KHOA CÔNG NGHỆ SINH HỌC
Lớp K14S1 - Nhóm 4_Tổ 4
Bài thu hoạch:
Bài 5:
Giáo Viên Hướng Dẫn: CN-GV Mai Thò Hồng
Thái
Sinh viên thực hiện:
Phú Thò Hạnh
Nguyễn Thò Huyền Mơ
Lương Quốc Hoàng Kha
1
2
Câu 1: Lợi ích và biện pháp bảo vệ các loài bò sát? Nêu chi tiết
(tập tính, vùng phân bố, thức ăn, nơi sinh sống và tình trạng) một
số loài trong lớp bò sát như: bộ cá sấu (cá sấu nước ngọt, cá sấu
nước mặn, cá sấu Cu ba), bộ có vảy (trăn, kỳ đà nước, rồng đất,
rồng Komodo), bộ rùa (baba, một số loài rùa đầm, rùa cạn, rùa
biển)
Các nhóm chim : Hiện nay lớp chim có khoảng 9.600 loài xếp trong 27 bộ. Ở
Việt Nam có khoảng 83 loài . Lớp chim được chia thành 3 nhóm sinh thái lớn.
1- Nhóm chim chạy : Đại diện : Đà Điểu
Đặc điểm:
Hoàn toàn không biết bay
Chạy nhanh trên thảo nguyên và hoang
mạc khô nóng. Nêu đặc điểm cấu tạo
của Đà
Cánh ngắn , Yếu . Chân cao , to , khoẻ ,
có 2 - 3 ngón.
Bộ Đà Điểu gồm loài . Phân bố ở Châu
Phi, Châu Mỹ, Châu Đại Dương
Đại diện : Đà Điểu Phi, Đà Điểu Mỹ,
Đà Điểu Úc
2- Nhóm chim bay :
Đại diện : - Gồm hầu hết các loại chim hiện nay
- Biết bay ở nhiều mức độ khác nhau
3
Câu 2: Nhóm chim “chạy”: bộ đà điểu, nhóm chim bay
Đặc điểm BỘ (NGỖNG) BỘ (GÀ)
BỘ (CHIM
ƯNG)
BỘ (CÚ)
Mỏ Mỏ dài , rộng ,
dẹp. Bờ mỏ có
những tấm sừng
ngang
Mỏ ngắn khoẻ Mỏ khoẻ , quặp
sắc , nhọn
Mỏ quặp nhưng
nhỏ hơn
Cánh Cánh không
đặc sắc
Cánh ngắn ,
tròn
Cánh dài khỏe Dài , lông mềm
Chân Chân ngắn , có
màng bơi rộng
nối liền 3 ngón
trước
Chân to, móng
củn. Con trống
chân có cưa
Chân to khỏe,
có vuốt cong
sắc
Chân to khỏe,
có vuốt cong
sắc
Đời sống Bơi giỏi, bắt
mồi dưới nước,
đi lại vụng về
trên cạn
Kiếm mồi bằng
cách bới đất.
Ăn hạt, cỏ non,
giun…
Săn mồi ban
ngày, bắt chim,
gặm nhấm, gà
vịt
Săn mồi ban
đêm nhẹ nhàng,
gặm nhấm
4
Đại diện từng
bộ chim
Mòng két, Vịt
trời
Công, Gà
rừng
Chim Ưng,
Cắt
Cú Mèo, Cú
Lợn
Các loài chim săn mồi:
Gồm những chim ăn thịt ban ngày. Mỏ lớn, cong và nhọn, mỏ trên dài hơn và
quặp xuống. Gốc mỏ có màng da với hai lỗ mũi. Chân to khoẻ có bốn ngón lớn có
móng sắc. Chim cắt dùng mỏ và móng chân để quắp và xé mồi. Đôi cánh rộng, bay lượn
nhẹ nhàng, mắt tinh. Con mái lớn hơn con trống. Đa số chim cắt ăn chuột, rắn và xác chết
gieo rắc mềm bệnh từ nơi này đi nơi khác. Một số bắt gà, vịt con, ăn cá.
Ở phía Bắc có ba họ: Cắt (Falconidae), Kền kền (Aegypiidae) và chim ưng
(Accipitridae). Đây đều là những chim tương đối lớn. Chim cắt về mùa đông di trú về
nước ta. Có nhiều loài như: Chim cắt lớn (Falco peregrinus ieucogenus), Kền kền rừng
(Gyps indicus nudiceps), Diều hâu (Milvus migrans), Đại bàng (Aquilla rapax)
Cắt
Kền kền
5
Đại bàng
Diều hâu
Chim ưng
6
Thú móng guốc có số lượng ngón chân tiêu giảm, đốt cuối của mỗi ngón có sừng bao
bọc, được gọi là guốc.
Thú móng guốc di chuyển nhanh, vì thường có chân cao, trục ống chân, cổ chân, bàn và
ngón chân dường như thẳng hàng và chỉ có những đốt cuối của ngón chân có guốc bao
bọc mới chạm đất, nên diện tích tiếp xúc với đất hẹp.
Lợi ích:
Là đối tượng cung cấp nguồn dược liệu quý như : sừng, nhung
Những nguyên liệu để làm đồ mĩ nghệ có giá trị như : da, lông, ngà voi, sừng, xạ hương
Tất cả các loài gia súc ( trâu, bò, lợn…) đều là nguồn thực phẩm và một số loài có vai trò
sức kéo quan trọng.
Biện pháp bảo vệ:
Vì những giá trị kinh tế quan trọng, nên thú đã bị săn bắt, buôn bán. Số lượng thú trong
tự nhiên đã bị giảm sút nghiêm trọng, do đó cần có ý thức và đẩy mạnh phong trào bảo
vệ sinh vật hoang dã, tổ chức chăn nuôi những loài có giá trị kinh tế, góp phần bảo vệ
môi trường sống hiện nay
1. NAI
Cervus unicolor Kerr, 1792
Họ: Hươu nai Cervidae
Bộ: Ngón chẵn Artiodactyla
Mô tả:
Nai là loài lớn nhất trong họ hươu nai Cervidae, nặng 150 - 200 kg, dài thân 1.800 -
2.000mm. Bộ lông dày, sợi lông nhỏ, dài, nâu ở hông và mông, xám hay xám đen ở lưng
và ngực, trắng bẩn ở bụng và mặt trong các chi. Nai đực có sừng (gạc) ba nhánh. Nhánh
thứ nhất tạo với nhánh chính một góc nhọn lớn. Sừng to, thô, nhiều nhánh và nhiều đốt
sần.
Sinh thái và tập tính:
7
Câu 3: Thú móng guốc (lợi ích và biện pháp bảo vệ). Nêu chi tiết
một vài loài như: nai, hoẵng, hà mã, bò tót, ngựa vằn, nai cà tong
Nai sống nhiều sinh cảnh rừng: rừng thưa, rừng rụng lá, rừng thứ sinh ven vạt cỏ. Mật
độ cao gặp ở các vùng rừng ven suối và đồi bát úp. Nai không sống ở độ cao trên 1.000m.
Khu vực sống rộng 4 - 5 km2 và ổn định. Sống đàn hoặc đơn, kiếm ăn đêm. Nơi xa dân
cư. Nai có thể kiếm ăn cả lúc sáng sớm và chiều tối. Nơi bị săn bắn mạnh Nai đi kiếm ăn
muộn (23 - 24 giờ).
Nai ăn các loại cỏ, lá mầm, cây bụi , cây tái sinh và một số loại quả rừng rụng xuống.
trong điều kiện nuôi Nai ăn 20 - 25 kg cỏ, lá một ngày. Nai sinh sản tập trung vào mùa
thu và mùa xuân. Mang thai khoảng 8 tháng. Mỗi năm đẻ một lứa, mỗi lứa đẻ 1 con. Nai
con đẻ ra khoẻ, bú mẹ khoảng 6 tháng, trưởng thành sinh dục sau 2 năm tuổi.
Phân bố:
Thế giới: Đông nam Á, Trung Quốc, Assam, Nêpan, ấn Độ, Xây Lan, Mianma, Thái Lan,
Lào, Campuchia, Malaixia, Xumatra, Java, Borneo, Philippines.
Việt Nam: trước đây Nai gặp khắp các tỉnh có rừng, hiện nay chỉ còn dọc theo biên giới
phía Tây, từ Tây bắc đến Đông nam bộ.
Giá trị sử dụng:
Nai là thú cho da lông, thực phẩm và dược liệu (nhung, gạc).
Tình trạng:
Do săn bắn qúa mức, vùng sống bị thu hẹp nên Nai đã bị tiêu diệt ở vùng Đông bắc, hiếm
ở các tỉnh vùng Tây bắc, Trung bộ. Các tỉnh Tây Nguyên, Động nam bộ, Nai còn không
nhiều.
Loài này chưa có tên trong Sách đỏ Việt Nam và Nghị định 18 HĐBT. Cần đưa vào Sách
đỏ, mức đe doạ thấp (R) và quản lý tốt nguồn lợi nai rừng. Nai có thể nuôi nhốt chuồng,
cần phát triển nghề nuôi nai.
2. HOẴNG
Muntiacus muntjak annamensis Kloss, 1928
Họ: Hươu nai Cervidae
Bộ: Ngón chẵn Artiodactyla
Mô tả:
Cỡ nhỏ hơn Nai thân hình thon mảnh. Trọng lượng không quá 30kg. Lưng màu vàng
sẫm. Bụng trắng, chân có lông màu vàng, giữa hai móng guốc có vệt trắng rõ rệt. Đuôi
ngắn.
Sinh học:
8
Phân loài hoẵng Nam bộ có những đặc điểm sinh học của loài. Thức ăn chủ yếu là lá cây,
quả cây, cỏ mùa sinh sản vào 2 thời kỳ từ tháng 1 - 3 và từ tháng 6 - 8. Thời gian có
chửa 180 - 200 ngày. Mỗi năm một lứa, mỗi lứa 1 con (rất ít trường hợp 2 con).
Nơi sống và sinh thái:
Thường sống ở những cánh rừng thưa, rừng quanh nương rẫy đồi cây, trảng cỏ cây bụi.
Nơi ở quang đãng, tháng mát, khô giáo ven rứng và không cố định lâu dài. Hoạt động ban
đêm từ chập tốt đên gần sáng. Vùng hoạt động cá thể nhỏ (1 - 2 km
2
). Sống đơn độc chỉ
ghép đôi trong thời kỳ động dục.
Phân bố:
Việt Nam: Kontum (Sa Thầy), Lâm Đồng (Di Linh, Bảo Lộc, Lang Bian) Đồng Nai (La
Ngà).
Thế giới: Lào, Campuchia
Giá trị:
Phân loài đặc hữu của Đông Dương. Hoẵng dễ nuôi có thể thuần dưỡng chăn nuôi trong
các vườn thú, các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên.
Tình trạng:
Số lượng hoẵng Nam bộ ở Sa Thầy và các vùng khác không nhiều, vẫn bị săn bắn thường
xuyên. Mức độ đe dọa: bậc V.
Đề nghị biện pháp bảo vệ:
Tuyệt đối cấm săn, bẫy bắt ở khu vực Sa Thầy, Langbian. Nuôi bán tự nhiên để phát triển
nguồn gen.
Cỡ nhỏ hơn Nai thân hình thon mảnh. Trọng lượng không quá 30kg. Lưng màu vàng
sẫm. Bụng trắng, chân có lông màu vàng, giữa hai móng guốc có vệt trắng rõ rệt. Đuôi
ngắn
Thức ăn chủ yếu là lá cây, quả cây, cỏ… mùa sinh sản vào 2 thời kỳ từ tháng 1 - 3 và từ
tháng 6 - 8. Thời gian có chửa 180 - 200 ngày. Mỗi năm một lứa, mỗi lứa 1 con (rất ít
trường hợp 2 con)
3. BÒ TÓT
Bos gaurus Smith, 1827
Bos gour Hardwicke, 1827
Họ: Trâu bò Bovidae
Bộ: Ngón chẵn Artiodactyla
Mô tả:
9
Thú cỡ lớn, to khoẻ. Dài thân 2, 5 - 3m, dài đuôi 0, 7 - 1m, cao vai 1, 3 - 1, 8m, trọng
lượng 900 - 1000kg. Trán dẹt, hơi lõm, có đốm trắng, trên trán giữa 2 sừng nhô cao.
Sừng to khoẻ uốn hình cong bán nguyệt. Bộ lông ở lưng màu đen xám hơi phớt xanh,
bụng màu nhạt
Sinh học:
Thực ăn của bò tót là cỏ và lá cây, măng tre, nứa. Sinh sản vào tháng 6 - 7. Thời gian
có chửa 270 - 280 ngày. Mỗi năm một lứa, mỗi lứa 1 con.
Nơi sống và sinh thái:
Nơi sống của bò tót là rừng giá thường xanh, rừng hỗn giao, rừng thứ sinh, rừng
khộp, địa hình tương đối bằng phẳng ở độ cao 500 - 1500m so với mặt biển. Hoạt
động ban ngày ở rừng thưa, trảng cỏ cây bụi, sống thành từng đàn 5 - 10 con (có đàn
20 - 30con), đôi khi cũng gặp những cá thể sống đơn độc. Trong thiên nhiên các loài
thú ăn thịt như hổ, báo, chó sói có thể tấn công đàn bò tót. Khi bị tấn công cả đàn
quây thành vòng tròn vây lấy con non, con già ở giữa.
Phân bố
Việt Nam: Lai Châu, Sơn La, Hoà Bình, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình,
Quảng Nam - Đà Nẵng, Gia Lai, Kom Tum, Đắc Lắc, Lâm Đồng (Bảo Lộc) Đồng
Nai (La Ngà, Vĩnh An, Nam Cát Tiên) Sông Bé, Tây Ninh
Thế giới: Nêpan, Ấn Độ, Mianma, Trung Quốc, Thái Lan, Lào, Campuchia, Malaixia.
Giá trị:
Nguồn gen quí dự trữ trong thiên nhiên. Để có thể lai tạo với các giống bò khác. Giá
trị kinh tế mỗi con có thể cung cấp 500 - 600kg thịt, 400kg xương, 2 - 3m2 da và cặp
sừng đẹp.
Tình trạng
Tại Việt Nam số lượng bò tót đã giảm nhiều. Trước đây vùng Tây bắc có khoảng 350
- 500 con. Nhưng hiện nay còn 30 - 50 con ở Sơn La (Xuân Nha, Sốp Cộp), Lai Châu
(Mường Tè, Mường Lay), vùng Tây Nguyên còn khoảng 3. 000 con. Sách đỏ thế giới
xếp bậc V. Mức độ đe dọa: bậc E.
Đề nghị biện pháp bảo vệ:
Tuyệt đối cấm săn, bẫy bắt, kết hớp với bảo vệ rừng và xây dựng hệ thống các khu
bảo vệ thiên nhiên như Vườn quốc gia Cát Tiên, Yok Đôn, Xuân Nha, Sốp Cộp,
(Mường Tè, Mường Lay)
4. NAI CÀ TONG
Cervus eldi M'Clelland, 1842
Panolia acuticauda Gray, 1843
Rucervus thamin Thomas, 1918
Họ: Hươu nai Cervidae
Bộ: Ngón chẵn Artiodactyla
10
Mô tả:
Thân hình giống nai, cỡ nhỏ hơn. Dài thân 1500 - 1700mm, dài đuôI 220 - 250mm, dài
bàn chân sau: 250 - 400mm, trọng lượng 95 - 100kg. Toàn thân lông mền màu hung đỏ
hoặc vàng hung. Hai bên có vệt màu vàng nhạt. Con đực có sừng 4 - 5 nhánh. Nhánh 1
hướng về phía trước tạo với thân sừng hình vòng cung ngay trên đỉnh đầu các nhánh khác
ở ngọn sừng xoè ra như bàn tay (3 - 4 ngón).
Sinh học:
Kiếm ăn ở ven rừng, trảng cỏ cây bụi, thức ăn chủ yếu là cỏ, lá cây. Sinh sản vào tháng
10 - 11. Động dục và ghép đôi vào tháng 3 - 4. Thời gian có chửa khoảng tháng 8. Mỗi
năm đẻ một nứa, mỗi lứa đẻ 1 con.
Nơi sống và sinh thái:
Nơi sống của nai cà tông thường là rừng thưa, rừng thứ sinh, rừng khộp tương đối bằng ở
độ cao 500 - 600m so với mặt biển. Hoạt động ban đên sống thành đàn 5 - 10 hoặc nhiều
hơn.
Phân bố:
Việt Nam: Gia Lai, Kontum (Sa Thầy), Đắc Lắc (Đắc Nông, Đắc Min, Easúp), Lâm
Đồng (Bảo Lộc), Phú Yên (Tây Sơn).
Thế giới: Đông bắc Ấn Độ, Mianma, Trung Quốc (Hải Nam), Thái Lan, Campuchia
Giá trị:
Loài thú hiếm, sách đỏ Thế giới xếp bậc E. Sừng đẹp dùng trang trí nội thất, xuất khẩu.
Thịt, da, xương, nhung, sừng, có giá trị thực phẩm, dược liệu, mỹ nghệ.
Tình trạng:
Trên thế giới số lượng nai cá tông không nhiều. Ở nước ta số lượng rất ít và đang giảm
dầm do săn bắn quá mức, khai thác rừng làm mật nơi sinh sống. Mức độ đe dọa: bậc E.
Đề nghị biện pháp bảo vệ:
11
Tuyệt đối cấm săn, bẫy bắt, ở các khu rừng ở Sa Thầy, rừng quốc gia Yokđôn. Đưa một
số cá thể về nuôi ở vườn thú, và các vườn quốc gia thuần dưỡng và nhân giống.
12
1 . KHỈ ĐUÔI LỢN
Tên Việt Nam: Khỉ đuôi lợn
Tên Latin: Macaca nemestrina
Họ: Khỉ Cercopithecidae
Bộ: Linh trưởng Primates
Nhóm:Thú
Mô tả:
Cỡ lớn như khỉ vàng. Dài thân: 470 - 585mm, trọng lượng: 3, 5 - 9kg. Hai bên má lông
dài, rậm màu hung sáng phủ gần kín tai tạo thành đĩa mặt ở đỉnh đầu lông màu xám đen
tạo thành xoáy tỏa ra xung quanh gân giống cái mũ. Thân phủ lông màu nâu xám. Lông
đuôi rất ngắn giống đuôi lợn.
Sinh học:
Khỉ đuôi lợn kiếm ăn chủ yếu trên mặt đất. Thức ăn là quả, hạt, chồi cây và sâu bọ, ưu
thích các loại cỏ có vị chua chát. Sinh sản hầu như quanh năm không tập trung theo mùa.
Tuổi sinh sản lúc 4 tuổi. Thời gian có chửa 162 - 186 ngày. Mỗi lứa đẻ một con.
Nơi sống và sinh thái:
Thường sống ở rừng già trên núi đá vôi, hoạt động kiếm ăn ban ngày cả ở thung lũng,
rừng thưa trên núi đất gấn núi đá. Mùa đông trú ẩn trong các hốc đá, mùa hè trú ẩn trên
vách đá hoặc cành cây. Sống đàn 10 - 12 con, có đàn 40 con. Đôi khi hoạt động riêng rẽ
hoặc nhóm 4 - 5 con.
Phân bố:
Việt Nam: Hà Giang, Tuyên Quang, Yên Bái, Lào Cai, Bắc Thái, Sơn La, Hòa Bình, Hà
Tây, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Thừa Thên - Huế, Gia Lai, Kontum , Đắc Lắc, Lâm
Đồng, Đồng Nai, Tây Ninh.
Thế giới: Ấn Độ, (Assam), Mianma, Thái Lan, Trung Quốc (Vân Nam), Lào, Cămpuchia,
Bocnêo, Xumatơra.
13
Câu 4: Một số loài tiêu biểu trong bộ linh trưởng: khỉ, vượn, vọoc,
dã nhân
Giá trị:
Khỉ đuôi lợn có lợi về nhiều mặt như các loài khỉ khác. Có nơi chúng được nuôi để hái
dứa.
Tình trạng:
Chúng rất dạn người nên thường bị săn bắn. Hiện nay số lượng khỉ đuôi lợn rất ít. Nhiều
nơi chỉ còn lại ở một số vùng như: Sơn La chỉ còn ở Sông Mã, Cao Bằng chỉ còn ở
Quảng Bạ. Mức độ đe dọa: bậc V.
Đề nghị biện pháp bảo vệ:
Cấm săn bắn, bẫy bắt. Nghiên cứu các chủng quần và số lượng của chúng ngoài thiên
nhiên để có những biện pháp cụ thể hơn.
2. KHỈ MẶT ĐỎ
Tên Việt Nam: Khỉ mặt đỏ
Tên Latin: Macaca artoides
Họ: Khỉ Cercopithecidae
Bộ: Linh trưởng Primates
Nhóm: Thú
Mô tả:
Thân to khoẻ. Dài thân: 485 - 635mm, dài đuôi: 37 - 38mm, dài bàn chân sau: 145 - 177.
Trọng lượng 8 - 12kg. Mặt mầu đỏ thẫm có lông thưa thớt. Lưng lông dài rậm màu nâu
đỏ hoạc nâu xám. Chân và đuôi có màu giống thân.
Sinh học:
Thức ăn là lá, quả cây và cả côn trùng, ốc sên giun đất sinh sản gần như quanh năm,
nhưng thường từ tháng 2 đến tháng 10. Mỗi lứa đẻ 1 con, con sơ sinh nặng 320 - 410g.
Khỉ mặt đỏ đã được nuôi ở một số vùng cũng sinh sản tốt.
Nơi sống và sinh thái:
Sống trong rừng già, trên núi đá và núi đất, đôi khi gặp chúng kiếm ăn cả ở rừng thưa,
nương rẫy. Sống thành đàn 10 - 30 con, con đực to khỏe làm đầu đàn. Hoạt động kiếm ăn
ban ngày, di chuyển trên cây và cả trên mặt đất, ban đêm trú ẩn nghỉ ngơi trong hang đá,
hốc đất hoặc trên các cây lớn trong rừng. Khi di chuyển trên mặt đất, khỉ mặt đỏ cũng dễ
14
bị các loài thú ăn thịt cỡ lớn tấn công gây hại.
Phân bố:
Việt Nam: Hà Giang (Quảng Bạ), Cao Bằng (Trùng Khánh, Quảng Hòa), Lai Châu
(Mường Tè, Tuần Giáo, Sình Hồ), Yên Bái (Văn Chấn), Sơn La (Sông Mã, Mai Sơn,
Quỳnh Nhai, Mộc châu), Hòa Bình (Đà Bắc, Kim Bôi, Mai Châu), Thanh Hóa (Hồi
Xuân, Như Xuân), Hà Tĩnh (Hương Khuê, Hương Sơn), Quảng Bình (Tuyên Hóa), Thừa
Thiên Huế (đảo Hải Vân, Huế), Kontum (Sa Thầy), Gia Lai (Kon Hà Nừng), Đắc Lắc
(Easúp, Krông Nô, Đắc Min)
Thế giới: Ấn Độ (Assam), Mianma, Nam Trung Quốc, Thái Lan, Lào, Cămpuchia.
Giá trị:
Khỉ mặt đỏ là nguồn gen quý của rừng nhiệt đới. Giá trị kinh tế cung cấp da lông và dược
liệu. Mặt khác nếu bảo cệ tốt chúng sẽ trở thành nguồn hàng xuất khẩu có Giá trị:
Tình trạng:
Nước ta số lượng khỉ mặt đỏ không nhiều, nhưng những năm gần đây người ta săn bắn
khá nhiều để bán cho các trạm dược liệu, bẫy bắt để buôn bán qua biên giới, nên số lượng
ngày càng giảm. Mức độ đe dọa: bậc V.
Đề nghị biện pháp bảo vệ:
Cấm săn bắn, bắt bẫy, buôn bán khỉ mặt đò. Tổ chức nuôi bán tự nhiên ở vườn quốc gia,
khu bảo tồn thiên nhiên.
3. VƯỢN TAY TRẮNG
Tên Việt Nam: Vượn tay trắng
Tên Latin: Hylobates lar
Họ: Vượn Hylobatidae
Bộ: Linh trưởng Primates
Nhóm: Thú
Mô tả:
Thân hình giống như vượn đen. Khác là ở chỗ con đực có bàn chân, bàn tay trắng, xung
quanh mặt viền lông trắng (hoặc vàng nhạt, vàng xanh), ở con cái, mình và chân tay vàng
nhạt đều, xung quanh mặt trắng.
Sinh học:
15
Theo tài liệu nước ngoài cho thấy thức ăn của vượn tay trắng là quả, lá nõn cây. Mùa sinh
sản không xác định. Hai năm đẻ một lứa, mỗi lứa đẻ 1 con.
Nơi sống và sinh thái: sống trong rừng già trên núi cao. Khu vực cư trú hẹp và ít thay đổi.
Phân bố:
Việt Nam: Các tài liệu trước đây nói rằng có ở đảo Phú Quốc. Hiện nay còn chưa phát
hiện được khu vực cư trú của chúng.
Thế giới: Ấn Độ (Assam), Mianma, Thái Lan, Đông Dương và một số đảo khác.
Giá trị: Vốn gen quý và rất hiếm. Sách đỏ thế giới xếp chúng vào bậc E.
Tình trạng:
Hiện trạng của vượn tay trắng ở nước ta chưa xác định được. Chúng đang đứng trước
nguy cơ bị biến mất. Mức độ đe dọa: bậc E.
Đề nghị biện pháp bảo vệ:
Cấm săn bắn vượn ở đảo Phú Quốc. Tích cực điều tra tìm kiếm loài vượn này đưa về
nuôi ở vườn thú và các vườn quốc gia
4. VƯỢN ĐEN BẠC MÁ
Tên Việt Nam: Vượn đen bạc má
Tên Latin: Hylobates concolor leucogienis
Họ: Vượn Hylobatidae
Bộ: Linh trưởng Primates
Nhóm: Thú
Mô tả:
Thân hình giống vượn đen tuyền. Dài thân: 482 - 625mm, dài bàn chân sau: 135 -
160mm. Con đực hoàn toàn đen, hai má lông màu trắng nối nhau bằng vệt trắng dưới
cằm. Con cái lông màu vàng sẫm, lông quanh mặt tủa ngang, đỉnh đầu mầu xám hoặc nâu
đen. Vượn con, cả đực và cái đều có màu vàng nhạt.
Sinh học:
Kiếm ăn trên cây cao. Thức ăn là quả, hạt, lá, chồi cây, côn trùng, trứng chim, chim non
trong tổ. Sinh sản vào lúc 8 - 9 tuổi. Vượn cái có chu kỳ động dục 1 tháng 1 lần. Thời
16
gian có chửa 200 - 214 ngày. Mỗi năm đẻ 1 lứa, hoặc 3 năm đẻ 2 lứa, mỗi lứa đẻ 1 con.
Nơi sống và sinh thái:
Sống trong rừng già trên đỉnh núi cao, thường là núi đá. Sống đàn 3 - 7 con như trong
một gia đình. Hoạt động kiếm ăn ban ngày vào hai buổi sáng và chiều, di chuyển nhẹ
nhàng, nhanh nhẹn trên cây, ít khi xuống mặt đất.
Phân bố:
Việt Nam: Lai châu (Mường Lay, Mường Tè), Sơn La (Sông Mã), Hòa Bình (Chi Nê),
Thanh Hóa (Hồi Xuân), Nghệ An (Qùy Châu).
Thế giới: Lào.
Giá trị:
Phân loài đặc hữu của hai nước Việt Nam, Lào. Cũng có giá trị khoa học và kinh tế như
như vượn đen tuyền.
Tình trạng:
Vượn đen má trắng có vùng phân bố hạn chế, số lượng ít ở nước ta những năm gần đây
nhân dân săn bắn khá nhiều, có tới vài trăm con một năm. Hiện nay chỉ còn vài trăm con
ở một số khu vực: Mường Lay, Mường Tè, Sông Mã. Mức độ đe dọa: bậc E.
Đề nghị biện pháp bảo vệ:
Cấm săn bắn vượn nói chung, vượn đen má trắng má nói riêng. Bảo vệ các khu rừng
đang còn vượn đen má trắng sinh sống.
5. KHỈ MỐC
Tên Việt Nam: Khỉ mốc
Tên Latin: Macaca assamesis
Họ: Khỉ Cercopithecidae
Bộ: Linh trưởng Primates
Nhóm:Thú
Mô tả:
Bộ lông từ mầu vàng xám nhạt đến nâu thẫm. Vùng đầu, tay, vai sáng hơn phần sau chân
và đuôi. Xung quanh cằm màu nâu sáng, dưới mắt thẫm hơn. Diềm bên má thẫm và
hướng về phía sau kéo đến tai. Bờ sau đít có lông (trụi ở khỉ vàng), vùng mông màu xám
nhạt. Lông đuôi dài, cụp xuống.
17
Sinh học:
Khỉ mốc chủ yếu ăn thực vật, thỉnh thoảng ăn côn trùng cánh cứng hoặc ấu trùng. Sinh
sản quanh năm. Đẻ 1 con, thường gặp khỉ con vào tháng 4, 5, 7, 8 và 10. Trọng lượng sơ
sinh 300 - 500g. Khỉ con có màu lông giống khỉ mẹ. Khỉ mẹ bảo vệ con rất tốt.
Nơi sống và sinh thái:
Sống trong rừng cây cao trên núi đá và núi đất. Trú ẩn trong hốc dưới mỏm đá, hoặc náu
mình trong các lùm cây rậm rạp. Sống thành đàn 15 - 20 con, do một đực già làm đầu đàn
chỉ huy canh gác khi đàn kiếm ăn. Có thể sống chung với khỉ vàng, voọc đen.
Phân bố:
Việt Nam: Bắc Thái, Lạng Sơn, Sơn La, Hòa Bình, Hà Tây, Quảng Ninh, Ninh Bình,
Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh.
Thế giới: Nepan, Ấn Độ (Assam, Bhutan, Sikkim), bắc Mianma, Trung Quốc (Vân Nam),
Thái Lan.
Giá trị: Khỉ mốc có giá trị kinh tế và y học: lấy thịt, xương nấu cao, mật làm thuốc.
Tình trạng:
Khỉ mốc ngoài thiên nhiên có số lượng thứ hai sau khỉ vàng. Trước đây chúng là đối
tượng xuất khẩu. Trong những năm 60, 70 về trước hàng năm có 10 vạn con bị săn bắn.
Nạn săn bắn quá mức, phá rừng bừa bãi nên số lượng khỉ mốc đã giảm rất nhiều. Mức độ
đe dọa: bậc V.
Đề nghị biện pháp bảo vệ:
Cấm săn bắn, bẫy bắt. Nghiên cứu các chủng quần và số lượng của chúng ngoài thiên
nhiên để có những biện pháp cụ thể hơn
6. VOỌC XÁM
Tên Việt Nam: Vọoc xám
Tên Latin: Trachypithecus phayrei crepusculus
Họ: Khỉ Cercopithecidae
Bộ: Linh trưởng Primates
Nhóm:Thú
Mô tả:
Bộ lông mầu xám tro. Trên đầu có mào lông. Da bao quanh mắt có màu xanh. Lông ở
vùng lưng thẫm hơn ở vùng bụng. Bên hông có các lông dài, đầu lông có ánh bạc. Đuôi
18
dài hơn thân, lông rất dài.
Sinh học:
Voọc xám sinh sàn quanh năm. Đã gặp voọc cái có chửa vào tháng 3 và tháng 7. Gặp
voọc mẹ mang con trên ngực vào các tháng 4, 6, 10, 12. Mổi lứa để 1 con, con non mới
đẻ mầu vàng nhạt.
Nơi sống và sinh thái:
Sống ở những vùng rừng cây cao trên núi đá vôi, không sống trên rừng hỗn giao tre nứa.
Có thể gặp chúng kiếm ăn ở vùng đồi cây bụi gần rừng. Thường ngủ trên các vách núi đá
vôi dựng đứng hoặc trên tán cây cao rậm kín gió. Voọc xám sống chung với khỉ mốc, khỉ
vàng nhưng không cạch tranh về thức ăn. Kẻ thù tự nhiên là các loài thú ăn thịt cỡ lớn.
Phân bố:
Việt Nam: Yên Bái (Trấn Yên, Nghĩa Lộ), Lai Châu, Hà Tây, Hòa Bình Vĩnh Phú,
(Thanh Sơn), Ninh Bình (Hoàng Long), Thanh Hóa (Lang Chánh, Hồi Xuân), Nghệ An
(Quế Phong, Quỳ Châu, Kỳ Sơn, Tương Dương, Anh Sơn).
Thế giới: Mianma, Thái Lan, Lào, Campuchia.
Giá trị:
Loài phổ biến tương đối rộng ở Đông Nam Á nên ít có giá trị khoa học cao như các loài
voọc khác. Bộ lông đẹp có giá trị thẩm mỹ.
Tình trạng:
Nước ta, voọc xám tuy phân bố rộng nhưng số lượng không nhiều, và ít nhất trong các
loài voọc ở Cúc Phương vào những năm 60 số lần gặp voọc xám ít hơn số lần gặp voọc
mông trắng. Đợt nghiên cứu của chúng tôi vào tháng 7 - 1989 không gặp voọc xám ở Cúc
Phương, có thể chúng đã không còn. Hiện trạng về phân bố, và số lượng trong những
năm gần đây chưa được nghiên cứu đầy đủ. Chúng là loài thú hiếm ở nước ta. Mức độ đe
dọa: bậc V.
Đề nghị biện pháp bảo vệ:
Cấm tuyệt đối săn bắn voọc xám. Thành lập khu nuôi bán tự nhiên trong Vườn quốc gia
Cúc Phương để giữ và nhân giống.
7. VOỌC ĐẦU TRẮNG
Tên Việt Nam: Vọoc đầu trắng
19
Tên Latin: Trachypithecus francoisi poliocephalus
Họ: Khỉ Cercopithecidae
Bộ: Linh trưởng Primates
Nhóm:Thú
Mô tả:
Cá thể trưởng thành, đầu và vai ở con đực lông màu trắng nhạt, ở con cái lông màu thẫm
hơn. Vùng mông có vệt lông hình chữ V màu xám nhạt chạy qua gốc đuôi. Đuôi dài màu
đen. Con non có mấu vàng, đầu và vai nhạt hơn, đuôi vàng thẫm.
Sinh học:
Thức ăn là lá, quả cây rừng: đa, huyết dụ, lá và quả cây độc: lá ngón, hạt mã tiền. Chưa
có dẫn liệu về sinh sản của loài này. Nhưng đã gặp con cái mang thai vào tháng 7.
Nơi sống và sinh thái:
Sống ở rừng cây gỗ và dây leo mọc trên vách đá ở độ cao 100 - 150 m so với mặt biển.
Sống thành đàn 10 - 20 con do con đực chỉ huy. Khi kiếm ăn, con chỉ huy chọn ngọn cây
hay mỏm đá cao canh gác cho cả đàn. Gặp nguy hiểm nó phát tiếng kêu báo hiệu cho cả
đàn tìm nơi ẩn nấp. Khi hết nguy hiểm chúng tập hợp thành đàn chuyển qua vùng khác an
toàn hơn ở đảo Cát Bà, chúng sống chung với khỉ vàng.
Phân bố:
Việt Nam: Quảng Ninh (đảo Cát Chiên), Hải Phòng (đảo Cát Bà).
Thế giới: Không.
Giá trị:
Phân loài đặc hữu của Việt Nam. Nguồn gen quý và độc đáo, có giá trị khoa học và thẩm
mỹ.
Tình trạng:
Đảo Cái Chiên không còn, chúng chỉ còn ở đảo Cát Bà, nhưng số lượng không nhiều, và
đã được bảo vệ ở vườn quốc gia Cát Bà. Mức độ đe dọa: bậc E
8. VOỌC ĐEN MÁ TRẮNG
Tên Việt Nam: Vọoc đen má trắng
Tên Latin: Trachypithecus francoisi francoisi
Họ:Khỉ Cercopithecidae
20
Bộ:Linh trưởng Primates
Nhóm:Thú
Mô tả:
Bộ lông mầu đen tuyền. Trên má có vệt lông màu trắng kéo dài quá tai như voọc mông
trắng. Đỉnh đầu có mào lông đen. Đuôi lông màu đen, không xù xì.
Sinh học:
Thức ăn chồi non, lá cây và rất ít quả cây rừng. Đẻ 1 con. Trọng lượng con sơ sinh 300 -
320g, non yếu, có bộ lông màu vàng. Đẻ xong, mẹ theo đàn đI kiếm ăn để lại con non
trong hang nên thường bị thú ăn thịt, rắn gây hại. Con non được 3 - 4 tháng tuổi có thể
ôm ngang ngực mẹ và đem theo khi kiếm ăn.
Nơi sống và sinh thái:
Sống trên những vách núi đá vôi ở độ cao không lớn có nhiều cây gỗ và dây leo. Mùa hè,
đêm ngủ trên vách đá hoặc tán cây, mùa đông ngủ trong hang sâu kín gió. Cửa hang
thường tránh hướng đông bắc. Sống đàn, con đực trưởng thành làm đầu đàn với 3 - 4 con
cái và con non. Mỗi đàn có vùng lãnh thổ hoạt đông riêng không xâm phạm lẫn nhau,
chúng có thể sống ôn hòa với các loài khỉ khác.
Phân bố:
Việt Nam: Tuyên Quang (Nà Hang, Chiêm Hóa), Cao Bằng (Ba Bể và các huyện phía tây
bắc), Lạng Sơn, Quảng Ninh.
Thế giới: Trung Quốc (Quảng Tây).
Giá trị:
Có giá trị về khoa học vì chủng quần của chúng trên thế giới không lớn.
Tình trạng:
Trước đây có thể gặp chúng dễ dàng ở các vùng phụ cận hồ Ba Bể với số lượng đáng kể,
đến nay đã trở nên hiếm. Năm 1989 có 3 con bị săn bắn ở hồ Ba Bể. Nghiên cứu khảo sát
vào tháng 8/1989 chúng tôi quan sát được chúng ngoài thiên nhiên ở hồ Ba Bể. Nhưng
nơi có voọc đen má trắng phân bố, rừng đã bị tàn phá không còn đủ điều kiện sống cho
chúng. Mức độ đe dọa: bậc V.
9. VOỌC BẠC
21
Tên Việt Nam: Vọoc bạc
Tên Latin: Trachypithecus cristatus
Họ:Khỉ Cercopithecidae
Bộ: Linh trưởng Primates
Nhóm: Thú
Kích thước:
Chiều dài đầu - thân: 490 - 570mm. Chiều dài đuôi: 720 - 840mm. Trọng lượng: khoảng
6 - 8kg
Đặc điềm nhận dạng:
Ngoại hình có bộ lông màu sẫm. Chân lông màu trắng, trông giống như tóc bạc của
người. Trên đầu có lông mọc dài thành chóp nhọn, mặt màu đen không có vòng tròn
trắng, xung quanh khóe mắt, tay và chân đen. Voọc bạc lúc mới sinh có lông toàn thân
màu vàng.
Phân bố:
Loài này sống chủ yếu ở phía Đông và miền Tây Thái Lan, miền Nam Lào, Việt Nam,
Campuchia, đảo Xumatơra, đảo Java, đảo Bocnêo.
Đặc điểm sinh thái:
Sống trên cây cao,đôi khi cũng gặp ở rừng sình lầy. Thức ăn là lá non, hoa, quả cây rừng
và sâu bọ. Kiếm ăn ban ngày. Sống theo bầy đàn, khoảng 10 - 15 con.
Tình trạng:
Hiện trạng của voọc bạc ở nước ta chưa xác định được. Chúng đang đứng trước nguy cơ
bị tuyệt chủng. Cần sớm có biện pháp hữu hiệu để bảo vệ loài linh trưởng quí hiếm này.
10.VOỌC HÀ TĨNH
Tên Việt Nam: Vọoc hà tĩnh
Tên Latin: Trachypithecus francoisi hatinhensis
Họ: Khỉ Cercopithecidae
Bộ: Linh trưởng Primates
Nhóm:Thú
22
Mô tả:
Bộ lông mầu đen tuyền. Ngoài thiên nhiên khó phân biệt được với loài voọc đen má
trắng. Chúng có vạch bên má màu trắng bẩn đi từ góc mép tới phía sau tai, nối với vạch
bên gáy trắng tuyền đi từ trên gốc tai.
Sinh học: Chưa có dẫn liệu về loài phụ này.
Nơi sống và sinh thái: Chưa có dẫn liệu.
Phân bố:
Việt Nam: Hà Tĩnh, Quảng Bình (Tuyên Hóa, Lệ Thủy, Bố Trạch).
Thế giới: Không.
Giá trị:
Phân loài đặc hữu của Việt Nam. Theo Đào Văn Tiến, đây là loài phụ cổ nhất của loài
voọc. Vì vậy chúng rất quý cho khoa học.
Tình trạng:
Chưa đủ dẫn liệu về hiện trạng của chúng ngoài thiên nhiên. Mức độ đe dọa: bậc V.
Đề nghị biện pháp bảo vệ:
Khảo sát hiện trạng phân bố, số lượng, tình trạng chủng quần ngoài thiên nhiên. Trước
mắt cấm săn bắn voọc đen ở Hà Tĩnh, Quảng Bình.
11. VOỌC MÔNG TRẮNG
Tên Việt Nam:Vọoc mông trắng
Tên Latin:Trachypithecus francoisi delacouri
Họ:Khỉ Cercopithecidae
Bộ:Linh trưởng Primates
Nhóm:Thú
Mô tả:
Bộ lông mầu đen. Có mào lông trên đỉnh đầu. Vệt lông trắng trên má rộng hơn ở Tr. f.
Francoisi, kéo dài xuống tạn gốc đuôi. Đuôi dài hơn thân, lông đầy màu đen.
Sinh học:
Thường gặp con cái và con non vào khoảng tháng 5 - 7. Ngoài ra chưa có những tài liệu
23
về sinh học của loài này.
Nơi sống và sinh thái:
Thường sống thành đàn 5 - 10 con do con đực già làm đầu đàn. Nơi sống ưa thích là vùng
rừng thứ sinh cây gỗ cao 4 - 5m, mọc trên vách đá có nhang động. Mùa đông ngủ trong
hang đá, mùa hè ngủ trên vách đá cửa hang. Không có sự cạnh tranh về nơi ăn và thức ăn
vì phạm vi phân bố của mỗi đàn rộng. Kẻ thù tự nhiên là thú ăn thịt lớn: hổ, báo, hoa mai,
báo gấm, chồn mác. Trong điều kiện nuôi dưỡng thường bị bệnh đuờng ruột và trướng
bụng.
Phân bố:
Việt Nam: Yên Bái (Văn Chấn), Hòa Bình (Chi Nê), Ninh Bình (Cúc Phương), Thanh
Hóa, Nghệ An (Quỳ Châu, Con Cuông), Hà Tĩnh (Hương Sơn).
Thế giới: Không.
Giá trị:
Phân loài đặc hữu Việt Nam nên có ý nghĩa khoa học lớn. Bộ lông đẹp có giá trị thẩm
mỹ. Nhiều nhà động vật học quan tâm đến chúng.
Tình trạng:
Trước đây có thể gặp chúng dễ dàng ở những vùng kể trên, ngày nay số lượng đã giảm đi
nhiều do săn bắn quá mức, khai thác rừng bừa bãi làm mất nơi sinh sống. Mức độ đe dọa:
bậc E.
Đề nghị biện pháp bảo vệ:
Cấm tuyệt đối săn bắn voọc đen Tây Bắc kết hợp giải thích cho dân địa phương thấy giá
trị của chúng để bảo vệ. Bảo vệ các khu rừng đang còn voọc sinh sống.
12. VOỌC MŨI HẾCH
Tên Việt Nam: Vọoc mũi hếch
Tên Latin: Rhinopithecus avunculus
Họ: Khỉ Cercopithecidae
Bộ: Linh trưởng Primates
Nhóm:Thú
Mô tả:
24
Bộ lông mầu nâu đen. Lông trên đầu và quanh mặt trắng nhạt. Không có mào lông trên
đỉnh đầu. Vùng ngực, bụng, mặt trong chi trước và chi sau có mầu trắng mờ. Mảng lông
trắng này kéo chùm ra phía bên ngoài khuỷu tay. Đuôi dài hơn thân, lông xù. Voọc con
mới đẻ lông mầu vàng nhạt, khi lớn chuyển màu như voọc trưởng thành.
Sinh học:
Voọc mũi hếch có chửa vào tháng 11. Thường găp con cái mang con non trước ngực vào
khoảng tháng 3 đến tháng 6.
Nơi sống và sinh thái:
Nơi sống của voọc mũi hếch có phần đa dạng hơn các loài voọc khác. Thường ở những
vùng cây cao trên núi đất và thung lũng hơn rừng cây núi đá, vùng sườn đồi dưới chân
núi có rừng hỗn giao cây gỗ và tre nứa. Nghỉ ngơi trú ẩn trên cây cao có tán rậm kể cả
trong mùa đông giá lạnh. Đôi khi chúng kéo vít cành lá bên thành tổ làm chỗ nghỉ. Chỗ ở
và nơi ăn của voọc mũi hếch khác với các loài khỉ khác nên không có sự cạnh tranh về
thức ăn. Kẻ thù tự nhiên của chúng là thú ăn thịt lớn: hổ, báo gấm, báo hoa mai, beo,
chồn mác , chim ăn thịt lớn cũng gây cũng gây hại cho con non.
Phân bố:
Việt Nam: Vùng phân bố lịch sử của voọc mũi hếch: Tuyên Quang (Chiêm Hóa, Nà
Hang), Cao Bằng (Ba Bể), Yên Bái (Trấn Yên), Bắc Thái (Chợ Đồn, Nà Rì, Bạch Thông,
Định Hóa, ĐạI Từ), Quảng Ninh (Hoành Hồ).
Thế giới: Không.
Giá trị:
Loài đặc hữu của Việt Nam, được nhiều nhà động vật học quốc tế quan tâm.
Tình trạng:
Vào khoảng năm 60, 70 voọc mũi hếch tập trung số lượng nhiều ở Tuyên Quang, Bắc
Thái. Đến năm 1988, 1989 còn một số đàn ở một vài nơi thuộc huyện Chợ Đồn và có thể
còn ở Bắc Thái (Định Hóa, Bạch Thông).
Do săn bắn quá mức, phá rừng lấy gỗ, làm nương rẫy làm mất nơi sinh sống của voọc đã
dẫn đến tình trạng có thể loài này bị tuyệt chủng. Mức độ đe dọa: bậc E.
Đề nghị biện pháp bảo vệ:
Cấm tuyệt đối săn bắn voọc mũi hếch. Sớm khởi thảo dự án bảo vệ và nuôi nhân giống
voọc mũi hếch với sự giúp đỡ của WWF và LUCN Giáo dục nhân dân về ý nghĩa khoa
học của loài này để tích cực tham gia bảo vệ.
13. CHÀ VÁ CHÂN ĐEN
Pygathrix nigripes Milne - Edwards, 1871
Semnopithecus nigripes Milne - Edwards, 1871
Họ: Khỉ Cercopithecidae
Bộ: Linh trưởng Primates
25