Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Thiết kế nghiên cứu Chương 10 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (504.5 KB, 24 trang )


CHƯƠNG MƯỜI

CÁC THỦ TỤC ĐỊNH TÍNH



Các thủ tục nghiên cứu định tính ở trong tình trạng tương phản rõ rệt với các phương pháp
nghiên cứu định lượng. Điều tra định tính (qualitative inquiry) sử dụng những lời khẳng định
tri thức khác, các chiến lược điều tra khác, các phương pháp thu thập và phân tích dữ liệu
khác. Mặc dù các qui trình tương tự nhau, nhưng các thủ tục định tính dựa vào dữ liệu văn
bản và hình ảnh, có các bước độc đáo trong phân tích dữ liệu, và sử dụng các chiến lược điều
tra đa dạng.

Thực ra, các chiến lược điều tra được chọn trong một dự án nghiên cứu định tính sẽ có
ảnh hưởng sâu sắc đến các thủ tục định tính. Các thủ tục định tính này, ngay cả trong phạm vi
các chiến lược điều tra đã chọn, vẫn hoàn toàn không đồng nhất. Xem xét kỹ những nét đặc
trưng chính của các thủ tục định tính cho thấy các quan điểm đi từ tư tưởng hậu hiện đại
(Denzin và Lincoln, 2000), đến các quan điểm về ý thức hệ (Lather, 1991), đến các quan điểm
về triết học (Schwandt, 2000), đến những nguyên tắc hướng dẫn về thủ tục định tính có hệ
thống (Creswell, 1998; Strauss và Corbin, 1998). Tất cả các quan điểm thi đua giành vị trí
trung tâm được tập trung chú ý trong mô hình về điều tra đang bộc lộ rõ ràng hơn này, được
gọi là nghiên cứu “định tính”.

Chương này sẽ cố gắng đạt đến một quan điểm trung dụng mà nhiều người có thể đồng ý,
cung cấp những thủ tục tổng quát, và sử dụng nhiều thí dụ để minh họa những sự thay đổi,
khác nhau về chiến lược điều tra. Thảo luận này sử dụng những ý tưởng được đưa ra bởi
nhiều tác giả viết về thiết kế đề án nghiên cứu định tính (thí dụ, hãy xem Berg, 2001; Marshall
và Rossman, 1999; Maxwell, 1996; Rossman và Rallis, 1998). Những chủ đề trong phần trình
bày các thủ tục của một đề án nghiên cứu định tính là các đặc điểm của nghiên cứu định tính,
chiến lược nghiên cứu, vai trò của nhà nghiên cứu, các bước trong việc thu thập và phân tích


dữ liệu, các chiến lược đảm bảo hay chứng thực giá trị (strategies for validity), tính chính xác
của các kết quả được tìm thấy, và cấu trúc tường thuật. Bảng 10.1 trình bày một danh sách
kiểm tra về các câu hỏi đối với việc thiết kế các thủ tục nghiên cứu định tính.




NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CỦA NGHIÊN CỨU ĐỊNH TÍNH

Trong nhiều năm qua, một tác giả viết đề án nghiên cứu định tính phải thảo luận về những đặc
điểm của nghiên cứu định tính và thuyết phục tập thể cán bộ giảng dạy và các khán giả về tính
hợp lệ của những đặc điểm này. Bây giờ thì dường như có một sự đồng thuận nào đó về
những gì cấu thành sự điều tra định tính và thảo luận như thế không còn cần thiết (Flindero và
Mills [1993], chắc là bất đồng ý kiến về điểm này). Như thế, những đề nghị của tôi về phần
này của một đề án nghiên cứu là như sau:


162


Bảng 10.1 Danh sách Kiểm tra về Các Câu hỏi cho việc Thiết kế một Thủ tục
Định tính của Nhà Nghiên cứu
________ Nhà nghiên cứu có đề cập đến những đặc điểm cơ bản của các công trình nghiên
cứu định tính không?
________ Nhà nghiên cứu có đề cập đến loại chiến lược điều tra định tính chuyên biệt sẽ được
sử dụng không? Lịch sử của chiến lược đó, định nghĩa của chiến lược đó, những ứng
dụng đối với chiến lược đó có được đề cập không?
________ Có phải người đọc có được sự hiểu biết về vai trò của nhà nghiên cứu trong công
trình nghiên cứu này (những kinh nghiệm trong quá khứ, những mối quan hệ cá
nhân với các địa điểm nghiên cứu và những người liên quan, các bước trong quá

trình thâm nhập, và các vấn đề đạo lý nhạy cảm) hay không?
________ Nhà nghiên cứu có xác định chiến lược lấy mẫu có mục đích đối với các địa điểm
và các cá nhân không?
________ Nhà nghiên cứu có đề cập đến những hình thức thu thập dữ liệu chuyên biệt và
có đưa ra cơ sở lý lẽ biện minh cho việc sử dụng các hình thức đó hay không?
________ Các thủ tục ghi chép thông tin (chẳng hạn như các biên bản hay bản nghi thức)
trong suốt thủ tục thu thập dữ liệu có được đề cập không?
________ Nhà nghiên cứu có xác định các bước trong phép phân tích dữ liệu không?
________ Có bằng chứng cho thấy nhà nghiên cứu đã sắp xếp, chuẩn bị dữ liệu cho việc
phân tích hay không?
________ Nhà nghiên cứu đã xem xét lại dữ liệu một cách tổng quát để có được một nhận
thức chung về thông tin hay chưa?
________ Có phải sự mã hóa đã được sử dụng với dữ liệu trong nghiên cứu này?
________ Các mã đã được xây dựng để hình thành sự mô tả hay xác định các chủ đề hay
chưa?
________ Các chủ đề có liên hệ chặt chẽ với nhau để cho thấy một mức độ cao hơn về phân
tích và trừu tượng hóa hay không?
________ Nhà nghiên cứu có đề cập đến những cách thức theo đó dữ liệu sẽ được trình bày
– như là các bảng, các đồ thị, và các hình – hay không?
________ Nhà nghiên cứu đã nêu rõ các cơ sở để giải thích phép phân tích (những kinh
nghiệm cá nhân, tài liệu trong quá khứ, các câu hỏi, chương trình hành động) hay
chưa?
Nhà nghiên cứu đã đề cập đến kết cục của công trình nghiên cứu hay chưa? (xây
dựng một lý thuyết? cung cấp một bức tranh phức tạp về các chủ đề?)
________
________ Có phải nhiều chiến lược đã được dẫn ra để chứng thực giá trị (validating) của
các kết quả tìm thấy?


• Hãy xem xét lại những yêu cầu của các nhóm khán giả tiềm năng đối với đề án nghiên cứu

đang xét. Hãy quyết định xem liệu các thành viên của các nhóm khán giả có đủ hiểu biết
tường tận về những đặc điểm của nghiên cứu định tính để phần này không cần thiết nữa
hay không.

• Nếu có nghi vấn nào đó về sự hiểu biết nói trên của họ, thì hãy trình bày những đặc điểm
cơ bản của nghiên cứu định tính trong đề án nghiên cứu và có thể thảo luận về một bài báo
trên tập san về nghiên cứu định tính (hay một công trình nghiên cứu định tính) gần đây để
sử dụng làm thí dụ minh họa cho những đặc điểm của nghiên cứu định tính nói trên.

• Vài bản liệt kê các đặc điểm của nghiên cứu định tính có thể được sử dụng (thí dụ, Bogdan
và Biklen, 1992; Eisner, 1991; Marshall và Rossman, 1999), nhưng tôi thích những đặc

163

điểm của nghiên cứu định tính do Rossman và Rallis (1998) đưa ra bởi vì những đặc điểm
này thể hiện cả những quan điểm truyền thống lẫn những quan điểm về tuyên truyền vận
động, khuyến khích sự tham gia của mọi người, và tự suy ngẫm về điều tra định tính. Dựa
trên những ý tưởng của Rossman và Rallis (1998), tôi đề xuất những đặc điểm của nghiên
cứu định tính sau đây:

- Nghiên cứu định tính diễn ra trong môi trường tự nhiên. Nhà nghiên cứu theo phương
pháp định tính thường đi đến địa điểm (nhà ở, văn phòng làm việc) của người tham
gia vào nghiên cứu để tiến hành nghiên cứu. Điều này làm cho nhà nghiên cứu có khả
năng hình thành một mức chi tiết về cá nhân hay nơi được nghiên cứu và tham gia với
mức độ cao vào những trải nghiệm thực sự của những người tham gia vào công trình
nghiên cứu.

- Nghiên cứu định tính sử dụng nhiều phương pháp có tính tương tác và có tính nhân
đạo chủ nghĩa. Các phương pháp thu thập dữ liệu đang ngày một nhiều hơn, và các
phương pháp này ngày càng đòi hỏi sự tham gia tích cực của những người tham gia

vào nghiên cứu và sự nhạy cảm đối với những người tham gia vào nghiên cứu. Các
nhà nghiên cứu theo phương pháp định tính trông đợi sự tham gia vào việc thu thập dữ
liệu của những người tham gia vào nghiên cứu của họ và tìm cách xây dựng mối quan
hệ thông cảm và mật thiết cũng như sự tín nhiệm với các cá nhân trong công trình
nghiên cứu. Các nhà nghiên cứu này không làm xáo trộn địa điểm nghiên cứu nhiều
hơn mức cần thiết. Ngoài ra, các phương pháp thu thập dữ liệu trên thực tế, theo
truyền thống dựa vào những quan sát mở, những cuộc phỏng vấn mở và tài liệu bằng
văn bản, bây giờ bao gồm một dãy rộng các tài liệu dưới nhiều dạng, như âm thanh
hay tiếng, thư điện tử, tệp lưu (scrapbooks), và những dạng mới xuất hiện khác (hãy
xem phần trình bày về thu thập dữ liệu ở sau trong chương này). Dữ liệu được thu
thập bao gồm dữ liệu văn bản (hay bằng lời) và dữ liệu hình ảnh (images) hay hình vẽ
(picture).

- Nghiên cứu định tính mang tính mới nổi lên (emergent) chứ không phải được hình
dung trước một cách sít sao. Nhiều khía cạnh mới nổi lên trong suốt một công trình
nghiên cứu định tính. Các câu hỏi nghiên cứu có thể thay đổi và được điều chỉnh, cải
tiến khi nhà điều tra biết được cần phải hỏi điều gì và nên hỏi ai điều đó. Qui trình thu
thập dữ liệu có thể thay đổi khi các cánh cửa mở ra và đóng lại đối với việc thu thập
dữ liệu (khi có khả năng thực hiện và khi không có khả năng thực hiện việc thu thập
dữ liệu), và khi nhà điều tra biết được những địa điểm tốt nhất mà tại đó họ có thể học
hỏi về hiện tượng chủ yếu (hiện tượng trung tâm) được quan tâm. Lý thuyết hay mô
thức tổng quát về điều hiểu biết sẽ nổi lên khi nó bắt đầu bằng những mã (codes) ban
đầu, phát triển thành các chủ đề rộng, và liên kết thành một lý thuyết có cơ sở hay một
lời giải thích tổng quát. Những khía cạnh này của một mô hình nghiên cứu bộc lộ dần
(an unfolding research model) làm cho việc hình dung trước nghiên cứu định tính một
cách sít sao ở giai đoạn làm đề án nghiên cứu hay giai đoạn nghiên cứu ban đầu trở
nên khó khăn.

- Nghiên cứu định tính về cơ bản mang tính giải thích hay diễn giải (interpretive). Điều
này có nghĩa là nhà nghiên cứu đưa ra sự giải thích (sự diễn giải) về dữ liệu. Việc giải

thích này bao gồm việc xây dựng một sự mô tả về một cá nhân hay môi trường, việc
phân tích dữ liệu để tìm hay hình thành các chủ đề hoặc các phạm trù, và việc cuối
cùng đưa ra lời giải thích hay rút ra những kết luận về ý nghĩa của dữ liệu theo quan
điểm cá nhân hay theo lý thuyết, việc phát biểu về các bài học đã học được, và việc
cung cấp thêm những câu hỏi sẽ được nêu lên (Wolcott, 1994). Nghiên cứu định tính
về cơ bản mang tính giải thích cũng có nghĩa là nhà nghiên cứu lọc dữ liệu thông qua

164

một lăng kính (quan điểm) cá nhân của mình ở vào một thời điểm chính trị-xã hội và
lịch sử đặc biệt. Ta không thể lẫn tránh được sự giải thích có tính cá nhân được đưa
vào phép phân tích dữ liệu định tính.

- Nhà nghiên cứu theo phương pháp định tính nhìn các hiện tượng một cách bao quát.
Điều này giải thích tại sao các công trình nghiên cứu định tính có vẻ như là những
cách nhìn toàn cảnh, tổng quát chứ không phải là những phép phân tích vi mô. Bài
tường thuật càng phức tạp, càng có tính tương tác, và càng bao hàm nhiều điều, thì
công trình nghiên cứu định tính càng tốt. Các mô hình trực quan về nhiều khía cạnh
của một qui trình hay một hiện tượng chủ yếu hỗ trợ trong việc thiết lập bức tranh bao
quát này (thí dụ, xem Creswell và Brown, 1992).

- Nhà nghiên cứu theo phương pháp định tính suy ngẫm một cách có hệ thống về việc
mình là ai trong hoạt động điều tra này và nhạy cảm với tiểu sử của cá nhân mình và
cách thức tiểu sử của cá nhân mình định hình công trình nghiên cứu. Sự tự vấn này và
sự thừa nhận các thiên lệch, các giá trị, và các mối quan tâm (hay reflexivity (tính
phản xạ)) tiêu biểu cho nghiên cứu định tính ngày nay. Cái tôi cá nhân trở nên không
thể tách rời khỏi cái tôi của nhà nghiên cứu. Nó cũng thể hiện tính trung thực và sự
mở cửa đối với nghiên cứu, thừa nhận rằng tất cả việc điều tra đều chất đầy các giá trị
(Merten, 2003). Về mặt thủ tục, những lời phát biểu về sự suy ngẫm cá nhân xuất
hiện trong phần “vai trò của nhà nghiên cứu” (hãy xem thảo luận về đề tài này ở sau,

trong chương này) hay trong phần kết (hãy xem Asmussen và Creswell, 1995), hay ăn
sâu vào khắp đề án nghiên cứu hay công trình nghiên cứu.

- Nhà nghiên cứu theo phương pháp định tính sử dụng lý luận phức tạp có nhiều khía
cạnh khác nhau, có tính lặp đi lặp lại, và có tính đồng thời. Mặc dù lý luận chủ yếu là
theo phép qui nạp, nhưng cả quá trình qui nạp lẫn quá trình suy diễn đều có hiệu lực.
Quá trình tư duy cũng có tính lặp đi lặp lại, với chu kỳ lui và tới từ việc thu thập và
phân tích dữ liệu đến việc hình thành lại vấn đề và trở lui. Thêm vào điều này là các
hoạt động đồng thời thu thập, phân tích, và viết ra dữ liệu.

- Nhà nghiên cứu theo phương pháp định tính chấp nhận và sử dụng một hay nhiều hơn
một chiến lược điều tra để hướng dẫn cho các thủ tục trong công trình nghiên cứu định
tính. Đối với các nhà nghiên cứu mới vào nghề, chỉ cần sử dụng một chiến lược điều
tra và xem trong các cuốn sách viết về thủ tục gần đây để tìm lời hướng dẫn về cách
thức thiết kế một đề án nghiên cứu và tiến hành các thủ tục của chiến lược đó.

CÁC CHIẾN LƯỢC ĐIỀU TRA

Ngoài những đặc điểm tổng quát nói trên là những chiến lược điều tra chuyên biệt hơn. Các
chiến lược này tuy tập trung vào việc thu thập dữ liệu, phân tích dữ liệu, và viết lách, nhưng
các chiến lược này bắt nguồn từ các ngành học thuật và diễn ra liên tục trong suốt qui trình
nghiên cứu (thí dụ, các loại vấn đề nghiên cứu, các vấn đề về đạo lý quan trọng) (Creswell,
1981). Nhiều chiến lược điều tra hiện hữu, chẳng hạn như 28 cách tiếp cận điều tra được
nhận diện bởi Tesch (1990), 19 loại điều tra trong cây Wolcott (Wolcott’s tree) (2001), và 5
“truyền thống” về điều tra do Creswell (1998) đưa ra. Như đã thảo luận trong Chương 1, bây
giờ tôi đề xuất rằng các nhà nghiên cứu theo phương pháp định tính chọn trong số năm khả
năng, bao gồm tường thuật, hiện tượng học, dân tộc học, nghiên cứu tình huống, và lý thuyết
có cơ sở. Tôi không có cơ sở chính thức và đáng tin cậy nào cho năm khả năng này, nhưng
tôi thực sự thấy các khả năng này được sử dụng thường xuyên hiện nay, và chúng thể hiện
một trọng tâm bao gồm từ hẹp đến rộng. Thí dụ, các nhà nghiên cứu có thể nghiên cứu về các

cá nhân (theo tường thuật, theo hiện tượng học); tìm hiểu các quá trình, các hoạt động, và các

165

sự kiện (theo nghiên cứu tình huống, theo lý thuyết có cơ sở); hay học hỏi về hành vi xuất
phát từ cùng một nền văn hóa khái quát của các cá nhân hay các nhóm (theo dân tộc học).

Trong việc viết thủ tục cho một đề án nghiên cứu định tính, các công việc liệt kê dưới
đây được đề xuất:

• Hãy xác định chiến lược điều tra chuyên biệt sẽ được sử dụng.

• Hãy cung cấp một số thông tin cơ sở về chiến lược nói trên, chẳng hạn như nguồn gốc
ngành học thuật của chiến lược này, các ứng dụng và một định nghĩa ngắn gọn của chiến
lược này (hãy xem Chương 1 để biết về năm chiến lược điều tra tôi minh họa).

• Hãy thảo luận tại sao chiến lược nói trên là một chiến lược điều tra thích hợp để sử dụng
trong nghiên cứu được đề xuất.

• Hãy xác định cách thức việc sử dụng chiến lược nói trên sẽ định hình các loại câu hỏi
được nêu lên (hãy xem Morse, 1994, về các câu hỏi liên quan đến các chiến lược điều tra),
hình thức thu thập dữ liệu, các bước trong phân tích dữ liệu, và bài tường thuật cuối cùng.


VAI TRÒ CỦA NHÀ NGHIÊN CỨU

Như đã đề cập trong phần liệt kê các đặc điểm của nghiên cứu định tính, nghiên cứu định tính là
nghiên cứu có tính giải thích (diễn giải) với việc nhà điều tra thường tham gia vào sự trải
nghiệm xuyên suốt với nỗ lực cao và được duy trì lâu dài với những người tham gia vào nghiên
cứu. Điều này đưa một loạt các vấn đề có tính chiến lược, đạo lý và cá nhân vào qui trình

nghiên cứu định tính (Locke và những người khác, 2000). Với những mối quan tâm này trong
đầu, các nhà điều tra xác định một cách rõ ràng các thiên lệch, các giá trị (nguyên tắc và niềm
tin), và những mối quan tâm cá nhân của họ về đề tài nghiên cứu và qui trình nghiên cứu của
họ. Việc thâm nhập được một địa điểm nghiên cứu và các vấn đề về đạo lý có thể nảy sinh
cũng là những thành phần trong vai trò của nhà nghiên cứu.

• Hãy đưa vào những lời trình bày về các kinh nghiệm quá khứ mà cung cấp dữ liệu cơ sở,
thông qua đó khán giả có thể hiểu được rõ hơn về đề tài, môi trường, hay những người
tham gia.

• Hãy bình luận về những quan hệ giữa nhà nghiên cứu với những người tham gia và bình
luận về các địa điểm nghiên cứu. Nghiên cứu “sân sau” (Glesne và Peshkin, 1992) liên
quan đến việc nghiên cứu tổ chức, hay bạn bè, hay môi trường làm việc trực tiếp của chính
nhà nghiên cứu. Việc nghiên cứu này thường dẫn đến những sự thỏa hiệp trong khả năng
tiết lộ thông tin của nhà nghiên cứu và thường gây ra những vấn đề khó khăn về năng lực
hay quyền hạn. Mặc dù việc thu thập dữ liệu có thể thuận tiện và dễ dàng, nhưng các vấn
đề về báo cáo dữ liệu bị thiên lệch, không đầy đủ, hay theo thỏa hiệp là các vấn đề được
nhiều người biết đến. Nếu việc nghiên cứu “sân sau” là cần thiết, thì hãy sử dụng nhiều
chiến lược về chứng thực giá trị (strategies of validity) (như sẽ được thảo luận sau) để làm
cho người đọc tin tưởng vào tính chính xác của các kết quả được tìm thấy.

• Hãy chỉ ra các bước được tiến hành để xin được phép của Hội đồng Duyệt xét về Thể chế
(Institutional Review Board) (xem Chương 1) để bảo vệ các quyền của những người tham
gia là con người. Hãy đính kèm, như một bản phụ đính, thư chấp thuận từ Hội đồng
Duyệt xét về Thể chế và thảo luận về quá trình liên quan trong việc xin được sự cho phép.


166

• Hãy thảo luận về các bước được tiến hành để thâm nhập được môi trường nghiên cứu và xin

được phép nghiên cứu những người cung cấp thông tin (những người tham gia vào nghiên
cứu) hay nghiên cứu tình hình (Marshall và Rossman, 1999). Điều quan trọng là tiếp cận
được các địa điểm nghiên cứu hay địa điểm lưu trữ tài liệu bằng việc xin được sự chấp thuận
của “những người gác cổng”. Nhà nghiên cứu có thể cần phải xây dựng một đề án ngắn gọn
và nộp lên cho “những người gác cổng” duyệt xét. Bogdan và Biklen (1992) đưa ra các đề
tài có thể được đề cập trong một đề án như thế:

- Tại sao địa điểm này đã được chọn để nghiên cứu?
- Những hoạt động gì sẽ diễn ra ở địa điểm này trong suốt công trình nghiên cứu?
- Nghiên cứu này sẽ gây rối loạn hay không?
- Các kết quả sẽ được báo cáo như thế nào?
- “Người gác cổng” sẽ được lợi gì từ công trình nghiên cứu này?

• Hãy bình luận về các vấn đề đạo lý nhạy cảm có thể nảy sinh (hãy xem Chương 1 của
cuốn sách này và Berg, 2001). Đối với mỗi vấn đề được nêu lên, hãy thảo luận về việc
công trình nghiên cứu sẽ giải quyết vấn đề đó như thế nào. Thí dụ, khi nghiên cứu một đề
tài nhạy cảm, cần phải che giấu danh tánh hay tên gọi của người, địa điểm và hoạt động.
Trong trường hợp này, qui trình che giấu thông tin cần phải được thảo luận trong đề án
nghiên cứu.


CÁC THỦ TỤC THU THẬP DỮ LIỆU

Những bình luận về vai trò của nhà nghiên cứu chuẩn bị cho việc thảo luận về các vấn đề liên
quan trong việc thu thập dữ liệu. Các bước trong việc thu thập dữ liệu bao gồm ấn định các
giới hạn hay ranh giới cho công trình nghiên cứu, thu thập thông tin qua những quan sát và
các cuộc phỏng vấn phi cấu trúc (hay bán cấu trúc), các tài liệu bằng văn bản, và các tài liệu
nhìn (visual materials), cũng như thiết lập nghi thức để ghi thông tin.

• Hãy xác định các địa điểm hay các cá nhân được chọn một cách có mục đích quả quyết

(purposefully selected) cho công trình nghiên cứu đề xuất. Ý tưởng đằng sau nghiên cứu
định tính là chọn một cách có mục đích quả quyết những người tham gia vào nghiên cứu
và những địa điểm (hay tài liệu văn bản hay tài liệu nhìn) sẽ giúp tốt nhất cho nhà nghiên
cứu hiểu được vấn đề và câu hỏi nghiên cứu. Điều này không nhất thiết đề xuất phương
pháp lấy mẫu ngẫu nhiên hay việc chọn lựa ngẫu nhiên một số lượng lớn người tham gia
hay địa điểm, như thường tìm thấy trong nghiên cứu định lượng. Phần thảo luận về những
người tham gia và địa điểm có thể bao gồm bốn khía cạnh được xác định bởi Miles và
Huberman (1994): môi truờng (setting) (nơi nghiên cứu sẽ xảy ra), các tác nhân (actors)
(những người sẽ được quan sát hay được phỏng vấn), các sự kiện (những điều các tác nhân
sẽ được quan sát hay phỏng vấn làm), và quá trình (tính chất tiến hóa của các sự kiện
được thực hiện bởi các tác nhân trong môi trường nói trên).

• Ngoài ra, hãy cho biết loại hay các loại dữ liệu sẽ được thu thập. Trong nhiều công trình
nghiên cứu định tính, các nhà điều tra thu thập nhiều hình thức dữ liệu và bỏ ra nhiều thời
gian trong môi trường tự nhiên để thu thập thông tin. Các thủ tục thu thập dữ liệu trong
nghiên cứu định tính bao gồm bốn loại cơ bản, như được trình bày trong Bảng 10.2.

1. Các Quan sát (Obervations), trong đó nhà nghiên cứu thực hiện những bản ghi chép
tại hiện trường (nhật ký hiện trường) về hành vi và hoạt động của các cá nhân tại địa

167

điểm nghiên cứu. Trong các bản ghi chép tại hiện trường này, nhà nghiên cứu ghi lại,
theo một cách thức phi cấu trúc hay bán cấu trúc (bằng việc sử dụng một số câu hỏi có
sẵn trước mà nhà nghiên cứu muốn biết), các hoạt động tại địa điểm nghiên cứu. Nhà
quan sát định tính cũng có thể đóng các vai trò khác nhau, từ vai trò một người không
phải là người tham gia trong nghiên cứu (non-participant) đến vai trò một người tham
gia trong nghiên cứu hoàn toàn (complete participant).
2. Các cuộc phỏng vấn (interviews): Trong các cuộc phỏng vấn, nhà nghiên cứu tiến
hành phỏng vấn mặt đối mặt với những người tham gia, phỏng vấn những người tham

gia bằng điện thoại, hay tham gia vào các cuộc phỏng vấn nhóm trọng tâm (focus
group), với sáu đến tám người được phỏng vấn trong mỗi nhóm. Những cuộc phỏng
vấn này bao gồm các câu hỏi phi cấu trúc và thường là mở, các câu hỏi này chỉ có số
lượng ít và có chủ đích moi hỏi những cách nhìn và những quan điểm của những
người tham gia trong nghiên cứu.
3. Tài liệu bằng văn bản (documents): Trong suốt qui trình nghiên cứu, nhà điều tra định
tính có thể thu thập các tài liệu bằng văn bản. Các tài liệu này có thể là các tài liệu
công khai (thí dụ báo chí, các biên bản buổi họp, các báo cáo chính thức) hay các tài
liệu riêng (thí dụ, các loại nhật ký của cá nhân, thư từ, thư điện tử).
4. Tài liệu nghe nhìn (âm thanh và hình ảnh) (audio and visual material). Dữ liệu này
có thể dưới hình thức các ảnh chụp, các vật thể nghệ thuật, các băng video, hay bất kỳ
dạng âm thanh nào.


• Trong thảo luận về các hình thức thu thập dữ liệu, hãy trình bày cụ thể về các loại hình
(types) và bao gồm các lập luận liên quan đến những điểm mạnh và những điểm yếu của
mỗi loại hình, như đã được thảo luận trong Bảng 10.2.

• Hãy bao gồm những loại hình thu thập dữ liệu vượt quá những sự quan sát thông thường
và các cuộc phỏng vấn thông thường. Những hình thức khác thường này làm cho người
đọc quan tâm đến đề án nghiên cứu và có thể nắm bắt những thông tin hữu ích mà những
sự quan sát và các cuộc phỏng vấn có thể bỏ qua. Thí dụ, hãy xem xét bảng tóm tắt về các
loại dữ liệu trong Bảng 10.3, bảng tóm tắt này có thể dùng để mở rộng trí tưởng tưởng về
các khả năng thu thập dữ liệu, chẳng hạn như thu thập các âm thanh hay vị, hoặc sử dụng
các mục được ấp ủ để moi hỏi những ý kiến nhận xét trong suốt một cuộc phỏng vấn.

Bảng 10.2 Các LoạI hình Thu thập Dữ liệu Định tính, các Phương án Chọn lựa, những Ưu điểm, và những
Hạn chế
Các Loại hình Thu thập
Dữ liệu

Các Phương án Chọn lựa
trong Phạm vi Loại hình
Những Ưu điểm của Loại
hình này
Những Hạn chế của Loại
hình này
• Người ta có thể cho là
nhà nghiên cứu xâm
phạm.
• Người tham gia hoàn
toàn: nhà nghiên cứu che
giấu vai trò của mình.
• Nhà nghiên cứu có được
kinh nghiệm trực tiếp với
những ngườI tham gia
trong cuộc nghiên cứu.
Quan sát
• Thông tin “riêng tư” có
thể được quan sát mà nhà
nghiên cứu không thể báo
cáo.
• Nhà quan sát như là
người tham gia: vai trò
của nhà nghiên cứu được
biết đến.
• Nhà nghên cứu có thể ghi
chép thông tin khi thông
tin được bộc lộ.
• Những khía cạnh bất
thường có thể được chú ý

trong suốt quá trình quan
sát
• Nhà nghiên cứu có thể
không có các kỹ năng
tham dự và quan sát tốt.
• Người tham gia như là
nhà quan sát: vai trò
quan sát là thứ yếu so
với vai trò người tham
gia.
• Hữu ích trong việc thăm
dò, tìm hiểu các đề tài mà
những người tham gia
• Một số người tham gia
nhất định (thí dụ, trẻ em)
có thể biểu hiện những
vấn đề khó khăn đặc biệt
• Nhà quan sát hoàn toàn:
nhà nghiên cứu quan sát

168

mà không tham gia thảo luận thì có thể không
thoải mái.
trong việc tạo ra được
mối quan hệ mật thiết.
Phỏng vấn
• Hữu ích khi không thể
quan sát những người
tham gia một cách trực

tiếp.
• Cung cấp thông tin “gián
tiếp” đã được lọc qua
quan điểm của những
người được phỏng vấn.
• Mặt-đối-mặt (trực tiếp):
phỏng vấn đích thân trực
tiếp, chỉ giữa hai người
(người phỏng vấn và
người được phỏng vấn).
• Những người tham gia có
thể cung cấp thông tin
trong quá khứ.
• Cung cấp thông tin ở
một “nơi” được chỉ định
chứ không phải ở hiện
trường tự nhiên.
• Qua điện thoại: nhà
nghiên cứu phỏng vấn
bằng điện thoại.
• Cho phép nhà nghiên
cứu ‘kiển soát” phương
hướng hỏI thông tin
• Nhóm: nhà nghiên cứu
phỏng vấn những người
tham gia trong một
nhóm.
• Sự hiện diện của nhà
nghiên cứu có thể có ảnh
hưởng làm thiên lệch các

câu trả lời.
• Người ta không có khả
năng diễn đạt tư tưởng,
cảm xúc rõ ràng và có khả
năng nhận thức ngang
nhau.
Tài liệu (bằng văn bản)
• Có thể là thông tin được
bảo vệ, không có sẵn để
tiếp cận công khai hay
riêng tư.
• Những tài liệu công
khai như biên bản buổi
họp, và báo chí.
• Giúp cho nhà nghiên
cứu thu nhận được ngôn
ngữ và lời diễn đạt của
những người tham gia.
• Những tài liệu riêng tư
như các loại sổ nhật ký
và thư từ.
• Có thể được tiếp cận
vào thời điểm thuận tiện
cho nhà nghiên cứu –
một nguồn thông tin kín
đáo
• Đòi hỏi nhà nghiên cứu
tìm ra thông tin trong
những nơi khó tìm.
• Những thảo luận qua

thư điện tử.
• Đòi hỏi việc sao chép lạI
(transcribing) hay việc
quét quang (optically
scanning) để nhập vào
máy tính.
• Thể hiện dữ liệu có suy
nghĩ chín chắn, theo
nghĩa là những người
tham gia đã chú ý biên
soạn hay sưu tập.
• Tài liệu có thể không
hoàn chỉnh.
• Là bằng chứng bằng văn
bản, nó giúp nhà nghiên
cứu không mất thời gian
và chi phí cho việc sao
chép lạI (transcribing) từ
lời nói, bản tốc ký v.v
thành văn bản.
• Tài liệu (bằng văn bản)
có thể không thực hay
chính xác.
Tài liệu nghe nhìn
(Audiovisual materials)
• Các bức ảnh
• Có thể khó diễn giải.
• Có thể là một phương
pháp kín đáo về thu thập
dữ liệu.

• Băng video
• Có thể là không thể tiếp
cận được một cách công
khai hay riêng tư.
• Các vật thể hay tác
phẩm nghệ thuật.
• Tạo ra cơ hội cho những
người tham gia chia xẻ
một cách trực tiếp “hiện
thực” của họ.
• Phần mềm máy tính.
• Sự hiện diện của một
người quan sát (thí dụ,
người thợ nhiếp ảnh) có
thể gây cản trở và ảnh
hưởng đến sự trả lời.
• Phim ảnh
• Có tính sáng tạo theo
nghĩa là nó thu hút sự
chú ý bằng thị giác.
GHI CHÚ: Bảng này bao gồm một số nội dung hay ý tưởng lấy từ Merriam (1998), Bogdan và Biklen (1992), và
Creswell (2002).



CÁC THỦ TỤC GHI DỮ LIỆU (DATA RECORDING)


169


Trước khi đi vào hiện trường, các nhà nghiên cứu theo phương pháp định tính lập kế hoạch về
phương pháp ghi dữ liệu của mình. Đề án nghiên cứu cần xác định nhà nghiên cứu sẽ ghi dữ
liệu và các thủ tục để ghi dữ liệu.

• Hãy sử dụng một bản nghi thức quan sát hay biên bản quan sát (observational protocol)
để ghi dữ liệu quan sát được. Các nhà nghiên cứu thường tiến hành nhiều sự quan sát
trong suốt tiến trình của một công trình nghiên cứu định tính và sử dụng một bản nghi
thức hay một biểu mẫu ghi thông tin. Bản nghi thức quan sát này có thể là một trang đơn
lẻ với một đường phân chia nằm khoảng giữa trang này để tách biệt các ghi chép mô tả
(decriptive notes) (những mô tả về những người tham gia, việc dựng lại cuộc đối thoại, mô
tả về môi trường vật chất, tường trình về những sự kiện đặc biệt, hay những hoạt động cụ
thể) khỏi các ghi chép có tính suy ngẫm (reflective notes) (những suy nghĩ cá nhân của
nhà nghiên cứu, như là “sự suy đoán, những cảm nhận, những vấn đề, những ý tưởng,
những linh cảm, những ấn tượng, và những định kiến) (Boglan và Biklen, 1992, trang
121). Ngoài ra, trên bản nghi thức hay biểu mẫu này cũng có thể viết thông tin nhân khẩu
học về thời gian, nơi chốn, và ngày, tháng hoặc năm của môi trường thực địa, nơi việc
quan sát xảy ra.

• Hãy sử dụng một bản nghi thức hay biên bản phỏng vấn (interview protocol) để ghi thông
tin trong suốt cuộc phỏng vấn định tính. Bản nghi thức hay biên bản phỏng vấn này bao
gồm những thành phần sau đây: một đầu đề, những điều chỉ dẫn cho người phỏng vấn
(những lời phát biểu mở đầu), các câu hỏi nghiên cứu then chốt, những thăm dò theo sau
các câu hỏi nghiên cứu then chốt, các thông điệp chuyển tiếp đối với người phỏng vấn,
chỗ trống để ghi những lời bình luận của người phỏng vấn, và chỗ trống ở đó nhà nghiên
cứu ghi những điều ghi chép có tính suy ngẫm.

• Các nhà nghiên cứu ghi thông tin từ các cuộc phỏng vấn bằng cách sử dụng các bản ghi
chép viết tay, ghi băng âm thanh, ghi băng video. Trong suốt cuộc phỏng vấn, nhà nghiên
cứu cần phải thực hiện việc ghi chép trong trường hợp thiết bị ghi bị hỏng. Việc lập kế
hoạch trước liệu sẽ sử dụng một người sao chép lại (người vừa nghe vừa đánh máy) hay

không là điều quan trọng.

• Việc ghi các tài liệu bằng văn bản và các tài liệu nhìn (thị giác) có thể dựa vào cấu trúc
ghi chép của nhà nghiên cứu. Thông thường, các bản ghi chép phản ánh thông tin về tài
liệu bằng văn bản và tài liệu dưới dạng khác cũng như những ý tưởng chủ yếu trong các
tài liệu. Đối với tài liệu bằng văn bản, điều hữu ích là lưu ý liệu thông tin thể hiện tư liệu
hay dữ liệu sơ cấp (primary material) (nghĩa là thông tin trực tiếp từ những người hay tình
hình được nghiên cứu) hoặc tư liệu hay dữ liệu thứ cấp (secondary material) (nghĩa là
những bản báo cáo hay tường trình gián tiếp về những người hay tình hình cho những
người khác viết ra).


BẢNG 10.3 Bảng Liệt kê những Cách Tiếp cận Thu thập Dữ liệu Định tính
• Thu thập những lời ghi chép theo quan sát bằng cách tiến hành việc quan sát với tư cách là một
người tham gia trong nghiên cứu.
• Thu thập những lời ghi chép theo quan sát bằng cách tiến hành việc quan sát với tư cách là một
nhà quan sát.
• Tiến hành một cuộc phỏng vấn mở, phi cấu trúc (an unstructured, open ended interview) và ghi
chép nội dung cuộc phỏng vấn.
• Tiến hành một cuộc phỏng vấn mở, phi cấu trúc, ghi băng âm thanh nội dung cuộc phỏng vấn,

170

và sao chép lại (transcribe) nội dung cuộc phỏng vấn (từ băng âm thanh thành văn bản).
• Giữ một sổ nhật ký (a journal) trong suốt công trình nghiên cứu.
• Sắp xếp cho một người tham gia giữ một sổ nhật ký trong suốt công trình nghiên cứu.
• Quét bằng máy quét quang các bài mô tả trên báo chí.
• Thu thập thư từ cá nhân từ những người tham gia.
• Phân tích những tài liệu công khai (thí dụ, những bản ghi nhớ chính thức, các biên bản, các hồ
sơ, tài liệu lưu trữ)

• Xem xét, nghiên cứu các cuốn tự truyện và các tiểu sử.
• Sắp xếp cho một người tham gia trong nghiên cứu viết tự truyện của người ấy.
• Viết cuốn tự truyện của riêng bạn (của nhà nghiên cứu).
• Sắp xếp cho những người tham gia trong nghiên cứu chụp ảnh hay ghi băng video (nghĩa là
moi hỏi ảnh).
• Xem xét bằng chứng về dấu vết vật chất (thí dụ, những dấu chân trên tuyết).
• Ghi băng video một tình huống xã hội hay một cá nhân/một nhóm.
• Nghiên cứu các bức ảnh hay các băng video.
• Thu thập âm thanh (thí dụ, âm thanh trong âm nhạc, tiếng cười của một đứa trẻ, tiếng còi xe
hơi).
• Thu thập thư điện tử hay các thông báo điện tử.
• Xem xét những vật sở hữu và đồ nghi lễ để moi hỏi quan điểm trong suốt cuộc phỏng vấn.
• Thu thập mùi, vị, hay cảm giác thông qua việc chạm nhẹ.
GHI CHÚ: Phỏng theo Creswell (1998) và Creswell (2002).


PHÂN TÍCH VÀ GIẢI THÍCH (DIỄN GIẢI) DỮ LIỆU

Thảo luận về kế hoạch phân tích dữ liệu có thể có nhiều thành phần. Qui trình phân tích dữ
liệu liên quan đến việc hiểu ra được dữ liệu văn bản và hình ảnh. Qui trình phân tích dữ liệu
bao gồm chuẩn bị dữ liệu sẵn sàng cho việc phân tích, tiến hành những phép phân tích khác
nhau, tiến sâu hơn rồi sâu hơn nữa vào sự hiểu biết dữ liệu, trình bày dữ liệu, và đưa ra lời
giải thích (diễn giải) về ý nghĩa rộng lớn hơn của dữ liệu. Vài qui trình chung có thể được
trình bày trong đề án nghiên cứu mà chuyển tải được sự nhận thức về toàn bộ các hoạt động
trong phân tích dữ liệu định tính, chẳng hạn như qui trình sau đây. Qui trình này được rút ra
từ những suy nghĩ của riêng tôi và những ý tưởng của Rossman và Rallis (1998).

• Qui trình này là một qui trình tiếp diễn bao gồm việc suy ngẫm liên tục về dữ liệu, việc
nêu lên những câu hỏi theo phân tích (analytic question), và việc viết các bản ghi nhớ
(memos) trong suốt công trình nghiên cứu. Qui trình chung này không được tách ra một

cách rõ rệt khỏi các hoạt động khác trong qui trình nghiên cứu, chẳng hạn như việc thu
thập dữ liệu hay việc hình thành các câu hỏi nghiên cứu.

• Qui trình chung này hầu hết liên quan đến việc sử dụng dữ liệu mở. Điều này đòi hỏi việc
nêu ra những câu hỏi tổng quát và xây dựng một phép phân tích từ thông tin do những
người tham gia trong nghiên cứu cung cấp.


171

• Các nhà nghiên cứu cần phải điều chỉnh phép phân tích dữ liệu, vượt xa hơn những cách
tiếp cận chung, cho thích hợp với các loại chiến lược nghiên cứu định tính chuyên biệt
(hãy xem thêm Creswell, 1998). Thí dụ, lý thuyết có cơ sở có các bước có tính hệ thống
(Strauss và Corbin, 1990, 1998). Các bước này bao gồm việc tạo ra các phạm trù về thông
tin (sự mã hóa mở), việc chọn lựa một trong những phạm trù nói trên và đặt phạm trù này
vào trong một mô hình lý thuyết (sự mã hóa hướng trục), và sau đó giải thích rõ ràng một
câu chuyện từ sự liên kết các phạm trù này (sự mã hóa chọn lọc). Nghiên cứu tình huống
và nghiên cứu theo dân tộc học bao gồm việc mô tả chi tiết về môi trường hay các cá
nhân, tiếp theo là việc phân tích dữ liệu để tìm hay hình thành các chủ đề hay các vấn đề
(hãy xem Stake, 1995; Wolcott, 1994). Nghiên cứu theo tường thuật sử dụng việc kể lại
các câu chuyện của những người tham gia trong nghiên cứu bằng cách sử dụng các
phương tiện về cấu trúc như cốt truyện hay tình tiết, bối cảnh, các hoạt động, đoạn gay cấn
nhất, và đoạn kết (Clandinin và Connelly, 2000). Như các thí dụ này minh họa, các qui
trình cũng như các thuật ngữ khác nhau từ chiến lược phân tích này sang chiến lược phân
tích khác.

Bất kể những khác nhau về phân tích tùy thuộc vào loại thiết kế nghiên cứu được sử dụng nói
trên, các nhà điều tra định tính thường truyền đạt một qui trình chung về phân tích dữ liệu vào
trong một đề án nghiên cứu. Tình trạng lý tưởng là làm cho hòa hợp các bước theo qui trình
chung với các bước theo thiết kế nghiên cứu chuyên biệt. Các bước trong qui trình chung là

các bước sau đây:

Tổ chức (organize) và chuẩn bị sẵn sàng dữ liệu cho việc phân tích.
Bước này bao gồm sao chép lại (transcribing) nội dung các cuộc phỏng
vấn, quét tài liệu bằng máy quét quang, đánh máy các bản ghi chép tại
hiện trường, hay chọn lựa ra và sắp xếp dữ liệu thành các loại khác nhau
tùy thuộc vào các nguồn thông tin.
Bước 1


Đọc hết tất cả dữ liệu. Bước tổng quát đầu tiên là có được một nhận thức
tổng quát về thông in đã thu được và suy ngẫm về toàn bộ ý nghĩa của
thông tin này. Những ý tưởng tổng quát mà những người tham gia vào
cuộc nghiên cứu đang nói là những ý tưởng gì? Ấn tượng chung về toàn
bộ độ sâu, tính đáng tin cậy, và việc sử dụng hay sự hữu ích của thông tin
là gì? Đôi khi các nhà nghiên cứu theo phương pháp định tính viết những
lời ghi chép hay ghi chú ở lề (của các trang giấy viết) hay bắt đầu ghi
những suy nghĩ tổng quát về dữ liệu ở giai đoạn này.
Bước 2



Bước 3
Bắt đầu việc phân tích chi tiết bằng một qui trình mã hóa (coding process).
Sự mã hóa (Coding) là một qui trình tổ chức tài liệu thành “những khúc”
(“chunks”) trước khi đem lại ý nghĩa cho “những khúc” đó. (Rossman và
Rallis, 1998, trang 171). Sự mã hóa bao gồm việc lấy dữ liệu văn bản hay
các hình ảnh, phân khúc các câu (hay các đoạn) hay các hình ảnh thành
các phạm trù (categories), và dùng một thuật ngữ để đặt tên cho các phạm
trù đó, thường là một thuật ngữ dựa trên ngôn ngữ thực tế của những

người tham gia (được gọi là thuật ngữ trong thực thể sống (in vivo term)).


Trước khi tiến đến Bước 4, hãy xét đến một số lời nhận xét mà sẽ đưa ra sự hướng dẫn
chi tiết đối với qui trình mã hóa. Tesch (1990, từ trang 142 đến trang 145) cung cấp một phân
tích hữu ích về qui trình mã hóa trong tám bước:

172


1. Hãy làm sao có được một nhận thức về toàn bộ. Hãy đọc tất cả các bản sao chép lại
(transcriptions) một cách cẩn thận. Có lẽ ghi nhanh một số ý tưởng khi chúng nảy
sinh trong đầu.

2. Hãy chọn lấy một tài liệu (nghĩa là, một lần phỏng vấn) – tài liệu thú vị nhất, tài liệu
ngắn nhất, tài liệu nằm trên cùng của chồng tài liệu. Hãy đọc hết tài liệu này, rồi tự
hỏi mình “tài liệu này trình bày về điều gì?” Đừng nghĩ đến “nội dung” của thông tin
mà hãy nghĩ đến ý nghĩa nền tảng của thông tin. Hãy viết những suy nghĩ của mình ở
lề của trang giấy.

3. Khi Anh/Chị đã hoàn tất công việc nói trên đối với vài người cung cấp thông tin (người
tham gia trong nghiên cứu) hãy lập một danh sách tất cả các đề tài (chủ đề). Gom các
đề tài tương tự vào một nhóm hay cụm (cluster). Xếp các đề tài này thành các cột mà có
thể được sắp xếp như là các đề tài chủ yếu, các đề tài độc đáo, và các đề tài còn lại.

4. Bây giờ hãy nắm danh sách nói trên và trở lại với dữ liệu của Anh/Chị. Hãy viết tắt
các đề tài thành các mã (codes) và viết các mã này kế bên các đoạn hay khúc thích hợp
của văn bản. Hãy thử kế hoạch tổ chức sơ bộ này để xem liệu có những phạm trù
(categories) mới và những mã mới xuất hiện hay không.


5. Hãy tìm lời diễn đạt có tính mô tả nhất cho các đề tài của Anh/Chị và chuyển chúng
thành các phạm trù. Hãy tìm những cách làm giảm toàn bộ danh sách các phạm trù
bằng cách tập hợp các đề tài liên quan với nhau thành nhóm. Có lẽ hãy vẽ các đường
kẻ giữa các phạm trù của Anh/Chị để cho thấy những mối liên hệ lẫn nhau.

6. Hãy đưa ra quyết định cuối cùng về hình thức viết tắt cho mỗi phạm trù và sắp xếp các
mã này theo thứ tự trong bảng chữ cái.

7. Hãy tập hợp tài liệu của dữ liệu thuộc mỗi phạm trù vào một nơi và thực hiện việc
phân tích sơ bộ.

8. Nếu cần thiết, hãy mã hóa lại dữ liệu hiện hữu của Anh/Chị.


Tám bước này làm cho nhà nghiên cứu tham gia vào một qui trình có hệ thống về phân tích
dữ liệu văn bản. Có những sự thay đổi trong qui trình này. Thí dụ, một số nhà nghiên cứu đã
nhận thấy hữu ích khi lập mã màu cho các phạm trù khác nhau trên các bản sao chép lại hay
cắt những đoạn hay khúc văn bản và đặt chúng lên các tấm thiệp ghi chép (notercards).

Tôi khuyến khích các nhà nghiên cứu theo phương pháp định tính phân tích dữ liệu
của họ để tìm tài liệu mà có thể mang lại những mã (codes) xử lý các đề tài mà người đọc
chắc là kỳ vọng sẽ tìm thấy, những mã gây ngạc nhiên, và những mã xử lý một quan điểm lý
thuyết rộng lớn hơn trong cuộc nghiên cứu. Bogdan và Biklen (1992, từ trang 166 đến trang
172) có danh sách riêng của họ về các loại mã có thể thực hiện:

• Các mã về môi trường và bối cảnh.
• Các quan điểm của các đối tượng nghiên cứu (người tham gia).
• Những cách suy nghĩ về người và các vật thể của các đối tượng nghiên cứu.
• Các mã qui trình


173

• Các mã hoạt động
• Các mã chiến lược
• Các mã về mối quan hệ và cấu trúc xã hội
• Các chương trình mã hóa được chỉ định trước.

Một điều lưu ý thêm về sự mã hóa: qui trình mã hóa có thể được nâng cao bằng việc sử dụng
các chương trình phần mềm định tính trên máy tính. Các chương trình này hiện có sẵn rộng
rãi để sử dụng (hãy xem www.sagepub.com đối với các sản phẩm phần mềm), và các chương
trình này hữu ích khi cơ sở dữ liệu định tính lớn (thí dụ, hơn 500 trang đã được sao chép lại)
và khi nhà nghiên cứu muốn nhanh chóng tìm ra vị trí của những điều trích dẫn hữu ích và
nhiều quan điểm về một phạm trù hay một chủ đề. Như với bất kỳ chương trình phần mềm
nào, các chương trình phần mềm định tính đòi hỏi thời gian và kỹ năng học hỏi và sử dụng
một cách hữu hiệu, mặc dù các cuốn sách để học các chương trình này đang có sẵn rộng rãi
(thí dụ, Weitzman và Miles, 1995).


Bước 4
Hãy sử dụng qui trình mã hóa để tạo ra một sự mô tả về môi trường hay
những người cũng như những phạm trù hoặc chủ đề cho việc phân tích.
Sự mô tả (Description) bao gồm việc diễn đạt thông tin về những người,
những nơi, hay những sự kiện trong một môi trường. Các nhà nghiên cứu
có thể tạo ra các mã cho sự mô tả này. Phân tích này hữu ích trong việc
thiết kế những sự mô tả chi tiết cho các dự án nghiên cứu theo nghiên cứu
tình huống, theo dân tộc học, và theo tường thuật (kể chuyện). Kế đó, hãy
sử dụng sự mã hóa này để tạo ra một số lượng nhỏ các chủ đề (themes)
hay các phạm trù (categories), có lẽ từ năm đến bảy chủ đề hay phạm trù
cho một công trình nghiên cứu. Các chủ đề này là những chủ đề xuất hiện
như là các kết quả tìm thấy (findings) chủ yếu trong các công trình nghiên

cứu định tính và được trình bày dưới đề mục riêng biệt trong phần kết quả
tìm thấy của các công trình nghiên cứu. Những chủ đề này cần thể hiện
nhiều quan điểm từ các cá nhân và cần được chứng minh bằng nhiều lời
trích dẫn khác nhau và bằng chứng cụ thể.

Vượt xa hơn việc xác định các chủ đề trong suốt qui trình mã hóa, các
nhà nghiên cứu có thể làm nhiều việc với các chủ đề này để xây dựng các
tầng hay lớp (layers) bổ sung của phép phân tích phức tạp. Thí dụ, các
nhà nghiên cứu liên kết các chủ đề thành một bố cục tình tiết hay cốt
truyện (như trong các nghiên cứu theo tường thuật) hay phát triển các chủ
đề này thành một mô hình lý thuyết (như trong nghiên cứu theo lý thuyết
có cơ sở). Các chủ đề được phân tích đối với mỗi trường hợp hay tình
huống đơn lẻ và giữa các trường hợp hay tình huống khác nhau (như trong
các nghiên cứu tình huống), hay được định hình thành một sự mô tả tổng
quát (như trong nghiên cứu theo hiện tượng học). Những công trình
nghiên cứu định tính phức tạp và sắc bén đi xa hơn sự mô tả và sự xác
định chủ đề và tiến đến những sự liên kết chủ đề phức tạp.


Hãy đưa ra cách thức thể hiện sự mô tả và các chủ đề trong bài tường
thuật định tính. Cách tiếp cận phổ biến nhất là sử dụng một đoạn tường
thuật để truyền đạt các kết quả tìm thấy của phép phân tích. Đây có thể là
một thảo luận đề cập đến thứ tự thời gian xảy ra của các sự kiện, việc thảo
luận chi tiết về vài chủ đề (hoàn chỉnh với các chủ đề phụ, những minh
Bước 5

174

họa cụ thể, nhiều quan điểm từ các cá nhân và những lời trích dẫn), hay
một thảo luận với các chủ đề liên kết với nhau. Nhiều nhà nghiên cứu

theo phương pháp định tính cũng sử dụng các hình ảnh (ảnh, bản đồ, phim
v.v), hình (figures), và bảng như là những thứ phụ thêm cho các thảo luận
nói trên. Họ trình bày một mô hình qui trình (như trong nghiên cứu theo
lý thuyết có cơ sở), họ đưa ra một bản vẽ về địa điểm nghiên cứu cụ thể
(như trong nghiên cứu theo dân tộc học), hoặc họ chuyển tải thông tin mô
tả về mỗi người tham gia trên một bảng (như trong các nghiên cứu tình
huống và nghiên cứu theo dân tộc học).



Bước cuối cùng trong phân tích dữ liệu liên quan đến việc đưa ra sự giải
thích (diễn giải) về dữ liệu hoặc ý nghĩa của dữ liệu. “Những bài học đã
học được là những bài học gì” thể hiện điều cốt lõi của ý tưởng này
(Lincoln và Guba, 1985). Các bài học này có thể là sự giải thích cá nhân
của nhà nghiên cứu, được diễn đạt theo sự hiểu biết cá nhân mà nhà điều
tra đem vào công trình nghiên cứu từ văn hóa, lịch sử, và những kinh
nghiệm của riêng mình. Bài học cũng có thể là một ý nghĩa được rút ra từ
việc so sánh các kết quả tìm thấy với thông tin được thu thập từ tài liệu
hay các lý thuyết hiện còn tồn tại. Theo cách này, các tác giả cho rằng các
kết quả tìm thấy xác nhận thông tin trong quá khứ là đúng hoặc khác với
thông tin trong quá khứ. Bài học cũng có thể đề xuất những câu hỏi mới
cần được hỏi – đó là những câu hỏi được nêu lên bởi dữ liệu và phép phân
tích dữ liệu mà nhà điều tra không thấy trước được sớm hơn trong công
trình nghiên cứu của mình. Wolcott (1994) nói rằng một cách thức mà các
nhà dân tộc học có thể kết thúc một công trình nghiên cứu là hỏi những
câu hỏi mới. Cách tiếp cận đặt câu hỏi cũng được sử dụng trong những
cách tiếp cận theo phương thức tuyên truyền vận động và khuyến khích sự
tham gia của mọi người trong nghiên cứu định tính. Hơn nữa, khi các nhà
nghiên cứu theo phương pháp định tính sử dụng một lăng kính (quan
điểm) lý thuyết, thì họ có thể hình thành những lời giải thích đòi hỏi các

chương trình hành động để đạt được cải cách và thay đổi. Như thế, sự giải
thích dữ liệu trong nghiên cứu định tính có thể dưới nhiều hình thức, được
điều chỉnh cho thích ứng với các loại thiết kế nghiên cứu khác nhau, và có
tính linh hoạt để chuyển tải ý nghĩa cá nhân, ý nghĩa dựa trên nghiên cứu,
và ý nghĩa về hành động.
Bước 6



CHỨNG THỰC TÍNH CHÍNH XÁC CỦA CÁC KẾT QUẢ TÌM THẤY
(VALIDATING THE ACCURACY OF FINDINGS)

Mặc dù việc chứng thực tính chính xác hay chứng thực giá trị (validation) của các kết quả tìm
thấy (findings: kết luận rút ra được, thông tin phát hiện được, hay quan điểm được hình thành
sau khi thực hiện nghiên cứu) xảy ra khắp các bước trong qui trình nghiên cứu, phần thảo luận
này tách riêng việc chứng thực tính chính xác này ra để nhấn mạnh tầm quan trọng của nó.
Những người xây dựng đề án nghiên cứu cần truyền đạt các bước họ sẽ tiến hành trong các
công trình nghiên cứu của họ để kiểm tra tính chính xác và tính đáng tin (credibility) của các
kết quả họ tìm thấy.

Trong nghiên cứu định tính, thuật ngữ giá trị (validity) không có cùng những ý bao
hàm thêm như thuật ngữ giá trị (validity) trong nghiên cứu định lượng, thuật ngữ này cũng

175

không phải là thuật ngữ đồng hành của thuật ngữ độ tin cậy (reliability) (xem xét tính ổn định
hay tính nhất quán của các câu trả lời như được thảo luận trong Chương 9 về phương pháp
định lượng) hoặc khả năng khái quát hóa (giá trị bên ngoài của việc áp dụng các kết quả vào
những môi trường mới, những người hay những mẫu mới, mà cũng đã được thảo luận trong
Chương 9). Theo một cách thức hạn chế, các nhà nghiên cứu theo phương pháp định tính có

thể sử dụng độ tin cậy để kiểm tra về các mô thức nhất quán của việc phát triển chủ đề giữa
vài nhà điều tra trong một nhóm. Các nhà nghiên cứu theo phương pháp định tính cũng có thể
khái quát hóa một số khía cạnh của phép phân tích nhiều tình huống (Yin, 1989) ra cho các
tình huống khác. Tuy nhiên, nhìn chung thì độ tin cậy và khả năng khái quát hóa đóng một
vai trò thứ yếu trong điều tra định tính.

Mặt khác, giá trị (validity) được hiểu là sức mạnh của nghiên cứu định tính, nhưng giá
trị (validity) được sử dụng để đề xuất việc xác định liệu các kết quả tìm thấy có chính xác,
nhìn trên quan điểm của nhà nghiên cứu, của người tham gia, hay của người đọc của một báo
cáo hay không (Creswell và Miller, 2999). Có nhiều thuật ngữ (tiếng Anh) trong tài liệu về
nghiên cứu định tính (viết bằng tiếng Anh) nói về ý tưởng này, các thuật ngữ như “tính đáng
tin cậy” (“trustworthiness”), “tính xác thực” (“authenticity”), và “tính đáng tin” (“credibility”)
(Creswell và Miller, 2001, và đây là một đề tài được tranh luậnrất nhiều (Lincoln và Guba,
2000).

Một quan điểm về thủ tục mà tôi đề xuất cho các đề án nghiên cứu là xác định và thảo
luận một, hay nhiều hơn một, chiến lược có sẵn để kiểm tra tính chính xác của các kết quả tìm
thấy. Có tất cả là tám chiến lược chủ yếu, được sắp xếp theo thứ tự từ những chiến lược được
sử dụng thường xuyên nhất và dễ thực hiện đến những chiến lược thỉnh thoảng mới được sử
dụng và khó thực hiện:

• Qui ra tam giác (triangulate) các nguồn dữ liệu khác nhau của thông tin bằng cách xem
xét bằng chứng từ các nguồn này và sử dụng nó để xây dựng sự biện minh có mạch lạc
cho các chủ đề.

• Sử dụng việc kiểm tra của thành viên (member-checking) để xác định tính chính xác của
các kết quả định tính thông qua việc đem báo cáo cuối cùng hay những phần mô tả cụ thể
hay các chủ đề trở lại cho những người tham gia vào nghiên cứu và xác định liệu những
người tham gia này có cảm thấy chúng chính xác hay không.


• Sử dụng sự mô tả súc tích và có bề dày (rich, thick description) để truyền đạt các kết quả
tìm thấy. Điều này có thể làm cho người đọc hình dung hay cảm thấy như mình ở trong
môi trường được nghiên cứu và mang lại cho thảo luận một ít kinh nghiệm chung.

• Làm rõ sự thiên lệch (bias) mà nhà nghiên cứu đem vào công trình nghiên cứu. Việc tự
suy ngẫm này tạo ra một bài tường thuật chân thật và cởi mở mà sẽ gây tiếng vang tốt đối
với người đọc.

• Ngoài ra, cũng trình bày thông tin tiêu cực hay khác biệt (negative or discrepant
information) có nội dung trái ngược với các chủ đề đã tìm ra. Bởi vì cuộc sống thực bao
gồm các quan điểm khác nhau mà những quan điểm này không luôn luôn thống nhất với
nhau, nên việc thảo luận về thông tin trái ngược làm tăng thêm tính đáng tin của một báo
cáo đối với người đọc.

• Bỏ ra thời gian dài (prolonged time) ở hiện trường. Theo cách này, nhà nghiên cứu xây
dựng được một sự hiểu biết sâu về hiện tượng được nghiên cứu và có thể truyền đạt chi

176

tiết về địa điểm nghiên cứu và những người được nghiên cứu mà mang lại tính đáng tin
cho báo cáo tường thuật.

• Sử dụng việc phỏng vấn của người đồng đẳng (peer debriefing) để nâng cao tính chính
xác của báo cáo. Qui trình này liên quan đến việc tìm một người (một người phỏng vấn
đồng đẳng) xem xét lại và hỏi các câu hỏi về công trình nghiên cứu định tính đang xét sao
cho báo cáo sẽ gây tiếng vang đối với những nguời khác ngoài nhà nghiên cứu.

• Sử dụng một nhà kiểm tra đánh giá bên ngoài (external auditor) để xem xét lại toàn bộ dự
án nghiên cứu. Khác với người phỏng vấn đồng đẳng, nhà kiểm tra đánh giá này là người
mới đến, chưa quen với nhà nghiên cứu và dự án nghiên cứu này và có thể đưa ra sự đánh

giá về dự án suốt qui trình nghiên cứu hay ở phần kết thúc của công trình nghiên cứu. Vai
trò của nhà kiểm tra đánh giá này tương tự với vai trò của một kiểm toán viên tài chính, và
có những câu hỏi đặc biệt mà các nhà kiểm tra đánh giá có thể nêu lên.


BÀI TƯỜNG THUẬT ĐỊNH TÍNH
(QUALITATIVE NARRATIVE)

Kế hoạch đối với một thủ tục định tính cần phải kết thúc bằng một số ý kiến nhận xét về bài
tường thuật mới nổi lên từ việc phân tích dữ liệu. Có nhiều loại tường thuật khác nhau, và
những thí dụ từ các tập san nghiên cứu học thuật sẽ minh họa các mô hình tường thuật. Trong
một kế hoạch nghiên cứu, hãy xét đến việc đưa ra một số điểm về bài tường thuật.

Trước hết, hãy cho biết những hình thức sẽ được sử dụng trong bài tường thuật.
Những hình thức này có thể là một báo cáo khách quan, những kinh nghiệm, về công việc tại
hiện trường (Van Maaner, 1988), một bảng sắp xếp các sự kiện theo thứ tự thời gian, một mô
hình về qui trình, một câu chuyện mở rộng, một phép phân tích theo từng tình huống hay giữa
các tình huống, hay một chân dung mô tả chi tiết (Creswell, 1998).

Ở cấp độ cụ thể, những qui ước có thể là

• Thay đổi việc sử dụng những đoạn trích dẫn dài, ngắn, và gắn chặt vào văn bản.

• Viết kịch bản cuộc đàm thoại (cuộc nói chuyện) và trình bày cuộc đàm thoại theo ngôn
ngữ (cách diễn đạt) khác để phản ánh độ nhạy về văn hóa.

• Trình bày thông tin văn bản dưới dạng bảng, biểu (thí dụ các ma trận)

• Sử dụng lời diễn đạt hay ngôn từ trình bày của những người tham gia trong nghiên cứu.


• Đan xen những đoạn trích dẫn với những đoạn diễn giải (của tác giả)

• Sử dụng những đoạn in thụt vào hay cách định dạng đặc biệt khác của bản thảo
(manuscript) để thu hút sự chú ý của người đọc đến những đoạn trích dẫn từ những người
tham gia trong nghiên cứu.

• Sử dụng ngôi thứ nhất, số ít “Tôi” hay ngôi thứ nhất, số nhiều hay tập thể “Chúng tôi,
Chúng ta” trong hình thức tường thuật.


177

• Sử dụng các phép ẩn dụ (thí dụ, hãy xem Richardson, 1990, tác giả này có thảo luận một
số trong các hình thức ẩn dụ này)

• Sử dụng phương pháp tường thuật thường được dùng trong phạm vi một chiến lược điều
tra định tính (thí dụ, sự mô tả trong các nghiên cứu tình huống và nghiên cứu theo dân tộc
học, một câu chuyện chi tiết trong nghiên cứu tường thuật). Ngoài ra, hãy mô tả kết cục
của bài tường thuật sẽ được so sánh như thế nào với các lý thuyết và tài liệu tổng quát về
đề tài đang được nghiên cứu. Trong nhiều bài viết về nghiên cứu định tính, các nhà
nghiên cứu thảo luận về tài liệu trong quá khứ vào cuối của công trình nghiên cứu (hãy
xem nội dung thảo luận trong Chương 2).


Thí dụ 10.1 Các Thủ tục Nghiên cứu Định tính

Sau đây là một thí dụ về một thủ tục nghiên cứu định tính đuợc viết như một phần của một đề
án nghiên cứu làm luận án tiến sĩ (D. Miller, 1992). Dự án của Miller là một dự án nghiên
cứu theo dân tộc học về những kinh nghiệm năm đầu tiên của hiệu trưởng của một trường đại
học đào tạo chính qui 4 năm. Khi tôi trình bày thảo luận này, tôi sẽ tham chiếu trở lại những

phần đã dược đề cập trong chương này, và nêu bật những câu tham chiến này bằng cách in
chữ đậm. Ngoài ra, trong thảo luận dưới đây, tôi vẫn giữ nguyên việc sử dụng thuật ngữ
người cung cấp thông tin (informant) của Miller, mặc dù ngày nay chúng ta nên sử dụng một
thuật ngữ thích hợp hơn, đó là thuật ngữ người tham gia vào nghiên cứu (participant).


Học thuyết Nghiên cứu Định tính

Học thuyết nghiên cứu định tính có nguồn gốc ở ngành nhân loại học về văn hóa (cultural
anthropology) và xã hội học của Hoa Kỳ (Kirk & Miller, 1986). Học thuyết nghiên cứu định
tính chỉ mới được các nhà nghiên cứu về giáo dục chấp nhận và sử dụng gần đây (Borg và Gall,
1989). Chủ đích của nghiên cứu định tính là hiểu biết được một tình hình xã hội, một sự kiện
hay biến cố, một vai trò, một nhóm, hay một sự tương tác cụ thể nào đó (Locke, Spirduso, và
Silverman, 1987). Nghiên cứu định tính chủ yếu là một quá trình mang tính tìm hiểu, điều tra
trong đó nhà nghiên cứu hiểu ra được một cách từ từ một hiện tượng xã hội bằng việc đối chiếu
(so sánh sự khác nhau), so sánh, sao chép hay mô phỏng, lập danh mục và phân loại đối tượng
nghiên cứu. (Miller và Huberman, 1984). Marshall và Rossman (1989) cho rằng điều này đòi
hỏi sự đắm mình vào cuộc sống hàng ngày của môi trường được chọn cho công trình nghiên
cứu; nhà nghiên cứu đi vào thế giới của những người cung cấp thông tin (người tham gia vào
nghiên cứu) và, thông qua sự tương tác tiếp diễn, tìm cho được những quan điểm của những
người cung cấp thông tin và những ý nghĩa từ họ. (Tác giả đề cập đến những giả định định
tính).

Các nhà học thuật nêu ý kiến rằng chúng ta có thể phân biệt nghiên cứu định tính với hệ
phương pháp nghiên cứu định lượng bằng nhiều đặc điểm độc đáo vốn có trong thiết kế nghiên
cứu định tính. Sau đây là tổng hợp về những giả định thường được diễn đạt rõ ràng liên quan
đến những đặc điểm do nhiều nhà nghiên cứu khác nhau trình bày.

1. Nghiên cứu định tính diễn ra trong những môi trường tự nhiên, nơi mà hành vi của con
người và các sự kiện xảy ra.

2. Nghiên cứu định tính dựa trên những giả định rất khác với các thiết kế nghiên cứu định
lượng. Lý thuyết hay các giả thuyết không được thiết lập tiên nghiệm (a priori).
3. Nhà nghiên cứu là công cụ chủ yếu trong việc thu thập dữ liệu thay vì một cơ chế vô tri
vô giác nào đó là công cụ chủ yếu (Eisner, 1991; Frankel và Wallen, 1990; Lincoln và
Guba, 1985; Meriam, 1988).

178

4. Dữ liệu mới nổi lên từ một công trình nghiên cứu định tính mang tính chất mô tả. Đó
là, dữ liệu được báo cáo bằng lời diễn đạt (chủ yếu là lời diễn đạt của người tham gia)
hay các hình ảnh, chứ không phải bằng số (Fraenkel và Wallen, 1990; Locke và những
người khác; 1987; Marshall và Rossman, 1989; Merriam, 1988).
5. Trọng tâm của nghiên cứu định tính được đặt vào những cảm nhận và những kinh
nghiệm của những người tham gia vào nghiên cứu, và cách họ hiểu biết được đời sống
của họ (Fraenkel và Wallen, 1990; Locke và những người khác, 1987; Merriam, 1988).
Vì thế cho nên sự cố gắng là nhằm hiểu biết được không phải là một hiện thực mà nhiều
hiện thực (Lincoln và Guba, 1985).
6. Nghiên cứu định tính tập trung vào quá trình đang xảy ra cũng như sản phẩm (kết quả)
hay kết cục. Các nhà nghiên cứu đặc biệt quan tâm đến việc hiểu biết được sự việc xảy
ra như thế nào (Fraenkel và Wallen, 1990; Marriam, 1988).
7. Cách diễn giải theo ký hiệu tượng ý (ideographic) được sử dụng. Nói cách khác. Sự
chú ý được tập trung vào những điều chi tiết của một tình huống; và dữ liệu được giải
thích liên quan đến những điều chi tiết của một tình huống chứ không phải những điều
khái quát.
8. Nghiên cứu định tính là một thiết kế có tính mới nổi lên trong các kết cục được dàn xếp
của thiết kế này. Những ý nghĩa và lời giải thích được dàn xếp với các nguồn dữ liệu
của con người bởi vì chính những hiện thực của các chủ đề là điều mà nhà nghiên cứu
cố gắng dựng lại (Lincoln và Guba, 1985; Merriam, 1988).
9. Truyền thống nghiên cứu này dựa vào việc sử dụng kiến thức được hiểu ngầm, không
được truyền đạt rõ ràng (kiến thức theo trực giác và cảm nhận) bởi vì thường thì những

sắc thái của nhiều hiện thực có thể được nhận ra tốt nhất theo cách này (Lincoln và
Guba, 1985). Vì thế, cho nên, dữ liệu trong nghiên cứu định tính là không thể định
lượng được theo nghĩa truyền thống của thuật ngữ này.
10. Tính khách quan và tính xác thực là hết sức quan trọng đối với cả hai truyền thống
nghiên cứu định tính và định lượng. Tuy nhiên, những tiêu chí cho việc đánh giá một
công trình nghiên cứu định tính khác với nghiên cứu định lượng. Trước hết và trên hết,
nhà nghiên cứu cố đạt được tính có thể tin được, dựa trên sự cố kết, sự thấu hiểu và sự
hữu dụng về công cụ (Eisner, 1991) và tính đáng tin cậy (Lincoln và Guba, 1985) thông
qua một qui trình chứng thực hay xác minh chứ không phải thông qua các thước đo về
giá trị (validity) và độ tin cậy truyền thống (Các đặc điểm của nghiên cứu định tính
được đề cập).

Thiết kế Nghiên cứu theo Dân tộc học

Công trình nghiên cứu này sẽ sử dụng truyền thống nghiên cứu theo dân tộc học. Thiết kế này
đã nổi lên từ lĩnh vực nhân loại học, chủ yếu là từ những bài báo về học thuật của Bronislaw
Malinowski, Robert Park và Franz Boas (Jacob, 1987; Kirk và Miller, 1986). Chủ đích của
nghiên cứu theo dân tộc học là có được một bức tranh bao quát về đối tượng nghiên cứu với sự
nhấn mạnh đến việc mô tả những kinh nghiệm hằng ngày của các cá nhân bằng cách quan sát và
phỏng vấn họ và những người liên quan (Fraenkel và Wallen). Nghiên cứu theo dân tộc học
bao gồm việc phỏng vấn sâu và việc quan sát về một tình hình với tư cách là người tham gia,
tiếp diễn và liên tục (Jacob, 1987) và nỗ lực nắm bắt toàn bộ bức tranh cho thấy người ta mô tả
và cấu trúc thế giới của họ như thế nào (Fraenkel và Wallen, 1990). (Tác giả sử dụng cách
tiếp cận theo dân tộc học)

Vai trò của Nhà Nghiên cứu

Đặc biệt trong nghiên cứu định tính, vài trò của nhà nghiên cứu như là công cụ chủ yếu cho việc
thu thập dữ liệu đòi hỏi phải tiến hành việc xác định các giá trị được cá nhân nhà nghiên cứu
chấp nhận, các giả định, và các thiên lệch ngay từ ban đầu của công trình nghiên cứu. Sự đóng

góp của nhà điều tra vào môi trường nghiên cứu có thể là hữu ích và tích cực chứ không phải là
phương hại (Locke và những người khác, 1987). Những nhận thức của tôi về giáo dục đại học
và chức vụ hiệu trưởng trường đại học đã được định hình bởi những kinh nghiệm cá nhân của
tôi. Từ tháng Tám năm 1980 đến tháng Năm năm 1990, tôi phục vụ như một người quản lý đại
học tại một khu đại học tư nhân có từ 500 đến 5.000 sinh viên. Gần đây hơn (1987-1990), tôi là

179

Trưởng Bộ phận phụ trách Đời sống của Sinh viên tại một trường đại học nhỏ tạI Midwest ở
Hoa Kỳ. Là một thành viên trong hội đồng của Hiệu trưởng, tôi đã liên hệ đến tất cả các hoạt
động và các quyết định về quản lý của hội đồng ở cấp cao nhất và đã làm việc chặt chẽ với tập
thể cán bộ giảng dạy, các quan chức trong hội đồng của Hiệu trưởng, ông hiệu trưởng và hội
đồng quản trị. Ngoài việc chịu trách nhiệm trước ông hiệu trưởng, tôi đã làm việc với ông suốt
năm đầu tiên ông đảm nhận chức vụ hiệu trưởng. Tôi tin rằng sự hiểu biết này của tôi về bối
cảnh và vai trò của hiệu trưởng nâng cao sự nhận biết, kiến thức và sự nhạy cảm của tôi đối với
nhiều trong số các thách thức, các quyết định và các vấn đề mà một hiệu trưởng trong năm đầu
tiên gặp phải, và sẽ trợ giúp tôi trong việc làm việc với người cung cấp thông tin (người tham
gia) trong nghiên cứu này. Tôi mang vào công trình nghiên cứu này kiến thức về cả cơ cấu của
giáo dục đại học lẫn vai trò của chức vụ hiệu trưởng đại học. Sự chú ý đặc biệt sẽ được tập
trung vào vai trò của vị hiệu trưởng mới trong việc khởi động sự thay đổi, xây dựng quan hệ,
đưa ra quyết định, và mang lại năng lực lãnh đạo và tầm nhìn.

Do những kinh nghiệm trước đây trong việc làm việc chặt chẽ vớI một vị hiệu trưởng mới ở
đại học, nên tôi đem vào công trình nghiên cứu này một số thiên lệch nhất định. Mặc dù mọi nỗ
lực sẽ được thực hiện để đảm bảo tính khách quan, nhưng những thiên lệch nói trên có thể định
hình cách thức tôi nhìn nhận và hiểu dữ liệu tôi thu thập được và cách thức tôi giải thích (diễn
giải) những kinh nghiệm của mình. Tôi bắt đầu công trình nghiên cứu này với quan điểm cho
rằng chức vụ hiệu trưởng trường đại học là một chức vụ đa dạng và thường khó khăn. Mặc dù
những kỳ vọng là hết sức lớn, nhưng tôi đặt ra câu hỏi hiệu trưởng có bao nhiêu quyền lực để
khởi động sự thay đổi và mang lại năng lực lãnh đạo và tầm nhìn. Tôi nhìn nhận năm thứ nhất

là hết sức quan trọngl; tràn đầy những sự điều chỉnh, những điều chán nãn, những điều bất ngờ
và những thách đố ngoài dự kiến (Tác giả suy ngẫm về vai trò của mình trong công trình
nghiên cứu).

Ấn định Ranh giới cho Công trình Nghiên cứu

Môi trường

Công trình nghiên cứu này sẽ được tiến hành ở khuôn viên của một đại học cấp tiểu bang tại
Midwest. Đại học này nằm trong một cộng đồng nông thôn miền Midwest. Số sinh viên của
trường đại học này là 1.700 người. Dân số của thị trấn mà trường này tọa lạc chỉ có 1.000
người. Như thế 1.700 sinh viên của trường làm tăng tổng số người ở thị trấn này lên gần gấp ba
lần khi các lớp đang học. Trường đại học này cấp bằng đại học đại cương hai năm, bằng cử
nhân và bằng thạc sĩ trong 51 chuyên khoa.

Tác nhân hay chủ thể (Actors)

Người cung cấp thông tin (người tham gia) trong công trình nghiên cứu này là ông Hiệu trưởng
mới của trường đại học cấp tiểu bang ở Midwest. Người cung cấp thông tin chủ yếu trong công
trình nghiên cứu này là ông Hiệu trưởng. Tuy nhiên, tôi sẽ quan sát ông trong bối cảnh các
cuộc họp của hội đồng phụ trách quản lý. Hội đồng của Hiệu trưởng bao gồm ba Hiệu phó (phụ
trách về Giáo vụ, Quản lý hành chính, Sinh viên Vụ) và hai Trưởng Khoa (phụ trách Đào tạo
Trên Đại học và Giáo dục Bổ túc, Tu nghiệp hay dành cho Người Lớn tuổi).

Sự kiện

Bằng cách sử dụng hệ phương pháp nghiên cứu theo dân tộc học, trọng tâm của công trình
nghiên cứu này sẽ là những kinh nghiệm hằng ngày và những sự kiện xảy ra của ông hiệu
trưởng mới của trường đại học, và những nhận thức và ý nghĩa gắn với những kinh nghiệm đó
như được diễn đạt bởi người cung cấp thông tin. Điều này bao gồm việc tiếp thu những sự kiện

hay thông tin đáng ngạc nhiên, và hiểu ra được những sự kiện và các vấn đề có tính chất quyết
định nảy sinh.

Qui trình


180

Sự chú ý đặc biệt sẽ được tập trung vào vai trò của ông hiệu trưởng mới trong việc khởi động sự
thay đổi, xây dựng mối quan hệ, đưa ra quyết định và mang lại năng lực lãnh đạo và tầm nhìn
(Tác giả đề cập đến những ranh giới hay giới hạn của việc thu thập dữ liệu).

Những Điều Cân nhắc về Đạo lý

Hầu hết các tác giả thảo luận về thiết kế nghiên cứu định tính đều đề cập đến tầm quan trọng
của những điều cân nhắc về đạo lý (Locke và những người khác, 1982; Marshall và Rossman,
1989; Merriam, 1988; Spradley, 1980). Trước hết và trên hết, nhà nghiên cứu có nghĩa vụ phải
tôn trọng các quyền, các nhu cầu, các giá trị và những mong muốn của (những) người cung cấp
thông tin (người tham gia trong nghiên cứu). Trong một chừng mực nào đó, nghiên cứu theo
dân tộc học luôn luôn mang tính gây trở ngại. Việc quan sát trong vai trò người tham gia xâm
phạm đến cuộc sống của người cung cấp thông tin (Spradley, 1980) và thông tin nhạy cảm
thường bị tiết lộ. Điều này được quan tâm đặc biệt trong công trình nghiên cứu này, nơi mà
chức vụ và tổ chức (trường đại học) của người cung cấp thông tin rất dễ được chú ý. Những
biện pháp bảo vệ an toàn sau đây sẽ được sử dụng để bảo vệ các quyền của người cung cấp
thông tin: 1) những mục đích nghiên cứu sẽ được diễn đạt bằng miệng và bằng văn bản rõ ràng
sao cho người cung cấp thông tin hiểu rõ mục đích nghiên cứu này (bao gồm phần mô tả về việc
dữ liệu sẽ được sử dụng như thế nào), 2) nhà nghiên cứu sẽ nhận được sự cho phép bằng văn
bản từ người cung cấp thông tin để tiến hành công trình nghiên cứu như đã diễn đạt rõ ràng ở
trên, 3) một mẫu đơn về miễn trừ liên quan đến nghiên cứu sẽ được nộp lên Institutional Review
Board (IRB: Hội đồng Duyệt xét về Thể chế) (Các Phụ đính B

và B
1 2
), 4) người cung cấp thông
tin sẽ được thông báo về tất cả công cụ và hoạt động thu thập dữ liệu, 5) người cung cấp thông
tin sẽ được nhà nghiên cứu cung cấp những bản sao chép lại đúng từng lời và những lời giải
thích bằng văn bản cũng như các báo cáo, 6) các quyền, lợi ích và mong muốn của người cung
cấp thông tin sẽ được xem xét trước tiên khi đưa ra những chọn lựa về việc báo cáo dữ liệu, và
7) quyết định cuối cùng về tình trạng nặc danh (giấu tên) của người cung cấp thông tin sẽ tùy
thuộc hoàn toàn vào người cung cấp thông tin. (Tác giả xử lý các vấn đề về đạo lý và đề cập
đến sự duyệt xét của IRB).

Các Chiến lược Thu thập Thông tin

Dữ liệu sẽ được thu thập từ tháng Hai đến hết tháng Năm, năm 1992. Việc này sẽ bao gồm tối
thiểu là những cuộc phỏng vấn với người cung cấp thông tin được ghi âm, kéo dài 45 phút, hai
lần một tháng
*
(các câu hỏi phỏng vấn ban đầu, Phụ đính C), những quan sát về các cuộc họp
hội đồng phụ trách quản lý hai lần một tháng, các quan sát về những hoạt động hàng ngày kéo
dài hai giờ, hai lần một tháng và việc phân tích hai lần một tháng về lịch làm việc và tài liệu của
ông hiệu trưởng (tài liệu bao gồm biên bản cuộc họp, các bản ghi nhớ, các tài liệu công bố hay
xuất bản). Ngoài ra, người cung cấp thông tin đã đồng ý ghi âm những ấn tượng về những kinh
nghiệm của ông, những suy nghĩ và những điều cảm nhận trong một nhật ký được ghi băng
(những hướng dẫn đối với sự suy ngẫm được ghi âm, Phụ đính D). Hai cuộc phỏng vấn tiếp
theo để hoàn tất việc phỏng vấn sẽ được sắp xếp tiến hành vào cuối tháng Năm, 1992 (Hãy xem
Phụ đính E về kế hoạch thời gian và lịch biểu hoạt động được đề xuất). (Tác giả đề xuất sử
dụng các cuộc phỏng vấn mặt-đối-mặt, tham gia trong vai trò người quan sát, và thu nhận
các tài liệu cá nhân).

Để hỗ trợ trong giai đoạn thu thập dữ liệu, tôi sẽ sử dụng một sổ ghi tiến độ tại hiện trường,

cung cấp một bản mô tả chi tiết về những cách tôi sử dụng thời gian của mình khi tôi ở tại địa
điểm nghiên cứu, và tôi cũng sử dụng sổ ghi này trong giai đoạn sao chép lại và phân tích dữ
liệu (cũng so sánh sổ ghi này với cách thời gian được thật sự sử dụng trên thực tế như thế nào).
Tôi dự định ghi chép các chi tiết liên quan đến những sự quan sát của tôi trong một sổ ghi chép
hiện trường và giữ một cuốn nhật ký hiện trường để ghi chép theo thứ tự thời gian suy nghĩ,
cảm giác, kinh nghiệm và những nhận thức của riêng tôi trong suốt qui trình nghiên cứu (Tác
giả ghi thông tin có tính mô tả và thông tin có tính suy ngẫm).

*
Ghi chú về dịch thuật: (bi-monthly: có nghĩa là hai lần một tháng hoặc hai tháng một lần, ở đây có lẽ là hai lần
một tháng vì thời gian thu thập dữ liệu chỉ có 4 tháng).

181


Các Thủ tục Phân tích Dữ liệu

Merriam (1988) và Marshall và Rossman (1989) nêu ý kiến là việc thu thập dữ liệu và việc phân
tích dữ liệu phải là một qui trình đồng thời trong nghiên cứu định tính. Schatzman và Strauss
(1973) khẳng định rằng việc phân tích dữ liệu định tính chủ yếu đòi hỏi việc phân loại vật, người,
sự kiện và các tính chất biểu thị đặc trưng của chúng. Thông thường, trong suốt qui trình phân
tích dữ liệu, các nhà dân tộc học lập ký hiệu hay lập mã cho dữ liệu của họ bằng cách sử dụng
càng nhiều phạm trù càng tốt (Jacob, 1987). Họ tìm cách nhận diện và mô tả các mô thức và các
chủ đề, nhìn trên quan điểm của (những) người tham gia trong nghiên cứu, kế đó cố gắng hiểu và
giải thích các mô thức và các chủ đề này (Agar, 1980). Trong suốt qui trình phân tích dữ liệu, dữ
liệu sẽ được tổ chức, sắp xếp theo phạm trù hay loại và theo thứ tự thời gian xảy ra, được xem xét
lặp đi lặp lại, và được mã hóa liên tục. Một bản liệt kê các ý tưởng quan trọng mới xuất hiện sẽ
được ghi theo thứ tự xảy ra (như được đề xuất bởi Merriam, 1988). Các cuộc phỏng vấn được ghi
băng và nhật ký được ghi băng của người tham gia sẽ được sao chép lại đúng nguyên văn. Những
mục ghi vào các sổ ghi chép hiện trường và nhật ký hiện trường sẽ được xem xét lại đều đặn (Tác

giả mô tả các bước trong qui trình phân tích dữ liệu)

Ngoài ra, qui trình phân tích dữ liệu sẽ được trợ giúp bởi việc sử dụng một chương trình máy
tính về phân tích dữ liệu định tính được gọi là HyperQual. Raymond Padilla (Đại học Tiểu bang
Arizona) đã thiết kế HyperQual vào năm 1987 để sử dụng với máy tính Macintosh. HyperQual sử
dụng phần mềm HyperCard và giúp cho việc ghi và phân tích dữ liệu văn bản và đồ thị được dễ
dàng. Những ngăn xếp (stacks) đặc biệt được chỉ định để lưu giữ và tổ chức dữ Iiệu. Bằng cách
sử dụng chương trình máy tính HyperQual, nhà nghiên cứu có thể trực tiếp “nhập dữ liệu hiện
trường vào, bao gồm dữ liệu phỏng vấn, các quan sát, các bản ghi nhớ của nhà nghiên cứu, và các
phần minh họa . . . (và) gắn nhãn (hay lập mã) toàn bộ hay một phần của dữ liệu nguồn sao cho
các khúc hay đoạn dữ liệu có thể được lấy ra và sau đó được tái kết hợp theo một cấu hình mới,
rõ ràng và hữu ích” (Padilla, 1989, các trang 69-70). Các khúc hay đoạn dữ liệu có ý nghĩa có thể
được xác định, truy tìm, cách ly, tập hợp thành nhóm và tập hợp lại thành nhóm mới để phân tích.
Các phạm trù hay các tên mã có thể được nhập vào ngay từ đầu hay vào một thời điểm sau đó.
Mã có thể được thêm vào, thay đổi, hay xóa bỏ với bộ soạn thảo của HyperQual và văn bản có thể
được tìm kiếm để có được các phạm trù, các chủ đề, các từ ngữ hay cụm từ. (Tác giả đề cập đến
việc sử dụng phần mềm máy tính được đề xuất cho việc phân tích dữ liệu).

Sự Chứng thực hay Chứng minh Giá trị (Verification)

Để đảm bảo giá trị bên trong (internal validity), các chiến lược sau đây sẽ được sử dụng:

1. Phép qui ra thành tam giác về dữ liệu―Dữ liệu sẽ được thu thập thông qua nhiều nguồn
để bao gồm việc phân tích tài liệu, và các cuộc phỏng vấn, các quan sát;
2. Sự kiểm tra của thành viên―Người cung cấp thông tin sẽ phục vụ như một công cụ
kiểm tra trong suốt qui trình phân tích. Một cuộc đối thoại tiếp diễn liên quan đến
những lời giảI thích của tôi về thực tế và những ý nghĩa của người cung cấp thông tin sẽ
đảm bảo giá trị đích thực của dữ liệu;
3. Những quan sát lặp lại và dài hạn ở địa điểm nghiên cứu―Những quan sát đều đặn và
lặp lại về những hiện tượng và môi trường tương tự sẽ diễn ra tại địa điểm nghiên cứu

trong thời kỳ bốn tháng;
4. Sự xem xét của người đồng đẳng―một trợ lý đã tốt nghiệp đại học và nghiên cứu sinh tiến sĩ
ở Khoa Tâm lý học Giáo dục sẽ làm người xem xét đồng đẳng.
5. Những phương thức nghiên cứu có tính khuyến khích sự tham gia của đối tượng nghiên
cứu―Người cung cấp thông tin sẽ tham gia vào hầu hết các giai đoạn của nghiên cứu
này, từ việc thiết kế dự án nghiên cứu đến việc kiểm tra những lời giải thích và các kết
luận; và
6. Sự làm rõ thiên lệch của nhà nghiên cứu―Ngay từ lúc đầu của nghiên cứu này, thiên
lệch của nhà nghiên cứu sẽ được trình bày rõ bằng văn bản trong đề án nghiên cứu để
làm luận án tiến sĩ này dưới đề mục “Vai trò của Nhà Nghiên cứu”.


182

Chiến lược chủ yếu được sử dụng trong dự án này để đảm bảo giá trị bên ngoài (external
validity) sẽ là đưa ra những sự mô tả chi tiết, súc tích và có bề dày sao cho bất cứ người nào
quan tâm đến khả năng sao chép sang nơi khác sẽ có một khuôn khổ vững chắc để so sánh
(Merriam, 1988). Ba kỹ thuật để đảm bảo độ tin cậy sẽ được sử dụng trong công trình nghiên
cứu này. Thứ nhất, nhà nghiên cứu sẽ cung cấp một bản mô tả chi tiết về trọng tâm của công
trình nghiên cứu, vai trò của nhà nghiên cứu, vị trí hay địa vị của người cung cấp thông tin
(người tham gia trong nghiên cứu) và cơ sở của việc chọn lựa này, và bối cảnh từ đó dữ liệu sẽ
được thu thập (Le Compte và Goetz, 1984). Thứ hai, phép qui ra thành tam giác hay đa phương
pháp về thu thập và phân tích dữ liệu được sử dụng, điều này tăng cường độ tin cậy cũng như
giá trị bên trong (Merriam, 1988). Cuối cùng, các chiến lược về thu thập và phân tích dữ liệu sẽ
được báo cáo chi tiết để cung cấp một bức tranh rõ ràng và chính xác về các phương pháp được
sử dụng trong công trình nghiên cứu này. Tất cả các giai đoạn của dự án nghiên cứu này sẽ chịu
sự xem xét kỹ lưỡng của một người kiểm tra đánh giá bên ngoài (external auditor), người này
giàu kinh nghiệm về các phương pháp nghiên cứu định tính (Tác giả đề cập đến các chiến
lược về đảm bảo hay chứng thực giá trị (strategies for validity) sẽ được sử dụng trong
công trình nghiên cứu này)


Báo cáo các Kết quả Tìm thấy (Reporting the Findings)

Lofland (1974) cho rằng mặc dù các chiến lược thu thập và phân tích dữ liệu là tương tự giữa các
phương pháp nghiên cứu định tính, nhưng cách thức báo cáo các kết quả nghiên cứu thì lại khác nhau.
Miles và Huberman (1984) đề cập đến tầm quan trọng của việc tạo ra một hình thức biểu hiện dữ liệu
và đề xuất rằng văn bản tường thuật là hình thức biểu hiện thường được dùng nhất cho dữ liệu định
tính. Đây là một công trình nghiên cứu theo thuyết tự nhiên. Vì thế cho nên, các kết quả sẽ được trình
bày dưới hình thức tường thuật, mô tả chứ không phải dưới hình thức một báo cáo khoa học. Sự mô tả
có bề dày sẽ là công cụ để truyền đạt một bức tranh bao quát về những kinh nghiệm của một hiệu
trưởng mới ở đại học. Dự án chung cuộc sẽ là sự kiến tạo những kinh nghiệm của người cung cấp
thông tin và những ý nghĩa mà người cung cấp thông tin gắn cho những kinh nghiệm đó. Điều này sẽ
cho phép người đọc trải nghiệm thông qua kinh nghiệm của ông hiệu truởng những thách thức ông gặp
phải và cung cấp một lăng kính (quan điểm) thông qua đó người đọc có thể nhìn nhận thế giới của đối
tượng. (Các kết quả của công trình nghiên cứu được đề cập).



TÓM TẮT


Chương này tìm hiểu các bước trong việc xây dựng và viết một thủ tục nghiên cứu định tính.
Với việc thừa nhận sự thay đổi khác nhau tồn tại trong các công trình nghiên cứu định tính,
chương này đưa ra bản hướng dẫn tổng quát về các thủ tục. Bản hướng dẫn này bao gồm một
phần thảo luận về những đặc điểm tổng quát của nghiên cứu định tính trong trường hợp các
nhóm khán giả chưa quen thuộc với cách tiếp cận nghiên cứu định tính. Những đặc điểm tổng
quát này là nghiên cứu định tính diễn ra trong môi trường hay bối cảnh tự nhiên, sử dụng
nhiều phương pháp thu thập dữ liệu, có tính mới nổi lên chứ không phải được hình dung
trước, dựa trên những lời giải thích (diễn giải) của nhà nghiên cứu, được nhìn nhận một cách
bao quát, có tính suy ngẫm, sử dụng cả qui trình lập luận qui nạp lẫn qui trình lập luận suy

diễn, và sử dụng một chiến lược điều tra. Bản hướng dẫn này khuyến nghị nhà nghiên cứu đề
cập đến một chiến lược điều tra, chẳng hạn như việc nghiên cứu các cá nhân (bài tường thuật,
hiện tượng học), việc tìm hiểu hay khảo sát tỉ mỉ các qui trình, các hoạt động và các sự kiện
(nghiên cứu tình huống, lý thuyết có cơ sở), hay việc xem xét hành vi cùng chung văn hóa của
các cá nhân và các nhóm (dân tộc học). Việc chọn lựa chiến lược cần được trình bày và biện
minh. Hơn nữa, đề án nghiên cứu cần đề cập đến vai trò của nhà nghiên cứu: những kinh
nghiệm trong quá khứ của nhà nghiên cứu, những quan hệ cá nhân với địa điểm nghiên cứu,
các bước để được phép đi vào hay thâm nhập địa điểm nghiên cứu, và các vấn đề về đạo lý

183

nhạy cảm. Phần thảo luận về thu thập dữ liệu cần phải bao gồm phương pháp lấy mẫu có mục
đích và các hình thức của dữ liệu sẽ được thu thập (nghĩa là những sự quan sát (đối tượng
nghiên cứu), các cuộc phỏng vấn, các tài liệu (tư liệu) bằng văn bản, và tài liệu nghe nhìn).
Ngoài ra, điều hữu ích là chỉ ra những loại biên bản hay bản nghi thức ghi dữ liệu (data
recording protocols) sẽ được sử dụng. Việc phân tích dữ liệu là một qui trình tiếp diễn trong
suốt cuộc nghiên cứu. Phân tích dữ liệu bao gồm việc phân tích thông tin từ những người
tham gia, và các nhà nghiên cứu thường sử dụng các buớc phân tích được tìm thấy trong
phạm vi một chiến lược điều tra chuyên biệt. Các bước có đặc tính chung hơn bao gồm việc
tổ chức và chuẩn bị sẵn sàng dữ liệu cho việc phân tích, việc đọc hết ngay từ đầu tất cả thông
tin, việc mã hóa dữ liệu, việc xây dựng từ các mã nói trên sự mô tả và sự phân tích liên quan
đến chủ đề, và việc trình bày các kết quả tìm thấy dưới hình thức các bảng, biểu, đồ thị, và
hình. Các bước có đặc tính chung này cũng bao gồm việc giải thích (diễn giải) dữ liệu dưới
ánh sáng của những bài học đã rút ra được, việc so sánh các kết quả tìm thấy với tài liệu trong
quá khứ và lý thuyết hiện hữu, việc nêu lên những câu hỏi mới, và/hoặc đưa ra chương trình
hành động nhằm cải cách. Đề án nghiên cứu cũng cần có một phần trình bày về các kết cục
kỳ vọng đối với công trình nghiên cứu. Cuối cùng, một bước quan trọng bổ sung trong việc
lập kế hoạch một đề án là đề cập đến các chiến lược sẽ được sử dụng để chứng thực tính chính
xác của các kết quả tìm thấy.


Các Bài tập Trau dồi Kỹ năng Viết

25. Hãy viết một kế hoạch về thủ tục sẽ được sử dụng trong công trình
nghiên cứu định tính của Anh/Chị. Sau khi viết kế hoạch này, hãy sử
dụng Bảng 10.1 làm danh sách kiểm tra để xác định sự toàn diện của
kế hoạch của Anh/Chị.

26. Hãy xây dựng một bảng mà bảng này liệt kê, trong một cột về phía
trái, những bước Anh/Chị dự định thực hiện để phân tích dữ liệu của
mình. Trong một cột về phía phải, hãy cho thấy các bước như chúng
có hiệu lực trực tiếp đối với dự án của Anh/Chị, cho thấy chiến lược
nghiên cứu Anh/Chị dự định sử dụng, và dữ liệu Anh/Chị đã thu thập
được.








184

BÀI ĐỌC THÊM


Bogdan, R. C., và Biklen, S. K. (1992). Nghiên cứu định tính cho giáo dục: Giới thiệu về
lý thuyết và các phương pháp. Boston: Nhà Xuất bản Allyn and Bacon.

Robert Bogdan và Sari Biklen cung cấp các chương sách trình bày về việc thu thập dữ

liệu định tính, việc phân tích dữ liệu, và việc viết ra các kết quả. Chương về thu thập
dữ liệu trình bày chi tiết các thủ tục liên quan trong việc sưu tập các bản ghi chép tại
hiện trường: các loại, nội dung và định dạng của chúng. Trong một chương khác, các
tác giả này đề xuất các kỹ thuật bố cục hữu ích trong việc viết nghiên cứu. Thí dụ về
các kỹ thuật này là việc sử dụng những đoạn trích dẫn, việc pha trộn phân tích và
những thí dụ, những lời giải thích, và việc sử dụng nhiều phương pháp trình bày.


Marshall, C., và Rossman, G. B. (1999). Thiết kế nghiên cứu định tính (lần xuất bản thứ
ba). Thousand Oaks, CA: Nhà Xuất bản Sage.

Catherine Marshall và Gretchen Rossman giới thiệu các thủ tục cho một đề án nghiên
cứu định tính. Ngoài việc đề cập đến các vấn đề liên quan đến việc chọn mẫu, các tác
giả này nêu rõ vai trò của nhà nghiên cứu, bao gồm việc thâm nhập địa điểm nghiên
cứu, quan hệ có qua có lại, tiểu sử cá nhân, và những nguyên tắc về đạo lý. Vài
chương bổ sung xem xét lại các phương pháp cả sơ cấp (ban đầu) lẫn thứ cấp về thu
thập dữ liệu, cũng như đưa ra các thủ tục chung trong việc phân tích dữ liệu định tính.
Cuốn sách này là một cuốn sách giới thiệu tuyệt vời về nghiên cứu định tính cũng như
về việc soạn thảo đề án nghiên cứu.


Tesch, R. (1990). Nghiên cứu định tính: Các loại phép phân tích và các công cụ phần
mềm. New York: Nhà Xuất bản Falmer.

Reneta Tesch đã biên soạn một cuốn sách giáo khoa về phân tích dữ liệu định tính mà
bao trùm các đề tài rộng như là các loại thiết kế nghiên cứu định tính, kỹ thuật mã hóa
dữ liệu, văn bản, và các chương trình phần mềm máy tính có sẵn để sử dụng cho việc
phân tích văn bản. Chương sách của bà về “Các Loại Nghiên cứu Định tính”, hoàn
chỉnh với một phần tổng quan bằng đồ thị về 20 loại thiết kế định tính, trình bày bốn
phạm trù về thiết kế định tính – đó là những đặc điểm của ngôn ngữ (cách diễn đạt),

việc khám phá những tính đều đặn hay hợp qui tắc, khả năng lĩnh hội nghĩa của văn
bản/hành động, và sự suy ngẫm. Đây là một hệ thống phân loại rất chi tiết và có thể
lĩnh hội được. Chương sách của bà về “Các Hệ thống Tổ chức và Làm sao để Xây
dựng các Hệ thống này” cung cấp một phương pháp mã hóa những bản sao chép lại.
Bà cũng đưa ra phần thảo luận hữu ích về các chương trình phần mềm định tính cho
việc phân tích dữ liệu văn bản.

185

×