Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Thuốc trừ sâu sinh học pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.66 KB, 16 trang )

Thuốc trừ sâu sinh học:
Dùng trùng diệt sâu bệnh
[09 - Aug - 2007
::: khucthuydu]


Do các loại hoá chất bảo
vệ thực vật truyền thống
gây ô nhiễm môi trường và
ảnh hưởng tới sức khoẻ
con người nên nhiều nước
trên thế giới, trong đó có
Việt Nam, đang chuyển
dần sang sử dụng các biện
pháp phòng trừ sinh học.
Một trong các phương
pháp đó là tuyến trùng ký
sinh gây bệnh côn trùng.

Những chế phẩm như thế
này nếu được bảo quản ở
10-15 độ C thì sẽ để được 6
tháng, và 1-2 tháng nếu ở
nhiệt độ phòng
Có thể nói Viện Sinh thái và
Tài nguyên sinh vật là đơn
vị đầu tiên ở Việt Nam
nghiên cứu, phân lập tuyến
trùng hữu ích và sử dụng
những sinh vật nàyđể diệt
trừ sâu hại trong nông


nghiệp. Trong những năm
qua, sau khi thử nghiệm tại
một số địa phương cho kết
quả tốt, Viện đã bắt đầu
chuyển gia công nghệ sản
xuất cho một số đơn vị. Để
tìm hiểu kỹ hơn về loại
thuốc trừ sâu sinh học này,
phóng viên VietNamNetđã
có cuộc trao đổi với TS
Nguyễn Ngọc Châu, trưởng
phòng tuyến trùng.
Được biết các chuyên gia tại
Viện bắt đầu nghiên cứu
tuyến trùng từ năm 1997,
vậy cho tới nay đã phân lập
được bao nhiêu loài tuyến
trùng ở Việt Nam?
Tuyến trùng - nematodes -
là một nhóm động vật không
xương sống, đa bào, có kích
thước hiển vi (mắt thường
không thể nhìn thấy). Tuyến
trùng rất đa dạng về thành
phần loài, hệ sinh thái cũng
như số lượng cá thể. Cứ
10 động vật đa bào thì có tới
8-9 là tuyến trùng.
Về hệ sinh thái, chiếm ưu
thế là nhóm tuyến trùng

sống tự do trong đất, nước,
đại dương. Chính vì vậy mà
người ta dựa vào số lượng
tuyến trùng để đánh giá chất
lượng môi trường đất và
nước.
Ngoài ra, còn có tuyến trùng
ký sinh ở động vật và thực
vật. Trong số hàng nghìn
loài ký sinh ở côn trùng thì
chỉ có một số loài thuộc 2
giống tuyến trùng
Steinernema và
Heterorhabditis được coi là
Entomopathogenic
nematodes (EPN), có khả
năng vừa ký sinh vừa gây
bệnh cho côn trùng.
-Trong số hàng nghìn loài
tuyến trùng ký sinh ở côn
trùng thì chỉ có nhóm
Entomopathogenic
nematodes (EPN) có khả
năng vừa ký sinh vừa gây
bệnh cho côn trùng (do
vậy được gọi là tuyến trình
ký sinh gây bệnh côn trùng).
Bình thường thì EPN sống
tự do trong đất và mang
theo vi khuẩn cộng sinh.

Khi tìm được vật chủ (sâu
hại), tuyến trùng sẽ thâm
nhập vào xoang máu qua
các lỗ mở tự nhiên hoặc trực
tiếp qua lớp vỏ và giải
phóng vi khuẩn. Vi khuẩn
sinh sôi, tiết protein độc,
giết chết vật chủ trong vòng
24 - 48 giờ. Do vậy, những
tuyến trùng này được sử
dụng làm tác nhân sinh
học để sản xuất thuốc sinh
học tuyến trùng.
Cho tới nay, chúng tôi đã
phân lập được 58 chủng
tuyến trùng, trong đó
đã định loại được 16 loài, tất
cả đều có tác dụng phòng
trừ sinh học và không độc
hại đối với con người.
Trong 16 loài này thì đã
công bố 6 loài mới đối với
khoa học thế giới. 9 loài còn
lại về mặt cơ sở phân tử
cùng là những loài mới và
sắp công bố. Ở Việt Nam,
do dùng thuốc hoá học
nhiều nên hệ sinh thái nông
nghiệp bị suy giảm, mất cân
bằng, giết chết các sinh vật

hữu ích. Do vậy, không thể
tìm thấy tuyến trùng hữu ích
trong đất nông nghiệp và
thậm chí là rừng tái sinh.
Những tuyến trùng
trên được tìm thấy trong
rừng già, các khu bảo tồn
vàđỉnh núi cao.
Ở nhiều nước, tuyến trùng
ký sinh gây bệnh côn
trùng đã được ứng dụng
rộng rãi trong phòng trừ
sinh học sâu hại, còn tình
hình ở Việt Nam?
-Các nước phát triển như
Mỹ, Australia và châu
Âu đã có hàng chục công ty
sản xuất tuyến trùng hữu ích
và đã thương mại hoá chế
phẩm sinh học. TạiĐông
Nam Á, Malaysia và Thái
Lan cũng đang nghiên cứu
theo hướng này, trongđó
Thái Lan đã thương mại hoá
một số chế phẩm. Đặc biệt
là Trung Quốc đã thương
mại hoá các chế phẩm sinh
học tuyến trùng diệt sâu đục
thân hại táo, lê, đào. Hiện
Trung Quốc có các nhà máy

sản xuất lớn ở Quảng Đông,
Bắc Kinh
Tại Việt Nam, kể từ năm
1999, chúng tôi đã bắt đầu
sản xuất chế phẩm sinh học
tuyến trùng. Cho tới nay, đã
sản xuất được 7 chế phẩm
trong đó 1 chế phẩm được
sản xuất từ tuyến trùng nhập
nội và 6 chế phẩm sử dụng 6
chủng tuyến trùng bản địa.
Kết quả thử nghiệm cho
thấy những chế phẩm này có
thể diệt được gần 30 loài sâu
hại khác nhau. Thử nghiệm
trên quy mô 1-2ha cho thấy
các chế phẩm diệt được sâu
keo da láng hại nho ở Ninh
Thuận (tỷ lệ sâu chết là
70%), sâu xám hại thuốc lá
ở Ba Vì (85-90%), bọ
hung đen hai mía ở Thanh
Hoá (50-65%). Hiện chúng
tôi đã chuyển giao công
nghệ sản xuất cho Ninh
Thuận ở quy mô một xưởng
sản xuất nhỏ và tiếp tục
chuyển gia cho một số nơi
khác.
Các chuyên gia đã sử dụng

phương pháp nào để sản
xuất chế phẩm sinh học
tuyến trùng?
Nghiên cứu khoa
học: Đừng sợ thất bại!
- Theo TS Phan Kế Long -
nhà khoa học vừa được
trao Giải thưởng "Hợp tác
phát triển'' năm 2004 của
Bỉ, là một trong những nhà
khoa học VN đã tham gia
nhiều nghiên cứu về tuyến
trùng
-Chúng tôi sử dụng hai loại
công nghệ là in vivo (dùng
côn trùng sống, cụ thể là
ngài sáp, để nhân nuôi
tuyến trùng hữu ích) và
công nghệ in vitro (dùng
môi trường nhân tạo và
thiết bị nhân nuôi). Công
nghệ in vivo đơn giản hơn
nhưng mất nhiều thời gian
hơn. Trong khi đó, công
nghệ in vitro thì lại nhanh
hơn, có thể sản xuất một
mẻ 45kg sinh khối mỗi
tháng.
Nếu sử dụng hai loại công
nghệ này thì khó có thể

thương mại được do tốc độ
nhân nuôi chậm, giá thành
cao. Chẳng hạn phải tốn
1,1 triệu đồng/ha để diệt
trừ bọ hung đen hại mía, so
với 750.000 đồng đối với sử
dụng thuốc hoá học. Do
vậy, hướng đi của chúng
tôi trong thời gian tới là áp
dụng công nghệ cao, dùng
thiết bị lên men tự động
(bioreactor) để nhân nuôi
tuyến trùng. Công nghệ
này sẽ tạo nhiều sinh khối
hơn và giúp hạ giá thành
sản xuất.
Hạn chế lớn nhất của các
chế phẩm tuyến trùng hiện
nay là gì?
- Những tuyến trùng trên
sống trong đất nên rất thích
hợp cho việc diệt sâu hại
sống trong đất. Do vậy, khả
năng diệt sâu hại sống trên
lá vẫn còn hạn chế. Chẳng
hạn như để diệt sâu keo da
láng hại nho ở Ninh
Thuận, chúng tôi phải phối
chế tuyến trùng với
gỉ đường để tạo môi trường

sống thuận lợi cho tuyến
trùng, do vậy chúng mới
diệt được sâu hại.

×