Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

Tột bậc là tự do

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.07 KB, 3 trang )

Tột bậc là tự do, hạnh phúc cho nhân dân
17/06/2009 10:28:12 CH
"A có Bác Hồ đời em được ấm no". -Ảnh tư liệu
Bác viết “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng
không có ý nghĩa gì”. Bác hiểu rất rõ độc lập cũng chỉ là phương tiện để thực hiện tự do,
hạnh phúc cho nhân dân. Tự do, hạnh phúc cho nhân dân mới là mục đích của nhiệm vụ
của Đảng và Nhà nước
Chiến tranh thế giới lần thứ nhất kết thúc năm 1918. Ngày 28 tháng 6 năm 1919, các
nước thắng trận và bại trận đã họp Hội nghị tại Versailles, Pháp, để ký kết các hòa ước
chính thức, cũng như phân chia các quyền lợi cho các nước thắng trận.
Các nước thắng trận bao gồm Anh, Pháp, Nga, Ytalia, Mỹ. Các nước bại trận bao gồm
Đức, Áo - Hungary, và Thổ Nhĩ Kỳ.
Tại Hội nghị Versailles này, bên cạnh các đoàn đại biểu chính thức, còn có đại diện các
dân tộc bị áp bức, đến dự Hội nghị để yêu cầu độc lập và tự do cho dân tộc mình, như đại
diện cho người Aixơlen, người Ấn Độ, người Triều Tiên, người Arập… Khi đó người
thanh niên yêu nước Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động ở Pháp, đã tự tổ chức nhóm người
Việt Nam yêu nước tại Pa-ri, và tại các tỉnh ở Pháp. Ông Nguyễn Ái Quốc đã đến Hội
nghị Versailles với danh nghĩa đại diện cho tổ chức này.
Tại Hội nghị Versailles, ông Nguyễn Ái Quốc đã phát cho các đại biểu dự Hội nghị “Bản
yêu sách của dân tộc Việt Nam gửi đến Hội nghị Versailles”. “Bản yêu sách” này bao
gồm 8 điểm rất ôn hòa, yêu cầu Chính phủ Pháp trao trả một số quyền tự do, dân chủ cơ
bản tối thiểu cho nhân dân Việt Nam.
“Bản yêu sách” nổi tiếng của người thanh niên yêu nước Nguyễn Ái Quốc gửi Hội nghị
Versaillé năm 1919 đó, bao gồm 8 điểm là:
1 - Ân xá toàn thể chính trị phạm Việt Nam.
2 - Cải cách nền pháp lý Đông Dương, cho người Việt Nam cũng được bảo đảm
về mặt pháp lý như người Âu, bỏ hẳn Tòa án đặc biệt, công cụ để khủng bố những người
Việt Nam lương thiện nhất.
3 - Tự do báo chí và tự do tư tưởng.
4 - Tự do lập hội và tự do hội họp.
5 - Tự do cư trú ở nước ngoài và tự do ra nước ngoài.


6 - Tự do học tập và mở các trường kỹ thuật và chuyên nghiệp cho người bản xứ ở
khắp các tỉnh.
7 - Thay thế chế độ sắc lệnh bằng chế độ luật pháp.
8 - Phải có đại biểu thường trực người Việt Nam do người bản xứ bầu ra, ở bên
cạnh Nghị viện Pháp để trình bày nguyện vọng của người bản xứ”.
Sau “Bản yêu sách 8 điểm” gửi Hội nghị Versailles, lần đầu tiên dư luận ở Pháp, và ở
Việt Nam biết đến cái tên Nguyễn Ái Quốc, một thanh niên Việt Nam trẻ tuổi đấu tranh
cho độc lập, tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam.
Và cũng từ đó, mật thám Pháp bắt đầu để ý, theo dõi chặt chẽ mọi hoạt động của ông
Nguyễn Ái Quốc. Bởi vì, với Nhà nước thực dân độc tài, phản dân chủ, thì mọi tiếng nói
đòi tự do, dân chủ cho người dân Việt Nam đều bị coi là nguy hiểm cho Nhà nước thực
dân.
Nhưng tất cả những yêu sách ôn hòa đó của Nhóm người Việt Nam yêu nước của ông
Nguyễn Ái Quốc đều không được Chính phủ Pháp, cũng như các nước trong Hội nghị
Versailles quan tâm, để ý. Từ đó, ông Nguyễn Ái Quốc rút ra kết luận quan trọng rằng
không thể trông cậy vào các nước khác, “muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể
trông cậy vào mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình”.
Bây giờ nhìn lại Bản yêu sách 8 điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Hội nghị Versailles
năm 1919, chúng ta thấy rằng tư tưởng của Bác Hồ về một thể chế tôn trọng những quyền
tự do, dân chủ cho người dân được hình thành từ rất sớm. Khi đó Bác Hồ mới 29 tuổi, và
mới sang Pháp được 8 năm. Trong số các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta, thì Bác Hồ là
người duy nhất sống ở nước ngoài tới 30 năm.
Bác ra đi tìm đường cứu nước năm 1911, tại bến Nhà Rồng, Sài Gòn, và chỉ đến năm
1941 mới trở về nước, để lãnh đạo Đảng, nhân dân đấu tranh giành chính quyền. Bởi vậy
Bác là người hiểu rất rõ những hạn chế, xấu xa của chế độ tư bản, thực dân, nhưng đồng
thời Bác cũng hiểu được rất rõ các giá trị của nền văn minh phương Tây, của chế độ tự
do, dân chủ phương Tây.
Chính bởi vậy, vào năm 1946, khi Bác Hồ chỉ đạo soạn thảo bản Hiến pháp đầu tiên năm
1946 của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, bản Hiến pháp 1946 đó chứa đựng rất nhiều
giá trị tiến bộ của nền dân chủ phương Tây. Bác Hồ đã lãnh đạo Đảng và nhân dân Việt

Nam đánh đuổi thực dân, nhưng những giá trị của nền văn minh phương Tây, thì cần phải
khiêm tốn học hỏi. Đó chính là tính biện chứng trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Điều 10 của Hiến pháp 1946 qui định: “Công dân Việt Nam có quyền: - Tự do ngôn luận.
- Tự do xuất bản. - Tự do tổ chức và hội họp. - Tự do tín ngưỡng. - Tự do cư trú, đi lại
trong nước và ra nước ngoài”. Nội dung của điều 10 này rất giống một phần nội dung 8
điểm mà Bác Hồ đã gửi Hội nghị Versailles cách năm 1946 đó 27 năm.
Hiện nay trong cả nước đang dấy lên phong trào “lao động, học tập gương đạo đức của
Chủ tịch Hồ Chí Minh”. Đây là phong trào rất hay, rất cần thiết, nhưng theo tôi thiển nghĩ
thì chưa đủ. Bởi vì đạo đức Hồ Chí Minh chỉ là một nội dung trong tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Một diểm nhất quán và hết sức quan trọng trong Tư tưởng Hồ Chí Minh là về xây dựng
một Nhà nước công bộc của dân, đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết, “việc gì có lợi cho
dân thì phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân thì phải hết sức tránh”. Trong thư “Gửi
các ủy ban nhân dân các bộ, tỉnh, huyện, và làng” tháng 10 năm 1945, Bác viết “Nếu
nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng không có ý nghĩa
gì”. Như vậy, Bác hiểu rất rõ độc lập cũng chỉ là phương tiện để thực hiện tự do, hạnh
phúc cho nhân dân. Tự do, hạnh phúc cho nhân dân mới là mục đích của nhiệm vụ của
Đảng và Nhà nước.
Chừng nào còn có kẻ đánh bạc cả triệu đôla, nhưng cả triệu người dân còn thiếu thốn
nhiều bề, chừng nào còn có cán bộ hách dịch, xếch mé với dân, không làm tròn trách
nhiệm là công bộc của dân, chừng nào người dân còn chịu oan khuất, phải đi khiếu kiện
kêu cầu công lý, chừng nào bộ máy hành chính còn hành dân, thì chừng đó, tư tưởng Hồ
Chí Minh còn chưa được quán triệt trở thành hành động trong thực tế.
Bây giờ nhìn lại Bản yêu sách 8 điểm của Bác Hồ cách đây gần 100 năm, và bản Hiến
pháp đầu tiên năm 1946, chúng ta thấy rõ tư tưởng của Bác Hồ về xây dựng một thể chế
tôn trọng các quyền cơ bản của nhân dân.
Từ đó chúng ta thấy rõ rằng cần phải từ phong trào lao động, học tập theo gương đạo đức
Hồ Chí Minh hiện nay, nâng cao lên thành phong trào học tập và thực hiện tư tưởng Hồ
Chí Minh về xây dựng một nhà nước công bộc của dân.
Minh Tuấn (Tokyo, Nhật Bản) -Theo Dân trí

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×