Thuốc từ mật động vật
Mật lợn không phải là thứ bỏ đi; dùng kết
hợp với nghệ vàng hoặc gừng tươi có thể
chữa chốc đầu, nhọt độc. Còn mật gà giúp
chữa ho lâu ngày; mật trăn chữa lòi dom,
viêm lợi.
Mật động vật được dùng làm thuốc trong cả y học hiện đại và y học
cổ truyền. Y học hiện đại chỉ dùng mật bò, mật lợn. Còn y học cổ
truyền lại dùng mật của nhiều loài như rắn, gấu, kỳ đà… Thành
phần hóa học chung của mật là acid cholic, acid dehydro-cholic,
cholesterol, muối mật, sắc tố mật bilirubin. Tác dụng chủ yếu của
mật là giảm đau, làm se, kích thích tiêu hóa, lợi tiểu (dùng uống) và
tiêu xưng, diệt khuẩn, hàn vết thương (bôi ngoài).
Mật lợn
Ít dùng tươi vì rất đắng, khó uống lại không để được lâu. Mật lợn
thường được chế biến như sau: Cắt túi mật, hứng nước mật vào
một bát to đã khử khuẩn. Đun cách thủy, khuấy đều cho đến khi
nghiêng bát mà mật không chảy là được dạng cao lỏng. Hoặc nhỏ
từ từ dung dịch no phèn chua vào nước mật đến khi hết kết tủa. Lọc
để lấy tủa. Rửa tủa bằng nước cất, để loại phèn thừa. Đựng tủa
trong một đĩa men, cho vào tủ sấy ở nhiệt độ dưới 70 độ C đến khi
khô. Tán thành bột, sẽ được cao khô.
Mật lợn chữa đau bụng, đau dạ dày, ho, ho gà, hen, viêm đại tràng,
vàng da, sỏi mật. Dùng cao mật đặc với liều 0,5-2 g một ngày.
Sirô mật lợn chữa ho gà: Lấy cao mật khô tán mịn, trộn với sirô, tỷ
lệ 1 ml sirô chứa 2 mg cao. Ngày uống 3 lần, mỗi lần nửa thìa cà-
phê cho trẻ dưới 1 tuổi; 1-2 tuổi uống 1 thìa; 3 tuổi dùng 1 thìa rưỡi;
hơn 3 tuổi dùng 2 thìa.
Viên mật lợn trị táo bón: Bột cao mật lợn khô trộn với tá dược làm
thành viên 0,1 g. Người lớn mỗi ngày uống 6-12 viên, chia làm 2 lần
Mật rắn được dùng
làm thuốc
uống vào sáng sớm và buổi tối trước khi đi ngủ. Nếu táo bón nhiều,
có thể dùng ngày đầu 20 viên rồi giảm dần. Xí nghiệp Dược phẩm 1
đã bào chế viên Lô đảm gồm cao mật lợn, lô hội, phenolphtalein để
chữa táo bón, suy gan, nhiễm khuẩn đường ruột. Ngày uống hai
lần, mỗi lần 2-4 viên sau bữa ăn.
Viện y học cổ truyền dùng cao mật lợn chữa hen suyễn. Mật lợn
uống với hạt vừng đen làm tăng tác dụng nhuận tràng.
Dùng ngoài, nước mật lợn để nguyên hoặc cô đặc phối hợp với
hoàng bá, bôi chữa bỏng; kết hợp với nghệ vàng hoặc gừng tươi,
bôi chữa chốc đầu, nhọt độc; với cao đặc hành tươi, củ tỏi, lá trầu
không và lá ớt chữa vết thương phần mềm, bỏng. Mật lợn phối hợp
với củ sả, hạt muồng trị rắn cắn; với ít giấm đem thụt vào hậu môn
làm thông đại tiện.
Mật gấu
Là vị thuốc quý đứng đầu trong các loại mật động vật, được biết
đến cách đây khoảng hơn 1.000 năm ở phương Đông. Tuệ Tĩnh đã
dùng mật gấu bôi để chữa trĩ lâu ngày.
Theo kinh nghiệm dân gian, mật gấu chữa viêm tấy, đau nhức, tụ
máu bầm tím do ngã hay chấn thương, hoàng đản, mụn nhọt, lở
loét. Mỗi lần 0,5 g mật gấu khô hòa vào nước ấm uống, ngày 3-4
lần. Hoặc dùng 0,5-1 g hòa vào nước ấm để uống, ngày 3-4 lần. Có
thể dùng 0,5-1 g hòa vào 10 ml rượu 45 độ để xoa bóp (người ta
cho rằng chất acid ursodesoxy cholic chỉ có trong mật gấu đã làm
giảm sưng đau nhanh và mạnh hơn).
Để chữa mắt đau sưng đỏ, mắt có màng mộng, lấy 1-2 g mật gấu
khô mài với nước đun sôi để nguội, lọc, dùng nhỏ mắt hằng ngày, tỷ
lệ khỏi 76%. Dung dịch nước cất chứa 2-3% mật gấu dùng nhỏ mắt
còn làm tan máu nhanh trong 2-3 ngày đối với trường hợp xuất
huyết dưới kết mạc do chấn thương hoặc do biến chứng của bệnh
sởi, cúm, ho gà. Mật gấu không gây tác dụng phụ.
Gần đây, mật gấu đã được ứng dụng điều trị bệnh xơ gan có kết
quả tốt ở Anh, Pháp, Đức với biệt dược Urso của hãng Axcan
Pharma (Mỹ). Một số trường hợp ung thư cũng đã được điều trị
bằng uống mật gấu, kết hợp với các phương pháp trị liệu khác như
hóa trị liệu, chiếu xạ, phẫu thuật.
Mật rắn
Dược liệu có vị ngọt, cay chứ không đắng như mật của các động
vật khác, tác dụng chữa ho, đau bụng, đau lưng, nhức đầu kinh
niên. Ngày dùng 1-2 cái còn nguyên túi vừa lấy khỏi mình rắn, nuốt
chửng hoặc pha với ít rượu mà uống. Biệt dược “Tam xà đởm trần
bì” (một loại thuốc cổ điển của Y học phương Đông) gồm mật của 3
loại rắn hổ mang, cạp nong hoặc cạp nia và rắn ráo, phối hợp với
trần bì và nhiều vị thuốc khác dùng chữa ho, đau bụng, tiêu chảy rất
hiệu nghiệm.
Để chữa viêm đa khớp với triệu chứng đau nhức xương, đỏ ở các
khớp xương, đau nhiều về mùa rét, khi đau có sốt nhẹ, có người
dùng mật của 3 loại rắn trên ngâm với rượu 20 độ vừa đủ 25 ml,
uống trong một ngày chia làm 3 lần. Rượu ngâm mật rắn còn chữa
được bệnh hen suyễn mạn tính. Mật rắn biển có vị hơi ngọt, đắng,
lại là thuốc chống viêm, an thần, gây ngủ.
Mật gà
Có tác dụng giảm ho, long đờm, tiêu độc.
Chữa hen sữa ở trẻ nhỏ: Mật gà 10 cái, nghệ già 1 củ to bằng quả
trứng gà, phèn chua 1 miếng bằng 3 hạt ngô. Nghệ gọt vỏ, thái
mỏng, phơi khô, sao giòn, giã nhỏ, rây bột mịn; phèn chua rang
khô, tán bột. Nước mật gà trộn đều với hai bột trên, rồi luyện với
nước cháo làm viên bằng hạt ngô. Ngày uống 10 viên trước khi đi
ngủ.
Chữa ho lâu ngày: Mật gà đen 1 cái, hạt chanh 10 g, hạt quất 10 g,
lá thạch xương bồ 10 g. Tất cả để tươi, giã nát, thêm đường, hấp
cơm, uống làm 2-3 lần trong ngày.
Chữa ho gà, ho khan, ho có đờm kèm sốt: Mật gà 10 cái, hạt chanh
20 g, hạt mướp đắng 20 g, đường cát 25 g. Hạt chanh và hạt mướp
đắng đem sao khô, tán nhỏ, rây bột mịn, trộn với nước mật gà, phơi
khô, tán lại cho thật mịn. Đường đun cho chảy, luyện với bột trên
làm viên bằng hạt đỗ xanh, sấy khô. Trẻ em từ 1 đến 5 tuổi mỗi lần
uống 2-4 g; 6-10 tuổi uống 5-8 g. Ngày uống hai lần với nước ấm.
Mật kỳ đà
Có tác dụng chữa hen suyễn, động kinh. Một túi mật kỳ đà chia làm
5-7 liều, mỗi ngày uống một liều, dùng trong thời gian dài. Trong
trường hợp trẻ bị sài giật, cho uống mật kỳ đà 7 g kết hợp với uống
nước ép lá găng trắng và lá tiết dê, dùng bã đắp vào trán. Mật kỳ đà
phối hợp với hạt chanh và hạt cau khô, giã nhỏ, hòa với rượu, uống
chữa tắc kinh.
Để chữa rắn cắn, lấy mật kỳ đà 7 g, mật ong nửa thìa canh, dịch
chanh 3 ml, nước đun sôi để nguội một thìa canh. Tất cả trộn đều,
uống làm một lần.
Mật trăn
Vị đắng, ngọt, tính hàn, hơi độc, dùng riêng mài uống chữa sài giật
trẻ em hoặc trộn với dầu vừng bôi chữa lòi dom.
Mật trăn 12 g, hạnh nhân 20 g, bỏ vỏ và cắt hai đầu, phèn phi 4 g.
Hai dược liệu tán nhỏ mịn, trộn đều với mật trăn, bôi hàng ngày
chữa viêm lợi sưng đau, lở loét có mu.
Mật cá
Mật cá chép 1 cái phối hợp với gan gà trống 1 cái nghiền nát, ngâm
với 500 ml rượu trắng trong 5-7 ngày, càng lâu càng tốt, thỉnh
thoảng lắc đều. Ngày uống hai lần, mỗi lần 30 ml, chữa liệt dương.
Cũng với công dụng trên, có thể lấy mật cá chép 1 cái, trứng chim
sẻ 1 quả, mật gà trống 1 cái, trộn đều, uống làm một lần trong ngày.
Mật cá chép và đất lòng bếp lượng bằng nhau trộn đều, tán nhỏ
nhuyễn, bôi vào cổ chữa trẻ em bị tắc họng, không nuốt được.
Mật cá giếc 1 cái đốt thành than, tán nhỏ, trộn với dầu vừng, bôi
chữa sa dạ con. Mật cá mè rút lấy nước nhỏ tai trị viêm tai có mủ.
Ngày làm một lần, độ 2-3 lần là khỏi. Mật cá quả tẩm bông sạch, bôi
nhiều lần trong ngày, chữa viêm họng thể nguy cấp.
Chú ý: Không dùng mật cá trắm để chữa bệnh vì liều chữa bệnh rất
gần với liều gây độc của cá.
(Theo Sức Khỏe & Đời Sống)