.
3. Ý nghĩa của quy trình tín dụng
Việc xác lập một quy trình tín dụng và không ngừng hoàn thiện nó đặc biệt quan trọng đối với một ngân hàng
thương mại.
Về mặt hiệu quả, một quy trình tín dụng hợp lý sẽ giúp cho ngân hàng nâng cao chất lượng tín dụng và giảm
thiểu rủi ro tín dụng.
Về mặt quản lý, quy trình tín dụng có tác dụng:
• Làm cơ sở cho việc phân định quyền, trách nhiệm cho các bộ phận trong hoạt động tín dụng.
• Làm cơ sở để thiết lập các hồ sơ, thủ tục vay vốn.
4. Một quy trình tín dụng căn bản
Bước 1: Lập hồ sơ vay vốn
Bước này do cán bộ tín dụng thực hiện ngay sau khi tiếp xúc khách hàng. Nhìn chung một bộ hồ sơ vay vốn cần
phải thu thập các thông tin như:
• năng lực pháp lý, năng lực hành vi dân sự của khách hàng
• khả năng sử dụng vốn vay
• khả năng hoàn trả nợ vay (vốn vay + lãi)
Bước 2: Phân tích tín dụng
Phân tích tín dụng là xác định khả năng hiện tại và tương lại của khách hàng trong việc sử dụng vốn vay + hoàn
trả nợ vay.
Mục tiêu:
• Tìm kiếm những tình huống có thể xảy ra dẫn đến rủi ro cho ngân hàng, dự đoán khả năng khắc phục
những rủi ro đó, dự kiến những biện pháp giảm thiểu rủi ro và hạn chế tổn thất cho ngân hàng.
• Phân tích tính chân thật của những thông tin đã thu thập được từ phía khách hàng trong bước 1, từ đó
nhận xét thái độ, thiện chí của khách hàng làm cơ sở cho việc ra quyết định cho vay.
Bước 3: Ra quyết định tín dụng
Trong khâu này, ngân hàng sẽ ra quyết định đồng ý hoặc từ chối cho vay đối với một hồ sơ vay vốn của khách
hàng.
Khi ra quyết định, thường mắc 2 sai lầm cơ bản:
• Đồng ý cho vay với một khách hàng không tốt
• Từ chối cho vay với một khách hàng tôt.
Cả 2 sai lầm đều ảnh hưởng đến hoạt đông kinh doanh tín dụng, thậm chí sai lầm thứ 2 còn ảnh hưởng đến uy
tín của ngân hàng.
Bước 4: Giải ngân
Ở bước này, ngân hàng sẽ tiến hành phát tiền cho khách hàng theo hạn mức tín dụng đã ký kết trong hợp đồng
tín dụng.
Nguyên tắc giải ngân: phải gắn liền sự vận động tiền tệ với sự vận động hàng hóa hoặc dịch vụ có liên quan,
nhằm kiểm tra mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng và đảm bảo khả năng thu nợ. Nhưng đồng thời cũng
phải tạo sự thuận lợi, tránh gây phiền hà cho công việc sản xuất kinh doanh của khách hàng.
Bước 5: Giám sát tín dụng
Nhân viên tín dụng thường xuyên kiểm tra việc sử dụng vốn vay thực tế của khách hàng, hiện trạng tài sản đảm
bảo, tình hình tài chính của khách hàng, để đảm bảo khả năng thu nợ.
Bước 6: Thanh lý hợp đồng tín dụng
5. Hạn mức tín dụng
a/. Khái niệm :
Cho vay theo hạn mức tín dụng là một trong hai phương thức cho vay ngắn hạn áp dụng phổ biến hiện nay tại
các ngân hàng thương mại. Điểm cơ bản của loại cho vay này là một hồ sơ xin vay dùng để xin vay cho nhiều
món vay.
Hạn mức tín dụng được định nghĩa là mức dư nợ vay tối đa được duy trì trong một thời gian nhất định mà ngân
hàng và khách hàng đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Khác với loại vay thông thường, ngân hàng không
xác định kỳ hạn nợ cho từng món vay mà chỉ khống chế theo hạn mức tín dụng, có nghĩa là vào một thời điểm
nào đó nếu dư nợ vay của khách hàng lên đến mức tối đa cho phép, thì khi đó ngân hàng sẽ không phát tiền vay
cho khách hàng.
Đối với loại vay này, một hợp đồng tín dụng được sử dụng cho cả quý. Đến cuối quý, hợp đồng tín dụng sẽ
được thanh lý và sang đầu quý sau, khách hàng muốn vay phải nộp bộ hồ sơ xin vay mới.
Phạm vi áp dụng : áp dụng cho khách hàng có nhu cầu vay vốn thường xuyên và được ngân hàng tín nhiệm.
Thường khi cho vay loại này, ngân hàng không yêu cầu đảm bảo tín dụng.
Cho vay theo hạn mức tín dụng có những ưu và nhược điểm sau :
Ưu điểm : Thủ tực đơn giản, khách hàng chủ động được nguồn vốn vay, lãi vay trả cho ngân hàng thấp.
Nhược điểm : Ngân hàng dễ bị ứ đọng vốn kinh doanh, thu nhập lãi cho vay thấp.
b/. Cách xác định hạn mức tín dụng :
Cho vay ngắn hạn thực chất là loại cho vay bổ sung nguồn vốn đầu tư vào tài sản lưu động. Do vậy, xác định
hạn mức vốn lưu động phải căn cứ vào nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp và trên cơ sở khai thác hết các
nguồn vốn phi ngân hàng khác. Có như vậy mới xác định đúng và hợp lý nhu cầu vốn vay, tránh tình trạng cho
vay quá mức cần thiết làm tổn hại đến khả năng thu hồi nợ. Mặc khác, không vì thế mà xác định quá khắt khe
không đáp ứng đủ nhu cầu vốn cho doanh nghiệp.
Căn cứ để xác định hạn mức tín dụng là kế hoạch tài chính của doanh nghiệp, trong đó dự báo chi tiết về tài sản
và nguồn vốn. Các khoản mục trong bảng kế hoạch tài chính có thể liệt kê ở bảng dưới đây :
Dựa vào kế hoạch tài chính nhận từ khách hàng nhân viên tín dụng sẽ tiến hành xác định hạn mức tín dụng theo
từng bước như sau :
Bước 1 : Xác định và thẩm định tính chất hợp lý của tổng tài sản.
Bước 2 : Xác định và thẩm định tính chất hợp lý của nguồn vốn.
Bước 3 : Xác định hạn mức tín dụng theo công thức sau :
Hạn mức tín dụng = Nhu cầu vốn lưu động - vốn chủ sở hữu tham gia.
Trong đó : Nhu cầu vốn lưu động = giá trị tài sản lưu động - nợ ngắn hạn phi ngân hàng (1) - Nợ dài hạn có
thể sử dụng (2)
(1) gồm : Phải trả người bán, Phải trả công viên, Phải trả khác
(2) Chính là giá trị tài sản lưu động do nguồn dài hạn tài trợ.
Biến tướng lãi suất bằng phí?
Trước khi có thỏa thuận giữa các thành viên trong VNBA, một số NHTM đã điều chỉnh giảm lãi suất cho vay
Tài sản Nợ và vốn chủ sở hữu
Tài sản lưu động Nợ phải trả
. Tiền mặt và tiền gửi ngân hàng . Nợ ngắn hạn
. Chứng khoán ngắn hạn Phải trả người bán
. Khoản phải thu Phải trả công nhân viên
. Hàng tồn kho Phải trả khác
. Tài sản lưu động khác. Vay ngắn hạn ngân hàng
Tài sản cố định . Nợ dài hạn
Đầu tư tài chính dài hạn Vốn chủ sở hữu
Tổng cộng tài sản Tổng cộng nợ và vốn chủ sở hữu
0,5-1,5%/năm đối với các đối tượng cho vay ưu đãi theo chỉ đạo của Chính phủ (cho vay nông nghiệp, nông
thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa).
Tuần này, các NHTM nhà nước (Vietinbank, Vietcombank, Agribank, BIDV) điều chỉnh giảm lãi suất xuống
mức 12-12,5%/năm; 4 NHTM cổ phần (Habubank, Hàng hải, Sacombank, ACB) giảm lãi suất xuống mức 12,5-
13,5%/năm. Các NHTM khác cũng đang lên phương án điều chỉnh giảm lãi suất.
Còn với thỏa thuận mới, từ ngày 5-7, các NHTM đã bắt đầu hạ lãi suất huy động xuống mức 11%/năm (đối với
NHTM nhà nước) và khoảng 11,2%/năm (NHTM cổ phần); đồng thời, các NHTM sẽ không áp dụng các hình
thức thưởng trực tiếp bằng tiền, lãi suất. Tổng thư ký VNBA Dương Thu Hương cho biết, đến ngày 7-7 đã có 13
NHTM giảm lãi suất huy động xuống quanh mức 11%/năm.
Ở một số NHTM lớn hoạt động tại TPHCM, lãi suất cho vay đã giảm nhẹ, mức độ giảm nhiều nhất ở lĩnh vực
cho vay và tài trợ xuất khẩu. Có NHTM áp dụng mức lãi suất 12%/năm nếu đó là khách hàng “ruột”, uy tín cao,
sử dụng nhiều dịch vụ của NH, nguồn ngoại tệ thu về lớn… Tuy nhiên, lĩnh vực sản xuất kinh doanh vẫn chưa
được hưởng lợi thực sự.
Một doanh nghiệp cho biết, công ty của ông đang hoàn tất hồ sơ vay 5 tỷ đồng bổ sung vốn lưu động ở một
NHTM cổ phần nổi tiếng với hạn vay 1 năm nhưng phía NH thông báo lãi suất lên tới 14%/năm.
Theo Tổng thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp TPHCM Nguyễn Chí Nguyện, cộng đồng doanh nghiệp rất phấn khởi
trước thông tin các NHTM sẽ giảm lãi suất cho vay. Tuy nhiên, như nhiều lần trước đây, các doanh nghiệp cũng
lo ngại lần này các NHTM cũng sẽ giảm lãi suất theo kiểu đối phó, tức là các NHTM sẽ đẻ ra các loại phí và lãi
suất thực vay vẫn cao.
Ông Nguyện cho rằng, các NHTM nhỏ rất khó giảm lãi suất và hạn chế cho vay do áp lực cần vốn để tăng vốn
điều lệ lên 3.000 tỷ đồng theo lộ trình của NHNN đưa ra và do khó thu hút vốn đầu vào.
Mấu chốt ở CPI
Một số chuyên gia cho rằng, thị trường tiền tệ đang méo mó do có một số doanh nghiệp được hưởng nguồn vốn
vay ưu đãi và không loại trừ các doanh nghiệp “sân sau” của các NHTM lớn mặc cả lãi suất tiền gởi rất cao với
các NHTM “đàn em”. Điều này đã được VNBA báo cáo lên NHNN. Cũng do NHNN khống chế tỷ lệ vay vốn
liên NH không được vượt quá 20% tổng vốn huy động từ dân cư và tổ chức kinh tế nên các NHTM vừa và nhỏ
buộc phải đẩy lãi suất huy động lên cao, lôi kéo người gởi tiền và giữ chân khách hàng cũ nhằm kỳ vọng xoay
sở nguồn vốn giá rẻ từ thị trường liên NH.
Bên cạnh đó, nửa đầu năm 2010, tỷ lệ nhập siêu và hàng tồn kho cũng khá lớn đã gây áp lực đáng kể lên tỷ giá
và chỉ số giá tiêu dùng (CPI), gây khó khăn cho việc giảm lãi suất huy động. Do vậy, yếu tố then chốt để kéo
giảm lãi suất tín dụng là kéo giảm chỉ số CPI. Những tháng qua tốc độ CPI diễn biến theo xu thế giảm dần. Tuy
nhiên, để đạt mục tiêu đề ra năm 2010, Chính phủ và NHNN phải thực hiện đồng bộ và hợp lý các chính sách
tài khóa, xuất nhập khẩu, tiền tệ và chính sách đầu tư nhằm tạo chuyển biến tích cực hơn nữa.
TS Lê Thẩm Dương, Trưởng khoa Quản trị kinh doanh (ĐH Ngân hàng TPHCM), cho rằng giảm lãi suất phải
dựa trên nhiều giải pháp tổng hợp và đồng bộ để các NHTM tránh được nguy cơ căng thẳng thanh khoản vào
thời điểm cuối năm. Nếu Chính phủ không chỉ đạo, các NHTM cũng buộc phải hạ lãi suất để “tiêu thoát vốn”,
đảm bảo chỉ tiêu tăng trưởng cũng như lợi nhuận, đồng thời đối phó với áp lực cạnh tranh ngày càng lớn từ các
ngân hàng nước ngoài.
Tuy nhiên, việc hạ lãi suất sẽ gây ra nhiều mâu thuẫn: Doanh nghiệp mừng trong khi NHTM âu lo vì lợi nhuận
bị teo lại; Lãi suất huy động thấp trong lúc lãi suất trái phiếu Chính phủ và chỉ số CPI còn cao khiến các NHTM
khó thu hút nguồn vốn. Đó là chưa kể, các thị trường chứng khoán, bất động sản, vàng… vẫn có sức hấp dẫn các
nhà đầu tư nên rất khó thuyết phục người dân gởi tiền vào ngân hàng.
Theo TS Lê Thẩm Dương, để hài hòa giữa bài toán lợi nhuận của hệ thống NHTM và quyền lợi của người gửi
tiền, lãi suất huy động nên dao động quanh ngưỡng 10,5%/năm và lãi suất cho vay khoảng 12,5%/năm.
Đồng thời, các NHTM nên hạ lãi suất có trọng điểm, linh hoạt tùy đối tượng khách hàng; NHNN nên tiếp tục
bơm tiền cho các NHTM thông qua thị trường mở… Nếu mức lãi suất vay vốn dưới 13%/năm, sẽ kích thích sản
xuất kinh doanh phát triển.
Mức tăng trưởng tín dụng ngân hàng sẽ xuống ở mức 23% vào 2011
Cũng liên quan đến lĩnh vực kinh tế, vào sáng ngày hôm nay, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam dự kiến
mức tăng trưởng tín dụng ngân hàng sẽ thấp ở mức 23% vào năm tới, nhờ việc tập trung vào kiềm chế
lạm phát và thận trọng trong chính sách tiền tệ.
Trong năm nay, tín dụng Việt Nam tăng 27,65%, vượt chỉ tiêu của chính phủ đặt ra là 25%, bao gồm
cả các khoản lợi nhuận trong tỷ giá hối đoái, tỷ giá vàng và cho vay tăng 29,8%.
Tổng số thanh khoản của cả hệ thống ngân hàng dự kiến sẽ tăng cao đến 24% vào năm tới.
Ngân hàng Nhà Nước cho biết năm 2011 sẽ tập trung điều hành chính sách tiền tệ một cách thận
trọng, chủ động và linh hoạt theo nguyên tắc thị trường. Đồng thời phối hợp chặt chẽ với chính sách
tài khóa và các chính sách kinh tế vĩ mô khác để kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô.
Hiện giá tiêu dùng của Việt Nam tăng 11,75%, mức kỷ lục kể từ tháng 2 năm ngoái.
Ngân hàng Nhà Nước cũng cho biết sẽ điều hành tỷ giá hối đoái theo những tín hiệu của thị trường,
phù hợp với diễn biến lãi suất, cân đối cung cầu ngoại tệ, tăng tính thanh khoản cho thị trường và thúc
đẩy xuất khẩu, giảm nhập khẩu và giảm tình trạng đô-la hóa trong nền kinh tế.
Tín dụng ngân hàng thận trọng trong tăng trưởng
Năm 2009, Ngân hàng Nhà nước đã cùng với các tổ chức tín dụng (TCTD) theo dõi sát diễn biến và
dự báo của các nước để chủ động điều hành chính sách tiền tệ. Trong hệ thống các công cụ chính sách
đó thì chính sách tín dụng là yếu tố quan trọng nhất bởi tiền phát hành của các Ngân hàng vào lưu
thông chủ yếu qua con đường tín dụng.
Ðầu năm 2009, các doanh nghiệp (DN) gặp rất nhiều khó khăn do tác động tiêu cực của cuộc khủng
hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu. Ngay từ đầu năm, Ngân hàng Nhà nước đã chỉ đạo các
TCTD sử dụng vốn lưu động và vốn tự có để cho vay, coi trọng đầu tư vào lĩnh vực sản xuất vật chất,
tăng cường xuất khẩu. Với mặt bằng lãi suất cho vay 10,5%/ năm và nhà nước hỗ trợ 4% theo chính
sách kích cầu đã thúc đẩy các luồng vốn đầu tư vào sản xuất, kinh doanh. Các TCTD đã mở rộng
mạng lưới các điểm giao dịch để bảo đảm thuận tiện cho người dân đi gửi tiền và vay vốn, và làm các
dịch vụ khác. Bằng nhiều hình thức khuyến khích, cạnh tranh đã thu hút hàng trăm nghìn tỷ đồng tiền
nhàn rỗi của các tầng lớp nhân dân vào quỹ ngân hàng, đồng thời đẩy mạnh cho vay các ngành kinh tế
quốc dân nhằm thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng hóa phát triển. Thị trường tín dụng phát triển mạnh
mẽ ở tất cả các ngân hàng với nhiều phương thức cung ứng vốn khác nhau, ngân hàng nào cũng muốn
mở rộng thị phần để tăng doanh số hoạt động.
Nhìn lại năm 2009, số vốn đầu tư hàng trăm nghìn tỷ đồng đã đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Ðặc biệt là cho vay hỗ trợ lãi suất với dư nợ hơn 430 nghìn tỷ đồng đã giúp hàng nghìn DN và hộ
kinh doanh giảm chi phí vay vốn, giảm giá thành sản phẩm, duy trì và mở rộng sản xuất, kinh doanh
tạo việc làm, góp phần bảo đảm an sinh xã hội, ngăn chặn suy giảm kinh tế. Ðối với các DN Nhà
nước cùng với các nguồn vốn khác, vốn tín dụng đã góp phần đẩy nhanh tiến độ thực hiện các dự án
của nhà nước mà Chính phủ phê duyệt. Các ngân hàng thương mại đã bố trí đủ vốn để giải ngân cho
các hợp đồng tín dụng đã ký kết đối với các dự án lớn, trọng điểm quốc gia, tiếp tục cơ cấu lại thời
hạn trả nợ đối với các khoản vay của các DN gặp khó khăn do không tiêu thụ được sản phẩm hoặc các
tài sản do vốn ngân hàng cho vay nhưng không phát huy hiệu quả kinh tế.
Bên cạnh những kết quả đạt được, còn nhiều vướng mắc trong hoạt động của tín dụng ngân hàng, đó
là thủ tục hành chính rườm rà, phức tạp gây tốn kém công sức, thời gian, nhiều khi làm chậm hoặc
mất cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp. Trong quan hệ với ngân hàng, hồ sơ thủ tục vay vốn ở một
số ngân hàng cơ sở vẫn còn rườm rà, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ nông
dân còn chậm, gây khó khăn cho việc vay vốn ngân hàng. Trong điều kiện các doanh nghiệp khó vay
vốn ngân hàng thì thị trường "tín dụng đen" hoạt động khá náo nhiệt, không ít những trường hợp hộ
kinh doanh phải vay ngoài với lãi suất cao lên đến 4,5%/tháng.
Trong những năm tới, chính sách tín dụng ngân hàng vừa phục vụ tăng trưởng kinh tế vừa thực hiện
mục tiêu kiềm chế lạm phát. Vì vậy, cần tập trung huy động thu hút mọi nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi
vào ngân hàng để cho vay phục vụ và thúc đẩy sản xuất phát triển, tạo ra nhiều của cải, vật chất hàng
hóa cho xã hội, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của toàn xã hội. Tín dụng ngân hàng cần tập trung
vào một số vấn đề cụ thể dưới đây:
Một là, tiếp tục thực hiện chính sách thắt chặt tín dụng với phương châm huy động vốn được đến đâu
cho vay đến đó để thực hiện mục tiêu duy trì sự ổn định tiền tệ, nâng cao sức mua của đồng tiền, thực
hiện kiềm chế lạm phát, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp lý. Tổng phương tiện thanh toán và dư
nợ tín dụng năm 2010 đối với nền kinh tế tăng khoảng 25% so với cuối năm 2009, lãi suất và tỷ giá
được điều hành ở mức hợp lý phù hợp với các cân đối kinh tế vĩ mô, bảo đảm ổn định hoạt động và an
toàn hệ thống. Ðể thực hiện được mục tiêu trên cần khống chế chặt chẽ hạn mức dư nợ đối với các
TCTD.
Hai là, do nguồn vốn có hạn nên cần tập trung vào những khách hàng sản xuất, kinh doanh có hiệu
quả, tài chính trong sạch, thu hút và sử dụng được nhiều lao động, hoàn thành nghĩa vụ đối với ngân
sách Nhà nước và nộp các khoản đóng góp khác. Các TCTD chỉ được dùng lãi suất thỏa thuận để cho
vay các đối tượng trực tiếp phục vụ đời sống của cá nhân và hộ gia đình của khách hàng vay thông
qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, không được dùng lãi suất thoả thuận để cho vay đầu
tư kinh doanh bất động sản, đầu tư chứng khoán, vàng bạc đá quý.
Ba là, mở rộng tín dụng về nông thôn, thị trường vùng sâu, vùng xa để phát triển kinh tế hàng hóa
cùng với vốn của ngân hàng chính sách xã hội, tín dụng đối với các hộ nông dân nghèo cần tiếp tục
thực hiện mục tiêu giảm nghèo nhanh và bền vững, giúp người nghèo tận dụng cơ hội, chính sách của
nhà nước. Cho vay để chuyển đổi cơ cấu lao động, đào tạo nghề, thực hiện khuyến nông, khuyến lâm
bằng hệ thống các giải pháp kết hợp với chính sách của nhà nước với kinh nghiệm của người dân để
nâng cao sức sản xuất, nhanh chóng cải thiện đời sống ở khu vực nông thôn.
Thứ tư là, tăng cường kiểm tra chặt chẽ các khoản cho vay ở ngân hàng cơ sở, nêu cao tính tự chủ và
tự chịu trách nhiệm trong kinh doanh của ngân hàng thương mại. Ðổi mới hình thức và phương pháp
kiểm tra chấp hành chế độ tín dụng và kiểm tra sử dụng vốn vay ngay từ quy chế điều hành của cơ
quan quản lý là Ngân hàng Nhà nước. Việc thanh tra, kiểm tra không chỉ có cơ quan thanh tra giám
sát ngân hàng mà các vụ nghiệp vụ khác có liên quan cũng có quyền thanh tra việc chấp hành chế độ
theo định kỳ để rút ra những vấn đề được, chưa được nhằm bổ sung và sửa đổi cơ chế cho phù hợp.
Thứ năm là, trong quản trị điều hành cần nâng cao năng lực lãnh đạo của người đứng đầu đơn vị, coi
trọng chất lượng và hiệu quả, giảm bộ máy quản lý trung gian để tăng cường cán bộ trẻ về cơ sở thực
hiện chính sách luân chuyển cán bộ, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ ở Ngân hàng Nhà nước Trung ương để
chuyển động thật sự theo yêu cầu của kinh tế thị trường. Tiếp tục bồi dưỡng, đào tạo cán bộ học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, ngăn ngừa các hành vi tiêu cực và tham nhũng.