Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.86 KB, 6 trang )
Giá trị sổ sách, giá trị thị trường
và tỷ số M/B
Giả sử một doanh nghiệp mới thành lập phát hành 1 triệu
cổ phiếu lần đầu để huy động 10 tỷ đồng thực hiện một dự
án đem lại suất sinh lợi 20% một năm mãi mãi, đây cũng
là suất sinh lợi yêu cầu (lãi suất) đối với hoạt động kinh
doanh mới và rủi ro này. Giá một cổ phiếu lúc này sẽ là 10
nghìn đồng và bằng đúng mệnh giá của nó. Doanh nghiệp
nhận được 10 tỷ đồng ghi vào mục vốn chủ sở hữu trong
bảng cân đối kế toán của mình. Con số này được gọi là
giá trị số sách ban đầu của cổ phiếu hay vốn chủ sở hữu.
Thêm vào đó, sau một số năm hoạt động có lợi nhuận,
doanh nghiệp không chia hết cho các cổ đông mà giữ lại
một phần (giả sử là 10 tỷ) thì lúc này giá trị sổ sách của
vốn chủ sở hữu sẽ là 20 tỷ đồng. Như vậy giá trị sổ sách
của vốn chủ sở hữu hay cổ phiếu chính là số tiền thu
được từ việc bán cổ phiếu cộng với các khoản thặng dư
cũng như lợi nhuận giữ lại của doanh nghiệp. Đây chính
là số tiền thực tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp nói
riêng, giá trị gia tăng cho nền kinh tế nói chung.
Sau khi hoàn tất dự án nêu trên, người ta mới biết rằng, tỷ
suất lợi nhuận sau thuế bình quân của doanh nghiệp đạt
được lên đến 40% một năm mãi mãi chứ không phải chỉ
20% như ước tính ban đầu. Lúc này, giá cổ phiếu sẽ tăng
lên 20 nghìn đồng, giá trị vốn hóa thị trường (số cổ phiếu
nhân với giá thị trường của cổ phiếu) sẽ là 20 tỷ đồng, và
tỷ số M/B giữa giá thị trường (Market value) và giá trị sổ
sách (Book value) của cổ phiếu sẽ là 2 thay vì 1 như ban
đầu. Sau một thời gian, hoạt động ổn định, rủi ro của