Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Bản chất của ngân sách nhà nước pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.44 KB, 11 trang )

Câu 6: Bản chất của ngân sách nhà nước ?phân tích vai trò của ngân sách nhà
nước trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
 Bản chất của ngân sách nhà nước: Trong tiến trình lịch sử, ngân sách nhà
nước với tư cách là một phạm trù kinh tế đã ra đời và tồn tại từ lâu. Đó là một công
cụ Tài chính quan trọng của nhà nước.
Là khâu tài chính tập trung giữ vị trí chủ đạo và cũng là khâu tài chính
được hình thành sớm nhất. Nó ra đời, tồn tại và phát triển gắn liền với sự ra đời
của hệ thống quản lí Nhà nước và sự phát triển của kinh tế hàng hóa ,tiền tệ.
Hay nói một cách khác sự xuất hiện của NSNN chính là dựa trên cơ sở hai
tiền đề khách quan là tiền đề Nhà nước và tiền đề kinh tế hàng hoá- tiền tệ
_Trong lịch sử loài người:
Nhà nước xuất hiện là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp
trong xã hội. Nhà nước ra đời tất yếu kéo theo nhu cầu tập trung nguồn lực tài
chính vào trong tay Nhà nước để làm phương tiện vật chất trang trải cho các chi
phí nuôi sống bộ máy Nhà nước và thực hiện các chức năng kinh tế, xã hội của
Nhà nước.
Bằng quyền lực của mình, Nhà nước tham gia vào quá trình
phân phối tổng sản phẩm xã hội. Bên cạnh đó, bằng chính quyền lực chính trị và
xuất phát từ nhu cầu về tài chính để đảm bảo thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
mình Nhà nước đã đặt ra những khoản thu, chi của Ngân sách Nhà nước.
Các khoản thu chi này được tổng hợp trong một bảng dự toán
thu chi tài chính được thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định. Các khoản
thu mang tính chất bắt buộc của NSNN là một bộ phận các nguồn tài chính chủ
yếu được tạo ra thông qua việc phân phối thu nhập quốc dân được sáng tạo ra
trong khu vực sản xuất kinh doanh và các khoản chi chủ yếu của Ngân sách
mang tính chất cấp phát phục vụ cho đầu tư phát triển và tiêu dùng của xã hội .
Điều này cho thấy chính sự tồn tại của Nhà nước, vai trò của Nhà
nước đối với đời sống kinh tế xã hội là những yếu tố cơ bản quyết định sự tồn tại
và tính chất hoạt động của Ngân sách Nhà nước.
_Trong điều kiện kinh tế hàng hoá- tiền tệ, các hình thức tiền tệ trong phân
phối như: thuế bằng tiền, vay nợ…được Nhà nước sử dụng để tạo lập quỹ tền tệ


riêng có: ngân sách nhà nước.
Như vậy, ngân sách nhà nước là ngân sách của Nhà nước, hay Nhà
nước chính là chủ thể của ngân sách đó.
Cho đến nay, thuật ngữ “Ngân sách nhà nước” được sử dụng rộng rãi trong
đời sống kinh tế xã hội ở mọi quốc gia.Song lại có rất nhiều định nghĩa khác nhau
về ngân sách nhà nước:
 Các nhà kinh tế học hiện đại đã đưa ra nhiều định nghĩa
khác nhau về ngân sách nhà nước:
+Theo quan điểm của các nhà kinh tế Nga thì: ngân sách
nhà nước là bảng thống kê các khoản thu và chi bằng tiền của Nhà nước trong một
giai đoạn nhất định.
+ Một cách hiểu tương tự, người Pháp cho rằng: ngân
sách nhà nước là toàn bộ tài liệu kế toán mô tả và trình bày các khoản thu và kinh
phí của Nhà nước trong một năm.
 Theo quan điểm của những nhà nghiên cứu kinh tế cổ
điển, Ngân sách Nhà nước là một văn kiện tài chính,mô tả các khoản thu và chi
của chính phủ, được thiết lập hàng năm.
 Tại Việt nam, định nghĩa về ngân sách nhà nước được nêu
rõ trong luật ngân sách nhà nước (20/3/1996):
Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu và chi của Nhà nước trong dự
toán đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong
một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.(Điều1-
luật ngân sách nhà nước).

Trong một chừng mực nào đó, các định nghĩa trên có những sự khác biệt nhất
định. Nhưng nhìn chung chúng đều thể hiện bản chất của ngân sách nhà nước là:
_Xét về bản chất kinh tế:
Mọi hoạt động của NSNN đều là hoạt động phân phối các nguồn tài chính
của xã hộigắn liền với việc hình thành và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung là NSNN
Trong thực tiễn, hoạt động NSNN là hoạt động thu (tạo lập) và chi tiêu (sử

dụng) quỹ tiền tệ của Nhà nước, làm cho nguồn tài chính vận động giữa một bên là
các chủ thể kinh tế, xã hội trong quá trình phân phối tổng sản phẩm quốc dân dưới
hình thức giá trị và một bên là Nhà nước(các quan hệ tài chính). Đó chính là bản
chất kinh tế của NSNN
Hệ thống các quan hệ tài chính kinh tế tạo nên bản chất kinh tế của ngân
sách nhà nước, đươc thể hiện ở những hình thức cụ thể chủ thể .các nguồn tài
chính này bao gồm:
 Thứ nhất: Quan hệ kinh tế giữa ngân sách nhà nước với các
doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh: Các quan hệ kinh tế này phát sinh trong
quá trình hình thành nguồn thu của quỹ Ngân sách bằng hình thức thuế của
các doanh nghiệpthuộc mọi thành phần kinh tế
Thứ hai: Quan hệ kinh tế giữa ngân sách nhà nước và các đơn
vị thuộc lĩnh vực chi phí sản xuất vật chất.Các đơn vị không sản xuất
kinh doanh là những đơn vị quản lí nhà nước nằm trong các lĩnh vực
sự nghiệp văn hóa xã hội,hành chính và an ninh quốc phòng.Những đơn
vị này không sản xuất ra của cải vật chất nhưng hoạt động của nó rất cần
thiết cho xã hội. Quan hệ này phát sinh trong qúa trình phân phối lại các khoản
thu nhập bằng việc Ngân sách nhà nước cấp kinh phí cho các đơn vị quản lý nhà
nước theo các dự toán kinh tế Đồng thời, trong cơ chế kinh tế thị trường các đơn
vị có hoạt động sự nghiệp có các khoản thu phí và lệ phí, nguồn thu này một phần
các đơn vị làm nghĩa vụ tài chính đối với ngân sách, một phần trang trải các
khoản chi tiêu của mình để giảm bớt gánh nặng cho ngân sách.

Thứ ba: Quan hệ kinh tế giữa ngân sách nhà nước với hộ gia đình
và dân cư .Mối quan hệ về mặt tài chính giữa nhà nước với hộ gia đình,
dân cư được thể hiên thông qua phân phối lại giữ ngân sách nhà nước với
ngân sách hộ gia đình. Một bộ phận dân cư thực hiện nghĩa vụ tài chính đối
với nhà nước bằng việc nộp các khoản thuế, phí, lệ phí. Một bộ phận dân cư
khác nhận từ ngân sách nhà nước các khoản trợ cấp theo chính sách qui định.
 Thứ tư:Quan hệ kinh tế giữa ngân sách nhà nước với thị trường tài

chính.Nền kinh tế thị trường đòi hỏi không chỉ các doanh nghiệp mà cả nhà nước,
các đơn vị không sản xuất kinh doanh, các hiệp hội tổ chức quần chúng và dân cư
phải tiếp cận với thị trường vốn và thị trường tiền tệ.Xuất phát từ chính sách tài
chính_tiền tệ, từ cung cầu về vốn trên thị trường.Nhà nước cò thể tham gia trên thị
trường tài chính bằng việc phát hành các loại chính khoán của kho bạc nhà
nước( tín phiếu, trái phiếu,chứng từ đầu năm) nhằm huy động vốn của tất các chủ
thể trong xã hội đáp ứng nhu cầu cân đối vốn của ngân sách nhà nước hoặc nhà
nước tham gia góp vốn cổ phần, hung vốn hoặc cho các đơn vị kinh tế vay bằng
hình thức nhha2 nước mua các loại chính khoán của doanh nghiệp.
_Về tính chất xã hội:
Ngân sách nhà nước luôn luôn là một công cụ kinh tế của nhà nước nhằm thực
hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước thông qua việc , chuyển dịch một bộ
phận thu nhập bằng tiền của các chủ thể đó thành thu nhập của Nhà nước và Nhà
nước chuyển dịch thu nhập đó đến các chủ thể được thực hiện .
_Xét về phương diện pháp lý:
Ngân sách nhà nước là một đạo luật dự trù các khoản thu chi bằng tiền của
nhà nước trong một thời gian nhất định,thường là một ỳ được các cơ quan lập
pháp của quốc gia ban hành.
Vai trò của ngân sách nhà nước trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế:
Vai trò của ngân sách nhà nước ở mọi thời đại và trong mọi mô hình kinh
tế là công cụ điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế-xã hội và đó được xem là vai trò quan
trọng bậc nhất của Ngân sách nhà nước.Vai trò này, về mặt chi tiết chúng ta có thể
đề cập đến ở những nội dung và những biểu hiện đa dạng khác nhau, song trên góc
độ tổng quát vai trò của ngân sách nhà nước qua 3 khía cạnh sau:
Thứ nhất, Ngân sách Nhà nước là công cụ điều tiết thị trường, bình
ổn giá cả và chống lạm phát:
Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung :
Sự đơn điệu về chế độ sở hữu, hạn chế trong 2 hình thức sở
hữu( quốc doanh và tập thể ) đã dẫn đến sự phát triển yếu ớt của các quan hệ thị
trường.

Không những thế, cơ chế kinh tế chỉ huy với việc nhà nước
quyết định giá cả của các hàng hóa dịch vụ…cũng đã làm cho các quan hệ thị
trường kém phát triển.
Trong cơ chế đó, sự vận động của giá cả, chi phí tách khỏi
quan hệ cung_cầu của thị trường, sự biến động của chúng được che giấu bởi sự bao
cấp của Ngân sách nhà nước.
Trong điều kiện đó, vai trò của ngân sách nước đối với kinh
tế -xã hội ngày càng trở nên lưu mờ và tẻ nhạt.
_ Trong nền kinh tế thị trường:
Đặc điểm nổi bật của nền kinh tế thị trường chính là sự cạnh
tranh giữa các doanh nghiệp nhằm đạt lợi nhuận tối đa, các yếu tố cơ bản của thị
trường là cung cầu và giá cả thường xuyên tác động lẫn nhau và chi phối hoạt
động của thị trường .
Sự mất cân đối giữa cung và cầu sẽ làm cho giá cả tăng lên
hoặc giảm đột biến và gây ra biến động trên thị trường, dẫn đến sự dịch chuyển
vốn của các doanh nghiệp từ ngành này sang ngành khác, từ địa phương này
sang địa phương khác. Việc dịch chuyển vốn hàng loạt sẽ tác động tiêu cực đến
cơ cấu kinh tế, nền kinh tế phát triển không cân đối.

 !"#$%&'"
(%)*+,'"(%)-.
/-01234./-02
5+6)78"90:';
Trong trường hợp thị trường có nhiều biến động, giá cả lên quá cao hoặc
xuống quá thấp, nhờ lực lượng dự trữ hàng hóa và dự trữ tiền tệ nhà nước có thể
điều hòa quan hệ cung_cầu hàng hóa vật tư để bình ổn giá trên thị trường, bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng và ổn định sản xuất. . .Chẳng hạn, khi Chính phủ muốn
bảo hộ cho những người có thu nhập thấp, Chính phủ sẽ đặt giá trần là mức giá
cao nhất mà người bán được phép đưa ra và mức này thường là thấp hơn mức giá
cân bằng trên thị trường, khi đó tất yếu sẽ dẫn đến sự thiếu hụt trên thị trường. để

duy trì hiệu lực của giá trần thì Chính phủ lại tiếp tục can thiệp bằng cách cung
phần thiếu của hàng hoá, lượng hàng hoá này được lấy từ quỹ dự trữ của Nhà
nước thuộc ngân sách nhà nước, tức là trong khoản chi ngân sách phải có khoản
dự phòng này. Trái lại khi Chính phủ muốn bảo hộ cho người sản xuất, muốn hàng
hoà của một ngành nào đó được khuyến khích thì sẽ đặt giá sàn là mức giá thầp
nhất mà người bán được phép đưa ra và mức này thường lớn hơn giá cân bằng
trên thị trường. Điều này sẽ dẫn đến sự dư thừa hàng hoá trên thị trường và khi đó
là sự can thiệp của Chính phủ bằng cách mua hết lượng hàng thừa. Khoản tiền sử
dụng để thanh toán cho người bán cũng là từ ngân sách nhà nước.
Đồng thời , trong quá trình điều tiết thị trường ngân sách nhà nước còn
tác động đến thị trường tiền tệ và thị trường vốn thông qua việc sử dụng các công
cụ tài chính như: phát hành trái phiếu chính phủ, thu hút viện trợ nước ngoài,
tham gia mua bán chứng khoán trên thị trường vốn… qua đó góp phần kiểm soát
lạm phát.
Nhà nước cũng có thể sử dụng ngân sách nhà nước nhằm khống chế và
đẩy lùi nạn lạm phát một cách có biệu quả thông qua việc thực hiện các chính sách
thắt chặt ngân sách, nghĩa là cắt giảm các khoản chi tiêu ngân sách, chống tình
trạng bao cấp,lãng phí trong chi tiêu, đồng thời có thể tăng thuế tiêu dùng để hạn
chế cầu, mặt khác có thể giảm thuế với đầu tư, kích thích sản xuất phát triển để
tăng cung.bên cạnh việc sử dụng tính dụng nhà nước để bù đắp thiếu hụt của ngân
sách cũng góp phần vào việc làm giảm tốc độ của lạm phát trong nền kinh tế.
Thứ hai, Ngân sách nhà nước góp phần kích thích tăng trưởng kinh tế:
Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, cùng với việc nhà nước can thiệp
trực tiếp vào hoạt động sản xuất kinh doanh, vai rò của ngân sách nhà nước trong
việc điều chỉnh các hoạt động trở nên hết sức thụ động. ngân sách nhà nước dừng
như chỉ là một cái túi đựng số thu để rồi thực hiện việc bao cấp tràn lan cho các
hoạt động sản xuất kinh doanh thông qua cấp vốn cố định, vốn lưu động, cấp bù lỗ,
bù giá, bù lương….Trong điều kiện đó, hiệu quả của các khoản thu chi ngân sách
nhà nước không được coi trọng và dĩ nhiên tác động của ngân sách nhà nước đến
các hoạt động kinh tế nhằm điều chỉnh các hoạt động đó và thúc đẩy sự tăng

trưởng kinh tế là hết sức mờ nhạt.
Chuyển sang cơ chế thị trường.nhà nước định hướng việc hình thành cơ
cấu kinh tế mới, kích thích phát triển sản xuất kinh doanh và chống độc quyền.điều
đó được thực hiện thông qua các chính sách thuế và chính sách chi tiêu của ngân
sách nhà nước nhằm vừa kích thích và vừa gây sức ép với các doanh nghiệp,nhằm
kích thích sự tăng trưởng kinh tế.
Thứ ba, ngân sách nhà nước góp phần giải quyết các vấn đề xã hội:
Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, tính chất bao cấp tràn lan cho
mọi lĩnh vực kinh tế_xã hội đã hạn chế đáng kể vai trò của ngân sách nhà nước
trong việc giải quyết các vấn đề xã hội.Trong thời kì này, mọi sự ưu tiên, ưu đãi
của nhà nước đầu được dành cho khu vực cấp về nhà ở, cung cấp lương thực nhà
nước.Những chế độ bao,thực phẩm, hàng tiêu dùng với giá thấp…đã gây ra tâm lí
tìm chỗ đứng trong biên chế nhà nước, tâm lí trông chờ, ỷ lại váo nhà nước.Điều
đó một mặt làm giảm hiệu quả công tác, hiệu quả tiền vốn, mặt khác vừa tác động
ngược chiều với việc đảm bảo công bằng xã hội.Bên cạnh đó việc bao cấp tràn lan
cho các hoạt động có tính chất xã hội song lại thiếu tính toán hợp lí về phạm
vi,mức độ và hiệu quả, dẫn đến việc hạn chế trong việc thực hiện các mục tiêu về
mặt xã hội.
Trong việc giải quyết các vấn đề xã hội,sự tồn tại và hoạt động có
hiệu quả của bộ máy nhà nước, lực lượng quân đội công an, sự phát triển của các
hoat động xã hội,y tế văn hóa có ý nghĩa quyết định.Việc thực hiện nhiệm vụ này
về cơ bản thuộc về nhà nước và không vì mục tiêu lợi nhuận.Việc sử dụng nhựng
dịch vụ kể trên được phân chia giữa những người tiêu dùng, nhưng nguồn tài trợ để
thực hiện các nhiệm vụ đó lại được cấp phát từ ngân sách nhà nước.Như vậy,trong
việc thực hiện các nhiệm vụ có tính chung toàn xã hội, ngân sách nhà nước có vai
trò quan trọng hàng đầu. Bên cạnh đó, cùng với việc thực hiện các nhiệm vụ có
tính chất xã hội, hằng năm chính phủ vẫn có sự chhu1 ý đặc biệt ccho những người
có thu nhập thấp nhất. Chúng ta có thể nhận thấy điều đó thông qua các loại trợ
giúp trực tiếp được dành cho những người có thu nhập thấp hoặc có hoàn cảnh đặc
biệt như chi về trợ cấp xã hội; các loại trợ cấp giúp gián tiếp dưới ính thức trợ giá

cho các mặt hang thiết yếu (vd: lương thực thực phẩm, điện , nước…), các khoản
chi phí để thực hiện chính sách dân số, chính sách vệc làm, các chương trình quốc
gia lớn về chống mù chữ, chống bệnh dịch, các chi phí cho việc cung cấp các hang
hóa công cộng….Tuy mọi tầng lớp dân cư đều được hưởng các dịch vụ này, nhưng
hiện nay ở nước ta, tỉ lệ hộ nghèo còn chiếm phần lớn trong dân cư nên phần được
hưởng của người nghèo cũng lớn hơn.
Bên cạnh các khoản chi ngân sách cho các vấn đề xã hội, thuế cũng
được sử dụng để thực hiện vai tró tái phấn phối thu nhập, đảm bảo công bằng xã
hội.Việc kết hợp giữa thuế trực thu và thuế gián thu, một mặt vừa tăng cường các
khoản thu cho ngân sách nhà nước,vừa nhằm điều tiết tầng lớp có thu nhập cao,
điều tiết tiêu dùng, bảo đảm thu nhập ợp lí của các tầng lớp người lao động.
Mặc dù việc sử dụng ngân sách nhà nước làm công cụ điều chỉnh các
vấn đề xã hội đã đạt được những kết quả quan trọng nhưng đây là một việc không
đơn giản.Trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay,với một bên là những đòi hỏi rất
lớn của các vấn đề xã hội cần giải quyết, một bên là nguồn thu ngân sách còn hạn
hẹp việc quàn triệt phương châm”nhà nước và nhân dân cùng làm” trong việc
chăm lo và giải quyết các vấn đề xã hội là cần thiết.Và đồng thời cũng cần quán
triệt tin thần “tiết kiệm, hiệu quả, đúng đối tượng” trong chi tiêu ngân sách nhà
nước cho các vấn đề xã hội

Các vai trò trên của Ngân sách nhà nước cho thấy tính chất quan
trọng của Ngân sách nhà nước, với các công cụ của nó có thể quản lý toàn diện và
có hiệu quả đối với toàn bộ nền kinh tế . Và vấn đề đặt ra ở đây là việc tổ chức quy
mô, cơ cấu và quản lý ngân sách nhà nước như thếg nào để phát huy được vai trò
của nó.
Câu 4: Tín dụng là gì? Làm rõ sự vận động của các hình thức tín dụng hiện nay
đối với việc ổn định và phát triển các nguồn lực tài chính tại mỗi chủ thể:
Tín dụng là gì?
Tín dụng (cretdit) có nguồn gốc từ tiếng La Tinh_Cretditum_ tức là sự tin
tưởng tín nhiệm hay nói khác đi là sử dụng sự tin tưởng hoặc tín nhiệm đó hoặc

vay mượn sự tin tương hoặc tín nhiệm để thực hiện các quan hệ vay mượn một
lượng giá trị vật chất hoặc tiền tệ trong một thời gian.
Vì sao tín dụng lại bắt nguồn từ sự tin tưởng hoặc tín nhiệm? Câu trả lời
này chỉ có thể được tìm thấy ở chính ngay sự vận động của tín dụng.
Tín dụng bao giờ và lúc nào cũng biểu hiện ra bên ngoài như là sự vận
động đơn phương của giá trị thuộc hai quá trình ngược chiều nhau, trong một kỳ
hạn cụ thể nào đó.
Đã là sự vận động đơn phương của giá trị mặc nhiên đòi hỏi phải bắt nguồn
từ sự tin tưởng hoặc tín nhiệm lẫn nhau, và nếu chưa có đủ cơ sở để có được niềm tin
đó, đòi hỏi phải kèm theo những điều kiện bắt buộc để có thể duy trì niềm tin đó.
Niềm tin mà người cho vay đặt ở chính mình và ở người vay đó là sự
hoàn trả đúng hạn của giá trị tín dụng (cả vốn lẫn lãi).
Niềm tin đó có thể thực hiện trọn vẹn, chỉ khi nào quá trình vận động
ngược chiều của một giá trị tiền tệ từ người ccho vay trở lại người cho vay, tức là
thật sự quay về điểm xuất phát ban đầu của nó.Trong trường hợp đó, người cho
vay thu hồi cả vốn lẫn lãi_ và gọi đó là khoán cho vay không có rủi ro về hoàn
trả.
Ngược lại niềm tin đó có thể đươc coi là không thực hiện được hoặc là
thực hiện không trọn vẹn khi khoản vay không được hoàn trả hoặc hoàn trả sai
hẹn.Trong trường hợp này gọi là khoản vay có rủi ro.

Từ những gì đã đề cập ở trên, ta có thể rút ra khái niềm về tín dụng như sau:
Tín dụng là sự vận động đơn phương của giá trị từ người cho vay sang
người đi vay và sẽ quay về người cho vay cả vốn và lãi trong một kỳ hạn xác định
nào đó.
Cần lưu ý khái niệm trên phản ánh các đặc điểm sau đây:
Khoản cho vay sẽ quay về với người cho vay (trong trường hợp tín
dụng 2 cực: người cho vay và người đi vay).
Khoản cho vay sẽ được trả cho một người thụ hưởng nào đó mà được
người cho vay chỉ định (trong trường hợp tín dung 3 cực: người cho vay,người đi

vay và người hoàn trả) .
 Giá trị cho vay có thể dưới hình thức tiền tệ(như tín dụng ngân hàng)
hoặc dưới hính thái vật chất(như tín dụng thương mại)
 Tín dụng không chỉ là tín dụng tiền tệ hoặc vật chất mà còn là sự vay
mượn uy tín của người khác dưới hính thức bảo lãnh được gọi là tín dụng bằng chữ
kí.
sự vận động của các hình thức tín dụng hiện nay đối với việc ổn định và
phát triển các nguồn lực tài chính tại mỗi chủ thể:
Tín dụng thương mại
Tín dụng thương mại (TDTM) là quan hệ tín dụng giữa các công ty,xí nghiệp,
các tổ chức kinh tế với nhau, được thực hiện dưới hính thức mua bán chịu hàng
hóa cho nhau.
TDTM ra đời dựa trên nền tản khách quan đó là quá trình luân chuyển vốn và
chu kỳ sản xuất kinh doanh của các xí nghiệp, tổ chức kinh tế không có sự phù hợp
và ăn khớp lẫn nhau không những giữa các tổ chức kinh tế khác nghành( công
nghiệp, thương mại xây dựng mà còn giữa các tổ chức kinh tế trong cúng một
nghành.sự không ăn khớp này dẫn đến trong cùng một thời điểm, một số doing
nghiệp đã sản xuất ra một lượng hang hóa đang cần bán, nhưng chưa cần phải thu
tiền ngay, trong khi một số doanh nghiệp khác lại cần mua những sản phẩm hàng
hóa ấy để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh nhưng lại chưa có tiền
Hiện tượng này có thể đươc giải quyết nếu các doanh nghiệp tiến hành mua
bán chịu hang hóa cho nhau.đó chính là tín dụng thương mại.
Đối với người bán, tín dụng thương mại giúp họ đẩy nhanh quá trình tiêu thụ
hàng hóa, chiềm lĩnh thị trường, giúp giảm bớt các chi phí lưu kho, bảo quản….
Đối với người mua tín dụng thương mại giúp họ có được hàng để sản xuất
kinh doanh, đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành một cách
liên tục.

×