Tải bản đầy đủ (.doc) (132 trang)

Địa lý kinh tế xã hội VN (Phần 2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (895.92 KB, 132 trang )

ĐỊA LÝ KINH TẾ - XÃ HỘI VIỆT NAM 2
(Tổ chức lãnh thổ các ngành kinh tế)
CHƯƠNG 3
TỔ CHỨC LÃNH THỔ NÔNG - LÂM - NGƯ
3.1. ĐẶC ĐIỂM CHUNG
3.1.1. Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp (SXNN)
- Sản xuất nông nghiệp được tiến hành trên phạm vi không gian rộng lớn . Đối với
SXNN thì đất đai là tư liệu sản xuất cơ bản nhất, ở đâu có đất đai thích hợp ở đó có thể phát triển
nông nghiệp. Vì vậy, trong việc phát triển và phân bố cần chú ý những vùng đất có qui mô lớn
(đồng bằng châu thổ) nên tổ chức thành những vùng CMH’ SXNN để tạo ra khối lượng hàng hoá
lớn; Những vùng đất hẹp cần phát triển nông nghiệp để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng tại chỗ ở mức
độ nhất định. Phân bố nông nghiệp cần chú ý đến việc sử dụng hợp lý, tiết kiệm đất.
- Sản xuất nông nghiệp gắn chặt với môi trường tự nhiên. Môi trường tự nhiên (đặc biệt
là đất đai, khí hậu, nguồn nước) tác động mạnh và thường xuyên đến phát triển và phân bố nông
nghiệp. Vì vậy muốn phân bố hợp lý nền kinh tế nông nghiệp của một nước (một vùng), cần phải
ng/cứu kỹ và hiểu rõ những điều kiện tự nhiên để phân bố các loại cây trồng-vật nuôi thích hợp;
đồng thời phải có kế hoạch phòng chống, hạn chế những tác động tiêu cực của môi trường tài
nguyên đến sự phát triển và phân bố nông nghiệp.
- Sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ, thời gian lao động ngắn hơn thời gian sản
xuất. Thời vụ là đặc trưng của sản xuất nông nghiệp, mỗi loại cây trồng đều phát triển theo mùa
và thời gian sinh trưởng nhất định. Trong thời gian đó, cây trồng có thể tự phát triển mà không
cần tới sự tác động của con người. Vì vậy lao động trong nông nghiệp có lúc dồn dập, có lúc
nhàn rỗi, thời gian lao động bao giờ cũng ngắn hơn thời gian sản xuất. Để giảm tính thời vụ, sử
dụng hợp lý nguồn lao động ở nông thôn cần xác định một cơ cấu cây trồng - vật nuôi hợp lý, kết
hợp lao động với thời vụ. Để đạt hiệu quả cao trong SXNN cần thực hiện CMH’ với phát triển
tổng hợp, đa dạng hoá SXNN, kết hợp giữa trồng trọt với chăn nuôi, thực hiện các biện pháp
luân-xen-tăng-gối vụ, kết hợp tốt giữa N-L-N nhằm đa dạng hoá cơ cấu kinh tế nông thôn.
- Sản xuất nông nghiệp cần phải gắn CNCB’ và thị trường tiêu thụ (CNCB’). Gắn với
CNCB’ sẽ tạo chu trình sản xuất nông- CN hợp lý. Hình thức tổ chức này sẽ làm tăng giá trị của
sản phẩm nông nghiệp, nâng cao trình độ CMH’ sản xuất. Nước ta có nhiều vùng có thể hình
thành chu trình nông – CN về sản xuất – chế biến như cao su, chè, cà phê, mía đường.v.v.


3.1.2. Đặc điểm tổ chức lãnh thổ các ngành sản xuất nông - lâm – ngư (N-L-N)
a. Ngành trồng cây lương thực (LT). Cây LT có địa bàn phân bố rộng thường trùng với
địa bàn phân bố dân cư. Do đó cần phát triển cây LT (cả lúa và màu) nhằm giải quyết nhu cầu LT
ở trong nước; Mặt khác còn tạo ra những mặt hàng xuất khẩu có giá trị, giải quyết nhu cầu tiêu
dùng tại chỗ, hạn chế vận chuyển xa.Cây lương thực (trừ sắn) đều có thời vụ ngắn. Vì vậy, phân
1
bố nên chú ý tới việc xen canh - gối vụ - thâm canh - tăng vụ, rút ngắn thời vụ; đồng thời tuỳ theo
điều kiện sinh thái ở mỗi vùng mà bố trí cây trồng thích hợp. Sản phẩm cây lương thực khó bảo
quản và chuyên chở, có nhiều phụ phẩm cho phát triển chăn nuôi. Vì vậy, phân bố cây lương thực
phải kết hợp với các cơ sở công nghiệp chế biến; phải kết hợp với phân bố các cơ sở chăn nuôi
gia súc, gia cầm tạo ra sự cân đối giữa trồng trọt - chăn nuôi trong từng vùng.
b. Ngành trồng cây công nghiệp và cây ăn quả (cây CN)
- Đối với cây công nghiệp ngắn ngày, nên bố trí ở những vùng có độ dốc thấp, ở đồng
bằng, nên xen – luân - gối vụ với cây lương thực.
- Đối với cây công nghiệp dài ngày (cả cây ăn quả), nên bố trí thành các vùng chuyên
canh rộng lớn trên các loại thổ nhưỡng thích hợp với từng loại cây nhằm tạo ra khối lượng hàng
hóa và giá trị sản phẩm cao nhất. Độ dốc có thể cao hơn cây hàng năm.
- Phân bố cây công nghiệp (đặc biệt là cây công nghiệp lâu năm) cần chú ý tới số lượng
và chất lượng của nguồn lao động, truyền thống nghề nghiệp của dân cư . Bởi vì, sản xuất cây
công nghiệp lâu cần nhân công có kĩ thuật, có tập quán kinh nghiệm và hao phí nhiều lao động
hơn so với trồng cây lương thực, số ngày lao động thường gấp 2-3 lần so với trồng cây lương
thực, điều kiện cơ giới hoá cũng khó khăn hơn; Khi mở rộng diện tích trồng cây công nghiệp phải
tính đến việc bố trí lại nguồn lao động và sử dụng hợp lý các nguồn lao động theo thời vụ. Cây
công nghiệp lâu năm đòi hỏi vốn đầu tư lớn, lâu thu hồi vốn; khi phân bố cần điều tra, tính toán tỉ
mỉ hiệu quả sử dụng đất-vốn-lao động phù hợp với các điều kiện tự nhiên - kinh tế trong sử dụng
lâu dài, ổn định. Phân bố cây công nghiệp phải đảm bảo đạt sản lượng hàng hoá cao (vì phần lớn
các sản phẩm đều đưa ra khỏi vùng, chủ yếu để xuất khẩu), vì vậy phải lựa chọn những loại cây
thích hợp với điều kiện tự nhiên cụ thể, chọn những giống tốt nhất, và đáp ứng được với nhu cầu
thị trường. Sản phẩm cây công nghiệp rất đa dạng, phức tạp, khó chuyên chở và bảo quản, dễ hư
hao và giảm chất lượng. Vì vậy, khi phân bố cây công nghiệp phải chú ý xây dựng đồng bộ các

cơ sở CNCB’, tạo thành các hình thức liên kết nông – công nghiệp đa dạng.
c. Ngành chăn nuôi gia súc, gia cầm và thủy sản. Hoạt động chăn nuôi diễn ra liên tục
không mang tính thời vụ như trồng trọt, nhưng ít nhiều cũng phụ thuộc vào tính thời vụ của trồng
trọt. Tính chất 2 mặt của ngành chăn nuôi đòi hỏi phải bố trí LLLĐ thích hợp, ổn định từ khâu
gieo trồng cây thức ăn, chế biến thức ăn đến chăn nuôi; phòng trừ dịch bệnh; tiêu thụ sản phẩm.
Ngành chăn nuôi có quan hệ chặt chẽ với ngành trồng trọt (chăn nuôi cung cấp sức kéo, phân bón
cho trồng trọt; ngược lại, trồng trọt cung cấp thức ăn cho chăn nuôi). Như vậy, cần cân đối về sức
kéo - phân bón - thức ăn giữa chăn nuôi - trồng trọt. Ngành chăn nuôi có thể tạo ra nhiều sản
phẩm có giá trị khác nhau như sức kéo, phân bón, thịt, sữa, trứng, bơ, da, lông, .v.v. Tuỳ theo nhu
cầu của thị trường và tiêu dùng của xã hội mà xác định cơ cấu, qui mô vật nuôi phù hợp với
ĐKTN, kinh tế của từng vùng. Ví dụ: Những vùng thiếu sức kéo, thiếu phân bón, lại có đồng cỏ
nên phân bố loại gia súc lớn. Những vùng có đồng cỏ nhân tạo nên phát triển đàn bò sữa. Những
vùng công nghiệp tập trung và các thành phố lớn nên phân bố cơ sở chăn nuôi lợn, gia cầm, thịt
bò, bò sữa .v.v. Các sản phẩm của ngành chăn nuôi (thịt, trứng, sữa ) cần được chế biến và vận
chuyển kịp thời. Vì vậy, cần bố trí gần các cơ sở chế biến, gần vùng tiêu thụ.
3.2. CÁC NGÀNH SẢN XUẤT
2
A. NÔNG NGHIỆP
1. VAI TRÒ CỦA SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
TRONG NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN (KTQD)
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất sớm nhất của xã hội loài người. Trên thế giới,
cách đây khoảng 1 vạn năm con người đã biết thuần dưỡng động vật, trồng các loại cây dại và
dần dần biến chúng thành vật nuôi - cây trồng. Ở Việt Nam, nông nghiệp ra đời trong văn hóa
khảo cổ học Hòa Bình cách đây > 1 vạn năm. Bên cạnh việc trồng các cây có củ, con người đã
biết đến lúa (là lúa hoang, lúa trời). Sau này, trong quá trình phát triển tiếp theo, VH Phùng
Nguyên có vị trí quan trọng đối với việc hình thành nền "Văn minh lúa nước sông Hồng". Cách
đây trên 4.000 năm, ở lưu vực S.Hồng và các phụ lưu, các bộ tộc Phùng Nguyên với kĩ thuật
luyện kim và trồng lúa nước đã tạo nên những tiền đề vật chất và tinh thần đầu tiên cho thời đại
các Vua Hùng. Tổ tiên ta từ Văn hóa Phùng Nguyên đã sớm chọn cây lúa nước làm nguồn SX
chính, đặt nền móng cho nông nghiệp của nước ta phát triển như ngày nay (Lê Quốc Sử, 1998).

Với sự phát triển của KH-KT, nông nghiệp ngày càng được mở rộng; các giống cây trồng-vật
nuôi ngày càng đa dạng và phong phú. LT-cái ăn của con người thường được đặt lên hàng đầu.
• Vai trò của sản xuất nông nghiệp
- Nông nghiệp sản xuất ra LT - TP đáp ứng nhu cầu hàng ngày của con người. Đối với cả
nước (nói chung) và từng thành viên cụ thể (nói riêng), LT có ý nghĩa rất quan trọng. Nhờ có
chính sách phù hợp và sự tiến bộ trong sản xuất mà nền nông nghiệp nước ta phát triển không
ngừng, từ chỗ thiếu đói triển miên, đến nay không chỉ đáp ứng đủ cho nhu cầu trong nước mà còn
tham gia vào xuất khẩu với số lượng lớn. nông nghiệp còn có nhiệm vụ đáp ứng nhu cầu dinh
dưỡng trong khẩu phần ăn hàng ngày thông qua việc trồng các cây TP giàu đường, đạm, lipit
cũng như việc chăn nuôi gia súc, gia cầm, thủy sản.
- Nông nghiệp đảm bảo nguồn nguyên liệu cho công nghiệp CB’LT–TP: Các ngành công
nghiệp CB’TP, đồ uống, dệt, giấy, đồ dùng bằng da, đều sử dụng nguồn nguyên liệu từ nông
nghiệp. Vì thế trong chừng mực nhất định, nông nghiệp có ảnh hưởng đến sự phát triển và phân
bố ngành CNCB’. Để đáp ứng cho nhu cầu của việc chế biến, các vùng chuyên canh đã được
hình thành ở đồng bằng, TD-MN' (2 vùng trọng điểm lúa; 3 vùng chuyên canh cây công nghiệp;
các vùng chăn nuôi gia súc, gia cầm, thủy sản).
- Nông nghiệp góp phần vào việc phục vụ nhu cầu tái sản xuất mở rộng các ngành kinh
tế. Hiện nay, nông nghiệp vẫn chiếm trên 60,0% LĐXH. Khả năng thúc đẩy tái sản xuất mở rộng
của ngành này thể hiện ở chỗ: nông nghiệp cung cấp lao động dư thừa cho các ngành nhờ vào
việc áp dụng những tiến bộ của KH-KT (tất nhiên, đó là lao động thủ công, muốn sử dụng có
hiệu quả, cần phải có chiến lược đào tạo). Mặt khác, việc đẩy mạnh nông nghiệp tạo điều kiện
cho nhiều ngành cùng phát triển. Trong mối quan hệ đó, bản thân nông nghiệp lại là thị trường
rộng lớn để tiêu thụ sản phẩm của hàng loạt các ngành kinh tế khác.
3
- Nông nghiệp sản xuất ra những mặt hàng có giá trị xuất khẩu nhằm tăng thêm nguồn
ngoại tệ cho đất nước. Năm 2002, trị giá hàng XK trong N - L - N đạt 5.011,7 triệu USD (chiếm
30% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước), riêng hàng nông sản là 2.422,0 triệu USD. Gần đây,
tỉ trọng của nông nghiệp trong cơ cấu GDP có xu hướng giảm, nhưng giá trị tuyệt đối của ngành
vẫn tăng liên tục (đây là một xu thế tất yếu, phản ánh trình độ phát triển của nền sản xuất xã hội).
- Nông nghiệp giữ vị trí quan trọng trong nền KTQD do vai trò của nó đối với xã hội -

nuôi sống con người là không thể thay thế được. Trong công cuộc CNH’ và HĐH’ đất nước, thì
nông nghiệp được coi là đối tượng chủ yếu. Vì vậy, nông nghiệp sẽ được trang bị lại từ công cụ
cho đến các phương tiện SX; Bằng việc mở mang các ngành nghề mới, hướng vào SX các nông
phẩm hàng hóa. Bản thân nông nghiệp đang tự mình cải tạo và chuyển hướng SX, sử dụng lao
động cho phù hợp với cơ chế thị trường, tạo ra bộ mặt mới cho từng vùng nông thôn của cả nước.
2. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
2.1.1. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên (ĐKTN - TNTN)
a. Đất đai
Đất đai là tư liệu sản xuất quan trọng nhất trong nông nghiệp; cây trồng - vật nuôi là đối
tượng lao động trong sản xuất nông nghiệp. Chính vì thế, nhân tố quan trọng hàng đầu đối với
sản xuất nông nghiệp là đất đai rồi mới đến khí hậu và nguồn nước. Đất đai ảnh hưởng quyết
định đến qui mô, cơ cấu và phân bố nông nghiệp (đặc biệt là với ngành trồng trọt).
Nước ta có 2 nhóm đất chính (feralit và đất phù sa). Tuỳ theo các nhân tố, điều kiện hình
thành và sự tác động của con người mà các loại đất trên có sự phân hoá khác nhau.
▪ Đất miền núi, chủ yếu là đất feralit. Trong điều kiện khí hậu nhiệt đới-ẩm-gió mùa, phần
lớn vùng đồi núi của nước ta là đất feralit, lượng khoáng nguyên thấp, hàm lượng mùn không
cao, đất chua và có màu đỏ, hoặc đỏ-vàng của ôxyt sắt thích hợp với cây công nghiệp. Ngoài ra,
còn có một số loại đất khác: Đất xám phù sa cổ (rìa ĐB sông Hồng và nhiều nhất ở Đông Nam
Bộ). Đất này thích hợp với cây CN và cây ăn quả. Đất đen (macgalit) phát triển trên đá ba zơ (đá
ba dan, đá vôi), thường gặp ở thung lũng đá vôi (nhiều nhất ở miền Bắc), diện tích tuy không lớn
nhưng rất thích hợp với các cây CN có giá trị (quế, chè, thuốc lá, ). Tốt nhất trong các loại đất
đồi núi nước ta là đất ba dan (

2,0 triệu ha), tập trung ở Tây Nguyên, một phần Đông Nam Bộ
và có một vệt từ Phủ Quì (Nghệ An) kéo dài đến Vĩnh Linh, Gio Linh, Cam Lộ (Quảng Trị), loại
đất này rất thuận lợi cho cây CN (cao su, cà phê ) qui mô lớn.
▪ Đất ở đồng bằng, quan trọng nhất là đất phù sa 3,40 triệu ha (9,5% diện tích cả nước),
đây là loại đất tốt, hàm lượng dinh dưỡng cao, có độ pH trung tính, rất thích hợp cho trồng lúa.
Ngoài ra, ở các vùng đồng bằng còn có các loại đất khác như đất chua mặn, đất mặn, ven biển,
đất cát, đất glây hoá trong các vùng trũng, đất lầy thụt than bùn, loại đất này ít có giá trị đối với

sản xuất nông nghiệp và việc cải tạo cần nhiều vốn đầu tư.
4
▪ Thực trạng của việc sử dụng đất hiện nay: Qúa trình khai thác lãnh thổ cho đến nay
(2008) chúng ta mới đưa vào sử dụng 80,0% diện tích đất tự nhiên (trong đó 28,45% là đất nông
nghiệp). Vốn đất thuận lợi cho trồng lúa hầu như đã khai thác hết, để tận dụng tiếm năng của tự
nhiên ở ĐB sông Hồng nhân dân đã tìm mọi biện pháp để tăng vụ, nâng cao hệ số sử dụng đất
bằng cách thâm canh và đầu tư lao động sống để nâng cao năng suất. Phần lớn đất nông nghiệp
được trồng cây hàng năm, có thể luân canh - tăng vụ với lúa (như lúa - đay, lúa - thuốc lá); phần
còn lại chủ yếu trồng cây lâu năm, nhiều nhất là Tây Nguyên, Đ.Nam Bộ trên vùng đất bazan.
Vốn đất và khả năng mở rộng lại có sự khác nhau giữa các vùng lãnh thổ. Năm 2008, cả
nước có trên 33,0 triệu ha đất tự nhiên; sử dụng vào SXNN 9,42 triệu ha (28,45%), đất lâm
nghiệp 14,8 triệu ha (44,74 %), đất chuyên dùng và thổ cư 407,0 nghìn ha (6,56%), đất chưa sử
dụng 6,7 triệu ha (20,24%). Như vậy đất chưa sử dụng còn lớn, nhưng việc mở rộng diện tích lại
rất khó khăn, chủ yếu là đất dốc, thiếu nước, xói mòn và thoái hoá; Đất đồng bằng chưa sử dụng
còn rất ít, chủ yếu là đất phèn, đất mặn, đất ngập úng đòi hỏi phải đầu tư lớn. Hiện nay, đất nông
nghiệp (đặc biệt là đất trồng lúa) sử dụng vào mục đích khác như công nghiệp, GT, đô thị ngày
càng nhiều. Theo dự báo trong vòng 10 năm tới, đất nông nghiệp có thể mất đi mỗi năm ~ 2,8
vạn ha (trong đó đất trồng lúa ~ 1,0 vạn ha). Điều đó chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến nông nghiệp.
b. Khí hậu
- Nằm trong vòng đai nội chí tuyến Bắc bán cầu, khí hậu nước ta cơ bản là nhiệt đới.
Nhưng do hình thể trải dài theo nhiều vĩ tuyến ở rìa Đông Nam lục địa châu Á, cho nên chế độ
nhiệt có sự phân hóa khác nhau giữa các vùng. Từ đèo Hải Vân trở ra chịu ảnh hưởng của khối
không khí lạnh cực đới (NPc) tràn xuống, hàng năm có một mùa đông lạnh và một mùa hè nóng.
Từ đèo Hải Vân trở vào nóng quanh năm với một mùa khô và một mùa mưa. Tính chất nhiệt đới
làm cho tổng lượng bức xạ mặt trời lớn. Chế độ mưa phong phú (1.500 - 2.000mm/năm).
- Khí hậu nước ta lại có sự phân hoá đa dạng theo chiều Bắc - Nam, theo mùa và theo độ
cao. Ở miền Bắc có khí hậu nhiệt đới, ẩm, gió mùa với một mùa Đông lạnh. Ở vùng núi cao có
sương giá và rét đậm. Ở miền Nam khí hậu nhiệt đới điển hình với một mùa khô và mùa mưa. Ở
miền Trung là nơi giao thoa khí hậu giữa 2 miền Nam-Bắc.
▪ Ảnh hưởng của khí hậu đối với sản xuất nông nghiệp

- Trước hết là việc cung cấp lượng bức xạ lớn, nguồn ánh sáng dồi dào, nguồn nhiệt
phong phú cho cây trồng phát triển quanh năm và cho năng suất cao. Độ ẩm không khí cao,
lượng mưa dồi dào cho phép cây trồng có sức tái sinh mạnh mẽ, thúc đẩy nở hoa, kết trái. Cũng
trong điều kiện nóng - ẩm còn giúp cho cây ngắn ngày tăng thêm từ 1 đến 2 vụ/năm; đối với cây
dài ngày có thể khai thác được nhiều đợt, nhiều lứa/năm. Do các đặc trưng của khí hậu nước ta,
đã tạo điều kiện để bố trí một tập đoàn cây trồng - vật nuôi đa dạng bao gồm cả nhiệt đới, cận
nhiệt và ôn đới với hệ sinh thái phát triển bền vững (ở vùng núi cao

1.500m, khí hậu mát mẻ
cho phép phát triển tập đoàn cây trồng-vật nuôi cận nhiệt và ôn đới; ở miền Bắc có mùa Đông
lạnh là tiền đề để phát triển cây vụ đông).
- Ở mỗi vùng khí hậu lại có sự tác động khác nhau đến sản xuất nông nghiệp: Lãnh thổ
trải dài 15 vĩ độ trong vùng nội chí tuyến BBC, hẹp ngang, lượng phân bố bức xạ và nhiệt - ẩm sẽ
5
khác nhau (cả về thời gian và không gian giữa các vùng lãnh thổ), mối quan hệ giữa các khối khí
cũng vậy. Vì vậy: Ở phía bắc đèo Hải Vân, tính chất chí tuyến được tăng cường thêm bởi các
khối khí lạnh-khô vào mùa Đông (mỗi năm ~20 đợt). Biên độ nhiệt TB chênh lệch tới 11
0
C, còn
giữa cực trị nhiệt (tối thiểu và tối cao) lên tới 40
0
C. Sự nhiễu loạn về thời tiết đã tạo cho nửa phần
phía Bắc nước ta một hệ sinh thái cực đoan giữa 2 mùa nóng-lạnh. Ở đây thích hợp hơn cả là các
cây ngắn ngày và cây ngày ngắn; đối với cây dài ngày và cây lâu năm, nên chọn cây có biên độ
sinh thái rộng của vùng cận nhiệt (chè, hồi ) thì mới cho năng suất cao. Ở phía nam đèo Hải
Vân: nền sinh thái ổn định hơn về thời tiết, về nhịp điệu mùa cũng như nền nhiệt-ẩm, điều này
cho phép nền nông nghiệp có tính chất ổn định hơn. Sự phân hoá cây trồng ở đây chỉ đơn thuần là
phân theo loại đất từ cây hàng năm đến cây lâu năm. Tuy nhiên, còn có sự khác biệt về thời tiết ở
sườn Tây (giữa Tây Bắc – phía Bắc, giữa Tây Nguyên – phía Nam) trên diện tích 26% lãnh thổ
lại có ý nghĩa đáng kể trong việc điều khiển thời vụ đối với cây ngắn ngày và lựa chọn cây dài

ngày. Ví dụ, ở Đông Nam Bộ có một mùa khô sâu sắc tương phản với một mùa mưa cường độ
cao là điều cần quan tâm đối với cây trồng lấy mủ.
▪ Trở ngại của khí hậu nhiệt đới ẩm, gió mùa: Tính chất biến động và sự phân hoá về khí
hậu đã dẫn đến các tai biến thiên nhiên như bão, lũ, khô hạn trong những năm gần đây lại có
chiều hướng gia tăng. Độ ẩm không khí lớn cũng là điều kiện để sâu bệnh lây lan, phát triển.
c. Nguồn nước
+ Nước trên mặt: Nằm trong vùng nhiệt đới, vì vậy nước ta có nguồn nước khá dồi dào.
Nhưng các hệ thống sông lớn đều bắt nguồn từ nước ngoài: S.Hồng từ Trung Quốc; S.Mã, S.Cả
từ Lào; S.Cửu Long từ Mianma, nếu như ở thượng nguồn việc sử dụng không hợp lý sẽ nằm
ngoài tầm kiểm soát của nước ta. Lượng mưa TB năm khá lớn càng làm cho nguồn nước trên các
sông của Việt Nam thêm phong phú. Đối với sản xuất nông nghiệp, nước rất cần thiết, ông cha ta
đã khẳng định “Nhất nước, nhì phân”. Với mức tiêu thụ nước trong nông nghiệp khoảng 60 tỉ m
3
thì về nguyên tắc chỉ cần khai thác 10-15% trữ lượng nước là đủ cho nhu cầu sản xuất và đời
sống. Mạng lưới sông ngòi phân bố rộng khắp và khá dày đặc, các hệ thống sông lớn lại bao phủ
toàn bộ các vùng nông nghiệp trù phú. Ngoài việc cung cấp nước cho sản xuất nông nghiệp, sông
ngòi còn cung cấp lượng phù sa lớn. Trong phạm vi cả nước, dòng chảy cát bùn là 300 - 400 triệu
tấn/năm (hệ thống S.Hồng 130 triệu tấn; S.Cửu Long 100 triệu tấn). Về mùa lũ, lượng phù sa trên
S.Hồng (tại Sơn Tây) đã lên tới 3.500 gr/cm
3
, mùa cạn 500 gr/cm
3
. Lượng cát bùn lớn đã khiến
cho các đồng bằng châu thổ lấn ra biển hàng năm từ vài chục tới hàng trăm mét.
+ Nước ngầm: cũng rất phong phú, mặc dù chưa thăm dò đánh giá đầy đủ. Trữ lượng đã
thăm dò khoảng 3,3 tỉ m
3
. Nước ngầm tập trung ở các phức hệ rời bở (ở Đồng bằng sông Hồng và
Đồng bằng sông Cửu Long); Trong phức hệ trầm tích cácbônat (ở Đông Bắc, Tây Nguyên và
BTBộ). Trong phức hệ phun trào ba dan (ở Tây Nguyên và Đông Nam Bộ), đã được khai thác

phục vụ cho tưới tiêu và sinh hoạt.
+ Hạn chế: Tài nguyên nước phong phú, nhưng phân bố không đều cả về thời gian và
không gian. Vào mùa lũ, lượng nước chiếm tới 70 - 80%, mùa kiệt chỉ 20 - 30% tổng lượng
nước. Đây là một khó khăn rất lớn đối với nền nông nghiệp, để hạn chế việc thiếu và dư thừa
6
nước phải xây dựng các công trình thuỷ lợi để chủ động tưới - tiêu nước. Ngoài ra, chất lượng
nước ở một số sông, hồ nguồn nước đang bị ô nhiễm nặng. Ở các khu vực ven biển, nước mặn có
chiều hướng lấn sâu vào đất liền (ở S.Hồng lấn sâu tới 20 km; S.Thái Bình 40 km; S.Tiền 50 km;
S.Hậu 40 km). Điều này lại càng khó khăn hơn đối với ĐB sông Cửu Long vào mùa khô.
2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội (KT - XH)
a. Nguồn lao động
Trong điều kiện nền kinh tế còn chậm phát triển, LLLĐ nước ta vẫn tập trung nhiều trong
khu vực nông nghiệp và mức độ tập trung sẽ còn cao hơn nữa khi các ngành kinh tế khác chỉ thu
hút lao động trong các đô thị và lao động có trình độ chuyên môn – kĩ thuật. Trong nông nghiệp,
tình trạng phân công lao động diễn ra chậm chạp, mặc dù trong những năm gần đây lao động
trong nông nghiệp có chiều hướng giảm về tỉ trọng, nhưng vẫn còn cao. Số dân nước ta đông, gia
tăng còn lớn. Vì vậy, nguồn lao động rất dồi dào và thường xuyên được bổ sung (3%/năm), chất
lượng cũng đã được nâng hơn. Tuy chưa đáp ứng được với yêu cầu đổi mới, song nó vẫn được
coi là nhân tố quan trọng để phát triển nông nghiệp cả theo chiều rộng (khai hoang mở rộng diện
tích) và theo chiều sâu (thâm canh). Nguồn lao động đông cũng là một khó khăn cho nông
nghiệp, số lao động hàng năm tăng với nhịp độ nhanh, phần lớn lại là lao động phổ thông, kĩ
thuật thấp đã làm nóng thêm tình hình việc làm ở khu vực này. Mặt khác, nguồn lao động sử
dụng chưa hợp lý; phân bố cũng không đều giữa các ngành và các vùng (tập trung quá đông ở 2
đồng bằng) và chủ yếu lại ở trong ngành trồng trọt.
Từ sau đổi mới (đặc biệt từ đầu thập kỷ 90), trong nông nghiệp và kinh tế nông thôn có
nhiều thay đổi, bắt nguồn từ việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Cụ thể là sự ra đời của
các hoạt động kinh doanh mới như nuôi gia cầm gia súc theo hướng chuyên môn hóa; nuôi trồng
đặc sản gắn với nhu cầu thị trường; trồng cây ăn quả, cây thực phẩm, cây cảnh; Sự hình thành các
dịch vụ nông nghiệp và nông thôn như cung ứng phân bón, giống cây - con, bảo vệ cây trồng, vật
nuôi, vận tải nông sản và nhiều dịch vụ khác. Sự khôi phục các ngành nghề thủ công truyền thống

sau một thời bị mai một.v.v. Các hoạt động trên đã góp phần làm thay đổi cơ cấu sử dụng lao
động nông nghiệp, đã xuất hiện nhiều lao động phi nông nghiệp, tỉ trọng lao động phi nông
nghiệp tăng dần từ vùng ven đô thị đến vùng thuần nông.
Về trình độ tiếp thu kĩ thuật, thì LLLĐ (nhất là lao động trẻ) trong nông nghiệp có đủ sức
đón nhận các chương trình khuyến nông, có kinh nghiệm thâm canh trong SXNN. Như vậy,
nguồn lao động với tính chất 2 mặt của nó đã tạo ra cả những thuận lợi và KK đối với SXNN.
b. Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất, kỹ thuật (CSHT, CSVC - KT)
Về CSVC-KT bước đầu đã được hình thành và hoàn thiện. Một trong nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu là thuỷ lợi hoá. Vấn đề tưới - tiêu về cơ bản đã được giải quyết ở các vùng đồng
bằng. Hệ thống đồng ruộng đã được cải tạo đảm bảo cho việc thâm canh, cơ giới hoá. Công tác
phòng trừ dịch bệnh cho cây trồng - vật nuôi được triển khai có thể nhanh chóng dập tắt các
nguồn gây bệnh. Các loại giống mới cho năng suất cao đã dần dần thay thế các giống cũ Bước
vào thời kỳ CNH’- HĐH’, nền nông nghiệp được tăng cường đáng kể (nhất là về thuỷ lợi, điện,
7
phân bón, vật tư nông nghiệp, cơ giới hoá). Vào giữa thập kỷ 1990, trên 90% diện tích lúa được
tưới bằng các công trình thuỷ nông lớn, phần lớn các vùng nông thôn đã có điện. Một bộ phận
diện tích được cơ giới hoá. Nhiều tiến bộ của khoa học – kĩ thuật được đưa vào sản xuất tạo ra
bước chuyển biến mới về năng suất, chất lượng và hiệu quả của nông nghiệp .
Về CSHT và dịch vụ nông thôn cũng có nhiều tiến bộ. Nếu xét theo từng vùng, thì ở
vùng núi của Trung du – miền núi phía Bắc và Tây Nguyên một số chỉ tiêu thấp hơn các vùng
khác, đặc biệt là chỉ tiêu về điện và giáo dục Trung học cơ sở. Ở ĐB sông Hồng các chỉ tiêu đều
đạt ở mức cao và đồng đều, vì đây là khu vực được khai thác sớm nhất, có trình độ phát triển tốt.
Ở ĐB sông Cửu Long vào loại thấp (do sự thuận lợi và cả khó khăn về giao thông đường sông,
kênh rạch tại địa bàn này). Ở miền Trung, CSHT nông thôn còn yếu, trong khi những tuyến liên
hệ cơ bản (quốc lộ, phủ sóng truyền thông ) đều do TW trợ giúp.
Bảng 3.1: Một số chỉ tiêu về CSHT nông thôn phân theo vùng năm 2002 (đơn vị: %)
Các vùng
Xã có
điện
Xã có

đường ô tô
Xã có trạm
y tế
Xã có trường
tiểu học
Xã có trường
THCS
Cả nước 62,2 86,4 916 97,7 76,2
TDMN phía Bắc 37,0 82,6 82,9 94,9 64,7
ĐB sông Hồng 98,1 99,4 99,6 98,5 97,5
Bắc Trung Bộ 61,8 90,0 79,3 99,8 86,8
Nam Trung Bộ 54,7 82,5 85,9 97,3 66,1
Tây Nguyên 31,7 96,2 84,3 99,9 50,3
Đông Nam Bộ 71,8 97,9 98,2 100,0 75,4
ĐBS Cửu Long 67,0 65,7 96,7 98,4 74,9
c. Đường lối chính sách
Là một nước nông nghiệp, vì thế từ lâu nông nghiệp được Đảng và Nhà nước coi là mặt
trận hàng đầu. Từ ĐH VI (12/1986) với đường lối đổi mới toàn diện đã khắc phục những sai lầm
của công cuộc cải tạo XHCN trong nông nghiệp trước đó và đưa ngành này lên một bước phát
triển mới (khoán 10). Hộ nông dân được coi là đơn vị kinh tế tự chủ; được giao quyền sử dụng
đất lâu dài; được tự do trao đổi hàng hoá, mua bán vật tư, sản phẩm theo cơ chế thị trường. Kết
quả là sức sản xuất được giải phóng, đã khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng sẵn có. Trong cơ cấu
kinh tế nhiều thành phần, ở nông thôn lại có thêm kinh tế hộ nông dân; nhiều hình thức hợp tác
mới tự nguyện, sinh động đã tạo nên nền kinh tế đa dạng về sở hữu, đan xen liên kết với nhau,
đồng thời cạnh tranh lẫn nhau để cùng phát triển theo qui luật khách quan của kinh tế thị trường.
Vấn đề việc làm cũng đã được cải thiện, đó là do thắng lợi của công cuộc đổi mới, SXNN tăng
lên rõ rệt; tình trạng thiếu đói cơ bản đã được xoá bỏ, đã tạo thêm việc làm cho người lao động
(thời kỳ 1991-1995 đã tạo việc làm cho 4,6 triệu người). Chương trình 327 và 773 của Nhà nước
sử dụng 1.700 tỉ đồng và thu hút 48 vạn LĐ nông nghiệp, khoảng 80% việc làm mới được tạo ra
từ N-L-N, điều đó có ý nghĩa to lớn trong việc cải thiện đời sống cư dân nông thôn.

Ngoài ra, thị trường tiêu thụ sản phẩm trong và ngoài nước được mở rộng. Những tiến bộ
của khoa học – kĩ thuật trong nông nghiệp được áp dụng rộng rãi tạo thành một hệ thống thúc
đẩy sự phát triển của ngành kinh tế vào loại quan trọng hàng đầu này.
8
2.3. ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP Ở NƯỚC TA
a. Nền nông nghiệp nước ta phát triển tương đối ổn định và vững chắc
- Nhờ thực hiện công cuộc đổi mới mà nông nghiệp nước ta đã phát triển khá ổn định. Tốc
độ tăng trưởng GDP/năm dao động từ 3 - 5%; năm 1994 tăng (3,9%), 1995 (5,1%), 1996 (4,4%),
1997 (4,3%), 1998 (2,7%), 1999 (5,2%), 2002 (4,06%), năm 2008 (3,83%). So với các ngành
công nghiệp, xây dựng, dịch vụ con số này thấp, nhưng phải đặt nó vào trong hoàn cảnh cụ thể,
sự tăng trưởng của ngành là rất khó vì ngành này phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên. Nông nghiệp
được chú trọng đầu tư cả về kĩ thuật lẫn kết cấu hạ tầng và phát huy hiệu quả của việc thâm canh
trong sản xuất. Thị trường nông phẩm được mở rộng (cả trong nước và ngoài nước) là động lực
thúc đẩy sản xuất phát triển. Tác động của các chủ trương chính sách đã được ban hành (luật đất
đai, khoán 10, xoá đói, giảm nghèo, mở rộng tự do kinh doanh, xây dựng các mô hình sản xuất).
Bảng 3.2. GDP và tỉ trọng của nông nghiệp so với cả nước từ 1985 - 2008.
Năm
GDP NN giá hiện hành
(tỉ đồng)
% trong GDP của
cả nước
1985 47,0 40,17
1990 16.252,0 38,74
1995 63.219,0 28,37
2000 108.356,0 24,53
2005 175.048,0 20,89
2008 326.505,0 22,10
- Nguyên nhân dẫn tới SXNN của nước ta phát triển nhanh chủ yếu là do: nông nghiệp
được chú trọng đầu tư cả về kỹ thuật lẫn kết cấu hạ tầng và phát huy hiệu quả của việc thâm canh
trong sản xuất. Thị trường nông phẩm được mở rộng (cả trong nước và ngoài nước) là động lực

thúc đẩy SX phát triển. Tác động của các chủ trương chính sách đã được ban hành (luật đất đai,
khoán 10, xoá đói, giảm nghèo, mở rộng tự do kinh doanh, xây dựng các mô hình sản xuất ).
- Tuy nhiên, tốc độ phát triển của nông nghiệp chưa cao. Bởi vì, những năm đầu chuyển
đổi từ cơ chế tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường, nông nghiệp chưa khẳng định rõ được
hướng phát triển, thị trường chưa được khai thác, còn mới mẻ đối với nông dân. Tính chất CMH’
trong SX hàng hoá còn yếu. Trồng trọt và chăn nuôi phát triển chưa đều ở nhiều vùng, chăn nuôi
chưa trở thành ngành SX chính, kinh doanh độc lập, sản xuất còn phụ thuộc nhiều vào tự nhiên.
Để phát triển bền vững, trong những năm tới cần tiếp tục đổi mới trong nông nghiệp; giải phóng
mọi lực lượng sản xuất; phát triển kinh tế nhiều thành phần; hình thành một số vùng động lực và
ngành kinh tế mũi nhọn nhằm phát triển hài hoà giữa các mục tiêu kinh tế - xã hội với bảo vệ môi
trường sinh thái. Dự kiến tốc độ tăng trưởng GDP của nông nghiệp hàng năm phải đạt 4,0- 4,5%
gắn với công nghiệp chế biến (tăng 10 - 12%). Đảm bảo an toàn về lương thực và đến 2010 phải
đạt 38,0 - 40,0 triệu tấn (lúa 32,0- 33,0 triệu tấn trên diện tích 4,2 - 4,3 triệu ha).
9
b. Nông nghiệp nước ta đang trong quá trình chuyển đổi cơ cấu theo hướng nền kinh
tế hàng hóa
- Đối với một nước mà nông nghiệp vẫn giữ địa vị trọng yếu như nước ta, thì việc chuyển
đổi cơ cấu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và cấp thiết. Vì thế, việc tổ chức lại nền nông nghiệp
tạo ra cơ cấu hợp lý trở thành vấn đề cấp thiết.
+ Trong phạm vi toàn ngành: cơ cấu nông nghiệp và cơ cấu nông thôn đã chuyển dịch
đúng hướng và có hiệu quả rõ rệt. Hướng sản xuất hàng hoá, mở mang ngành nghề, dịch vụ
đang được coi trọng. Trong sản xuất nông nghiệp, đặc biệt quan tâm tới việc đa dạng hóa cơ cấu
cây trồng - vật nuôi gắn với công nghiệp chế biến; phát triển mạnh các ngành nghề, nhất là các
nghề truyền thống; mở rộng các loại hình dịch vu nhằm thúc đẩy kinh tế nông thôn phát triển
toàn diện, tạo tiền đề cho quá trình CNH’ và HĐH’ nông thôn.
+ Về cơ cấu ngành: đang có xu thế chuyển dịch giảm tỉ trọng của ngành trồng trọt, tăng
dần tỉ trọng của ngành chăn nuôi (hiện nay, trồng trọt vẫn chiếm 3/4 giá trị sản xuất). Như vậy,
cần đẩy mạnh chăn nuôi để có thể đạt tỉ trọng trên 30% vào sau những năm 2000.
+ Trong nội bộ từng phân ngành:
Ngành trồng trọt: giảm dần tỉ trọng của ngành trồng cây lương thực, tăng dần tỉ trọng của

ngành trồng cây CN. Cụ thể năm 1990, trong tổng GTSX của ngành trồng trọt, thì cây lương thực
(67,11%), cây công nghiệp (13,49%), cây ăn quả (10,14%), rau đậu (9,26%); đến năm 2008 tỉ
trọng tương ứng là (57,25%, 25,34%, 7,42% và 8,63%) phần còn lại thuộc nhóm cây trồng khác.
Trong chăn nuôi: chăn nuôi gia cầm giảm chút ít, gia súc và sản phẩm không qua giết mổ
tăng. Cụ thể, năm 1990, giá trị SX của chăn nuôi đạt 10.283,2 tỉ đồng (trong đó, gia súc lớn
(63,87%), gia cầm (19,26%) và sản phẩm không qua giết thịt (12,92%), đến năm 2008, con số
này là 30.938,6 tỉ đồng (70,39% - 14,21% - 13,54%)
- Nền nông nghiệp nước ta đang hướng tới nền sản xuất hàng hoá, nhiều thị trường mới
đang được khai thác đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn. Trước đổi mới (1985), giá trị hàng hoá nông
sản xuất khẩu đạt 274,2 triệu USD (gạo 59.400 tấn; chè 10.400 tấn; cà phê 9.200 tấn). Sau đổi
mới (1995), giá trị nông sản xuất khẩu đã đạt 1.745,8 triệu USD (chiếm 32,0% xuất khẩu của cả
nước); đến năm 2008, giá trị xuất khẩu đạt 100.400,0 triệu USD (16,6%); trong đó: gạo 4741,9
ngàn tấn; cao su 658,3 ngàn tấn tấn; cà phê 1059,5 ngàn tấn, hàng thủy sản đạt 4510,1 triệu USD.
Như vậy, từ 1985 – 2008 giá trị xuất khẩu hàng nông sản tăng 366,0 lần, nhiều mặt hàng truyền
thống và mặt hàng mới có mặt trên thị trường quốc tế (gạo, lạc, chè, cà phê, hạt điều , tiêu…)
Bảng 3.3. Cơ cấu giá trị sản lượng nông nghiệp theo giá hiện hành từ 1990 - 2008
Năm
Tổng số
(Tỉ đồng)
Chia ra
Trồng trọt Chăn nuôi Dịch vụ
Tổng số % Tổng số % Tổng số %
1990 20666,5 16393,5 79,3 3701,0 17,9 572,0 2,8
1995 82307,1 66183,4 80,41 13629,2 16,56 2494,5 3,03
2000 129140,5 101043,7 78,2 24960,2 19,3 3136,6 2,5
2005 183342,4 134754,5 73,5 45225,6 24,7 3362,3 1,8
2008 362.824,3 259.468,6 71,5 97.859,2 27,0 5.496,5 1,5
10
c. Nông nghiệp nước ta đang có sự phân hóa về lãnh thổ và tạo ra nhiều vùng sản xuất
chuyên môn hóa

Sự chuyển đổi từ nền kinh tế tự túc tự cấp sang nền nông nghiệp hàng hoá là một quá
trình đầy gian khổ. Kết quả là cơ cấu lãnh thổ nông nghiệp có sự chuyển dịch rõ rệt; Thay cho
việc sản xuất manh mún, phân tán trước đây là những vùng sản xuất CMH’ tập trung, qui mô lớn,
tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá tiêu dùng trong nước, phục vụ cho công nghiệp chế biến & xuất
khẩu. Căn cứ vào tiềm năng về tự nhiên, kinh tế - xã hội và nhu cầu của thị trường (trong - ngoài
nước), các vùng CMH’ chính của nước ta đã được hình thành:
- Về LT-TP: đã hình thành 2 vùng trọng điểm LT-TP: ĐB sông Cửu Long là vùng trọng
điểm số 1 (chiếm trên 50,0% diện tích và sản lượng lúa cả nước), dẫn đầu cả nước về sản xuất
cây đậu tương, mía, cây ăn quả, về nuôi trồng và đánh bắt thuỷ - hải sản. ĐB sông Hồng là vùng
trọng điểm số 2 về LT-TP (14,2% diện tích và 18.4% sản lượng lúa), thế mạnh của vùng, ngoài
lúa là rau quả, lợn, gia cầm.
- Về cây công nghiệp: đã hình thành 3 vùng CC cây CN lớn: Đông Nam Bộ là vùng số 1
(cả cây lâu năm và hàng năm); vùng có thế mạnh về tự nhiên, kinh tế, đất đai phần lớn là đất xám
bằng phẳng; nguồn lao động dồi dào; có trình độ phát triển mạnh cùng với nhiều cơ sở chế biến
tại chỗ. Tây Nguyên là vùng số 2 về qui mô; các sản phẩm chính là cà phê, cao su, hồ tiêu, chè,
dâu tằm, tiềm năng của vùng còn rất lớn, nhưng khó khăn lớn nhất là thiếu nước tưới trong mùa
khô. MN-TDPB’ là vùng số 3, đây là vùng chè nổi tiếng được trồng ở hầu hết các khu vực đồi
trung du và một số cao nguyên (Hà Giang; Nghĩa Lộ; Sơn La ); vùng còn thế mạnh để phát triển
các cây trồng khác như lạc, thuốc lá (Lạng Sơn, Bắc Giang); Hồi (Lạng Sơn, Cao Bằng).
- Ngoài ra, còn có các vùng chăn nuôi đại gia súc (TD-MN’PB’), gia cầm ở các đồng
bằng, vùng nông nghiệp - thực phẩm (vành đai xanh) ven TP lớn; các vùng nuôi trồng thuỷ sản
đang phát triển mạnh ở 2 đồng bằng châu thổ lớn và các tỉnh duyên hải miền Trung
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Vai trò của sản xuất nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân.
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp ở nước ta. Theo anh (chị) nhân tố nào
có ý nghĩa quan trọng nhất trong việc đảm bảo an ninh về lương thực. Tại sao?
3. Khí hậu có ảnh hưởng như thế nào đến sản xuất nông nghiệp của cả nước cũng như
từng vùng lãnh thổ nước ta. Để khai thác tốt nguồn tài nguyên này, việc bố trí cây trồng nhu thế
nào được coi là hợp lí ?
4. Bằng kiến thức đã có, hãy trình bày những vấn đề đã và đang đặt ra đối với việc sử

dụng nguồn lao động trong nông nghiệp nước ta.
5. Trình bày sự chuyển dịch cơ cấu ngành và cơ cấu lãnh thổ trong nông nghiệp. Mối
quan hệ giữa chuyển dịch cơ cấu ngành với cơ cấu lãnh thổ.
6. Phân tích đặc điểm phát triển sản xuất nông nghiệp ở nước ta.
7. Dựa vào bảng 3.3. Vẽ biểu đồ thể hiện sự thay đổi cơ cấu giá trị sản xuất nông nghiệp
của nước ta thời kì trên. Cho nhận xét và giải thích tại sao có sự chuyển dịch đó.
8. Trình bày đặc trưng của nền nông nghiệp cổ truyền với nền nông nghiệp, hiện đại.
11
3. CÁC NGÀNH SẢN XUẤT CHỦ YẾU
3.1. NGÀNH TRỒNG TRỌT
3.1.1. Ngành trồng cây lương thực và thực phẩm (LT - TP)
Ở nước ta, cây lương thực bao gồm một số cây như lúa, ngô, khoai, sắn. Ngoài cây lúa,
các cây được gọi chung là hoa màu (hay mầu). Nhóm cây lương thực chiếm ưu thế về diện tích
và giá trị sản lượng của ngành trồng trọt. Năm 1990, giá trị sản xuất ngành trồng trọt 49.604,0 tỉ
đồng (cây lương thực 67,11%, cây công nghiệp 13,49%); năm 1999 là (86.380,6 tỉ đồng - 61,03%
và 23,04%), đến năm 2008 (122.375,7 tỉ đồng – 57,25% và 25,34%)
a. Cây lúa
- Về mặt tự nhiên: Cây lúa được trồng trên nhiều địa bàn khác nhau, thích hợp nhất là ở 2
đồng bằng châu thổ lớn, các đồng bằng nhỏ hẹp ở DHMT và ở các thung lũng miền núi.
- Về mặt kinh tế - xã hội: người dân có kinh nghiệm và truyền thống lâu đời cùng đức tính
cần cù, chịu khó; nhân tố kinh tế, kỹ thuật, các chính sách khuyến nông cùng sự đầu tư đúng mức
đã thúc đẩy ngành trồng lúa tăng đều qua các năm. Nếu lấy mốc năm 1985 để so sánh, thì năm
2005 diện tích lúa tăng 128%, sản lượng lúa tăng 225%, năng suất tăng 176%.
- Về cơ cấu mùa vụ, nước ta có 3 vụ kế tiếp nhau là vụ mùa, đông-xuân và hè-thu (quan
trọng nhất là vụ mùa và vụ đông xuân). Do sự phân hóa của khí hậu nên trong phạm vi cả nước,
lúc nào cũng có các hoạt động (trồng lúa) như gieo cấy, chăm sóc, thu hoạch.
- Các tỉnh có sản lượng lúa đạt trên 1,0 triệu tấn/năm: ĐB sông Cửu Long (2008) có 9
tỉnh là An Giang (3,51 triệu tấn), Kiên Giang (3,38), Đồng Tháp (2,72), Long An (2,17), Sóc
Trăng (1,74), Tiền Giang (1,32), Cần Thơ (1,19), Hậu Giang (1,02), Trà Vinh (1,08). Bắc Trung
Bộ có Thanh Hóa (1,40 triệu tấn), ĐB sông Hồng có Hà Nội (1,17) và Thái Bình (1,01 triệu tấn)

- Về phân bố
+ ĐB sông Cửu Long là vựa lúa lớn nhất. Năm 2008, diện tích trồng lúa 3.85 triệu ha; sản
lượng 20,68 triệu tấn (52,0% diện tích và 53,41% sản lượng cả nước), năng suất 53,6 tạ/ha, mỗi
năm xuất khẩu trên 3,0 triệu tấn/năm. Địa hình đồng bằng thấp, ngập nước, độ cao TB chỉ 2 - 4
m/biển, phù sa mới có nguồn gốc hỗn hợp sông-biển. Chiều dày của lớp phù sa mới càng ra biển
càng lớn, ở phía Nam châu thổ, phù sa dày hơn phía bắc (Long An 20m, Mĩ Tho 70m, Bạc Liêu
110m, Cà Mau 200m, Năm Căn 260m). Đồng bằng được khai thác cách đây 400 năm.
+ ĐB sông Hồng là sản phẩm bồi tụ của hệ thống S.Hồng và Thái Bình, đất đai màu mỡ.
Diện tích đất tự nhiên 1,5 triệu ha. Vùng có lịch sử khai thác lâu đời cách đây hàng vạn năm. Với
những thế mạnh về tự nhiên (tuy thua kém hơn so với ĐB sông Cửu Long), nhưng bù lại, đây là
vùng có trình độ thâm canh cao nhất cả nước, ngành trồng lúa rất phát triển. Năm 2008, diện tích
1,15 triệu ha, sản lượng 6,77 triệu tấn (15,56% và 17,50% cả nước), năng suất 58,8 tạ/ha.
+ Các ĐB nhỏ hẹp ở DHMT kéo dài ~10
0
vĩ tuyến (1000 km) dọc ven biển, qui mô nhỏ
với các ĐB Thanh - Nghệ - Tĩnh, Bình - Trị - Thiên, Nam - Ngãi - Định, Phú Yên - Khánh Hòa,
12
Ninh - Bình Thuận. Diện tích 14.560 km
2
(

diện tích ĐB S.Hồng), các đồng bằng này đều là địa
bàn trồng lúa và các loại cây trồng khác với qui mô và ý nghĩa khác nhau: ĐB Thanh Hoá (diện
tích lớn nhất 2.900 km
2
), là ĐB chuyển tiếp từ châu thổ S.Hồng sang ĐB Nghệ Tĩnh, được phù sa
S.Mã và S.Chu bồi đắp, đất đai khá màu mỡ, có khả năng phát triển nông nghiệp; có thể coi là
vựa lúa lớn của vùng B.Trung Bộ. Ở DH Nam Trung Bộ, đồng bằng khá màu mỡ là Phú Yên,
Bình Định và Quảng Nam, riêng ĐB Ninh - Bình Thuận, kém màu mỡ, khô hạn, ít có điều kiện
để trồng lúa. Năm 2008, diện tích đất lúa của DH miền Trung 1,21 triệu ha (16,4% cả nước), sản

lượng lúa 6,12 triệu tấn (15,82%), năng suất 50,5 tạ/ha
+ Ở MN’&TD phía Bắc có một số cánh đồng: Đông Bắc (có Trùng Khánh, Quảng Uyên,
Đông Khê, Thất Khê); Tây Bắc (có Than Uyên, Nghĩa Lộ, Điện Biên). Năm 2008, diện tích trồng
lúa của vùng 715,0 nghìn ha, sản lượng 3,09 triệu tấn, năng suất 43,3 tạ/ha, đây là cơ sở LT quan
trọng cho một số tỉnh miền núi.
Bảng 3.4. Diện tích, sản lượng và năng suất cây lương thực và cây lúa thời kỳ 1985 - 2008.
Năm
Diện tích (1000 ha) Sản lượng (1000 tấn) Năng suất (tạ/ha)
Cây L.Thực Cây lúa Cây L.Thực Cây lúa Cây LT Cây lúa
1985 6833,6 5703,9 18200,0 15875,0 26,6 27,8
1990 6476,9 6042,8 19897,7 19225,1 30,7 31,8
1995 8383,4 7003,8 26142,5 26396,7 31,2 36,9
2000 8399,1 7666,3 34538,9 32529,5 41,1 42,4
2005 8383,4 7329,2 39621,6 35832,9 47,3 48,9
2008 8542,0 7414,3 43258,3 38725,1 50,6 52,2
b. Cây màu lương thực. Là loại cây cung cấp một phần cái ăn cho con người và là cơ sở
thức ăn cho chăn nuôi gia súc. Ở một mức độ nhất định, nó còn là cơ sở cung cấp nguyên liệu cho
các ngành CNCB'. Trong gần 2 thập kỷ qua (1985 - 2005), cả diện tích và sản lượng tuy có tăng
nhưng không lớn. Trong cơ cấu diện tích có sự thay đổi rõ rệt theo chiều hướng tăng diện tích cây
ngô và giảm diện tích trồng sắn và khoai
- Quan trọng nhất là cây ngô: từ 1985 - 2005, diện tích tăng 2,62 lần, sản lượng tăng 6,4
lần, điều này liên quan đến việc đưa tiến bộ của KH - KT vào sản xuất mà đặc biệt là khâu giống.
Năm 2008, diện tích, sản lượng và năng suất ngô cả nước là (1,12 triệu ha, 4,53 triệu tấn và 40,2
tạ/ha); diện tích nhiều nhất là Đông Bắc (chiếm 22,3% cả nước), Tây Nguyên (21,0%), Bắc
Trung Bộ (12,6%); sản lượng cao nhất là Tây Nguyên (24,1% cả nước), Đông Bắc (18,1%), Tây
Bắc (15,1%); năng suất cao nhất là ĐB sông Cửu Long (56,1 tạ/ha), Đông Nam Bộ (50,3 tạ/ha),
Tây Nguyên (46,2 tạ/ha). Tỉnh có sản lượng ngô cao nhất là Đắc Lắc 577,1 nghìn tấn, Sơn La
441,3 nghìn tấn, Đồng Nai 313,3 nghìn tấn
- Khoai lang, thường trồng luân canh với lúa vào vụ đông - xuân trên đất pha cát. Năng
suất rất cao (


72 tạ/ha), chủ yếu làm thức ăn cho chăn nuôi. Diện tích trồng khoai lang có xu
hướng giảm, thay vào đó là những cây trồng khác có giá trị cao hơn. Sản lượng cả nước (2008) là
1,32 triệu tấn, cao nhất là Bắc Trung Bộ (23,7%), ĐB sông Hồng (20,1%), Đông Bắc (19,4%)
13
- Cây sắn, diện tích cũng giảm. Hạn chế chính của cây sắn là chiếm diện tích đất quanh
năm, thường trồng trên các vùng đồi thoải đã bạc màu. Cây sinh trưởng tốt, nhưng không có khả
năng bảo vệ đất khi mưa nhiều với cường độ cao, đất dễ bị xói mòn rửa trôi.
Bảng 3.5: Diện tích và sản lượng cây màu lương thực thời kỳ 1985 – 2008
Năm
Diện tích (1000 ha) Sản lượng (1000 tấn)
Ngô Khoai Sắn Ngô Khoai Sắn
1985 397,3 320,0 335,0 587,1 1777,7 2939,8
1990 431,8 321,1 256,8 671,0 1929,0 2275,8
1995 556,8 304,6 277,4 1177,2 1685,8 2211,5
2000 730,2 254,3 237,6 2005,9 1611,3 1986,3
2005 1052,6 185,3 425,5 3787,1 1443,1 6716,2
2008 1125,9 162,2 557,7 4531,2 1323,9 9395,8
c. Tập đoàn cây thực phẩm.
Hiện nay, chúng ta đã nhập nội, lai tạo từ nhiều giống cây nhiệt đới, cận nhiệt và ôn đới,
nên tập đoàn cây này tăng cả về số và chất lượng. Giá trị sản xuất cây thực phẩm tăng khá nhanh,
năm 1990 là 3.477,0 tỉ đồng, năm 1999 là 6.179,6 tỉ đồng và năm 2008 là 10.560,4 tỉ đồng. Vùng
rau lớn nhất là ĐB sông Hồng với đủ loại từ nhiệt đới - cận nhiệt - ôn đới. Ở Sa Pa, Đà Lạt là các
loại rau cận nhiệt và ôn đới.
3.1.2. Ngành trồng cây công nghiệp (cây CN)
a. Khái quát chung
Cây công nghiệp còn gọi là cây kĩ thuật để chỉ mục đích và tính chất của việc gieo trồng
nhằm cung cấp nguyên liệu cho CNCB’ nông sản. Là loại cây có ý nghĩa quan trọng đối với sự
phát triển KT-XH. Các SP của nó là nguồn nguyên liệu cung cấp cho CNCB’, là nguồn xuất khẩu
khẩu quan trọng.

Cây công nghiệp ở nước ta tăng (cả về diện tích và sản lượng), năm 1980, diện tích là
627,7 nghìn ha, năm 2005 tăng lên 2,49 triệu ha và năm 2008 tăng lên 4,39 triệu ha. Trong đó cây
công nghiệp lâu năm chiếm 82,8% tổng diện tích cây công nghiệp nhờ vào ĐKTN thuận lợi, việc
hình thành các vùng chuyên canh lớn và nhu cầu cho xuất khẩu tăng, còn cây công nghiệp hàng
năm lên xuống thất thường, thiếu vững chắc.
Bảng 3.6. Diện tích cây công nghiệp thời kỳ 1985 – 2008 (nghìn ha)
Tổng số Cây công nghiệp lâu năm Cây công nghiệp hàng năm
1985 956.5 404.9 551.6
1990 1199.3 657.3 542.0
1995 1619.0 902.3 716.7
2000 2229.4 1451.3 778.1
2005 2495.1 1633.6 861.5
2008 2688.5 1882.7 805.8
Cây công nghiệp được chia thành 2 nhóm: Nhóm cây công nghiệp hàng năm (hay còn
gọi là cây công nghiệp ngắn ngày), chu kỳ gieo trồng - thu hoạch là 1 năm (đay, cói, bông, lạc,
14
đậu tương, mía ). Nhóm cây công nghiệp lâu năm (dài ngày) trồng một lần, thu hoạch nhiều chu
kỳ. Trong nhóm này lại chia ra làm 2 phân kỳ: phân kỳ kiến thiết cơ bản (từ lúc trồng đến lúc cho
thu hoạch) và phân kỳ kinh doanh (từ lúc cho thu hoạch trở đi), cây ăn quả xếp trong nhóm này.
Ngoài ra, còn có cách phân loại khác: Nhóm cây lấy sợi (bông, đay, cói); Nhóm cây kích
thích (cà phê, thuốc lá, chè); Nhóm cây lấy dầu (lạc, vừng, đậu tương, dừa); Nhóm cây lấy nhựa
(cao su, thông, bồ đề, cánh kiến); Nhóm cây lấy đường (mía, thốt nốt).
b. Nhóm cây công nghiệp hàng năm
- Cây mía: là cây lấy đường có thể trồng được ở tất cả mọi nơi. Năm 2008, diện tích là
266,3 ngàn ha, sản lượng 16128,0 ngàn tấn. Vùng trồng nhiều mía nhất là ĐB sông Cửu Long
(24,1% diện tích, 31,50% sản lượng cả nước), Bắc Trung Bộ (23,20%, 21,80%), DH Nam Trung
Bộ (18,70%, 15,10%), Tây Nguyên (12,60%, 11,00%), Đông Nam Bộ (11,60%, 11,50%). Các
tỉnh trồng nhiều nhất là Thanh Hoá (32,3 ngàn), Nghệ An (29,9 ngàn), Gia lai (19,3 ngàn ha),
Tây Ninh (18,9 ngàn ha), Phú Yên (18,1 ngàn), Khánh Hoà (16,9 ngàn), Cần Thơ (15,9 ngàn),
Long An (15,4 ngàn),…

- Cây lạc có 2 loại (3 tháng, 6 tháng). Cây lạc có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới ở Bắc
Áchentina và Nam Bôlivia, đòi hỏi nhiệt độ TB ~ cao, ổn định và đủ ẩm. Năm 2008, diện tích lạc
cả nước là 256,0 ngàn ha, sản lượng 529,2 ngàn tấn. Các vùng trồng nhiều nhất B.Trung Bộ
(28,8% diện tích & 27,70% sản lượng cả nước), Đông Bắc (17,4% % & 14,7% ), DH Nam Trung
Bộ (13,1% & 10,9%), ĐB sông Hồng (12,3% & 14,70%), Đông Nam Bộ (11,6% & 16,0%). Các
tỉnh có diện tích và sản lượng cao nhất là: Tây Ninh (73,9 ngàn tấn), Nghệ An (52,1), Hà Tĩnh
(44,6), Thanh Hoá (28,8), Bắc Giang (25,8), Nam Định (25,7)
- Cây đậu tương: là cây cho hạt làm thực phẩm, ép lấy dầu, còn khô dầu dùng cho chăn
nuôi, hạt có chất đạm cao nhất trong các loại đậu. Đây là cây điển hình của vùng châu Á gió mùa.
Đậu tương cũng có nhiều loại thích nghi với nhiều vùng khí hậu khác nhau từ ôn đới đến nhiệt
đới, cây ưa ẩm nhưng không đòi hỏi nhiều nhiệt. Ở nước ta, đậu tương được trên phạm vi rộng
suốt từ Bắc vào Nam. Năm 2008, diện tích của cả nước là 191,5 ngàn ha, sản lượng 268,6 ngàn
tấn. Tỉnh có diện tích và sản lượng cao nhất là Hà Nội (34,8 ngàn ha và 43,9 ngàn tấn)), Hà
Giang (19,9 ngàn ha và 20,9 ngàn tấn), Đắc Nông ( 15,7 ngàn ha và 32,6 ngàn tấn).
- Cây thuốc lá: là cây thích hợp với loại đất giàu N, P, K, Ca, nhiều mùn với nhiệt độ 18
0
- 27
0
C. Ở nước ta, các khu vực MN’ và TD thuộc một số vùng có nhiều thuận lợi để trồng thuốc
lá. Diện tích trồng thuốc lá không ổn định. Năm 1985 diện tích 42,6 ngàn ha và sản lượng 38,4
ngàn tấn, thì đến năm 2008 giảm xuống còn 16,4 ngàn ha và 28,7 ngàn tấn. Vùng trồng nhiều
nhất Đông Nam Bộ (57,4% diện tích và 52,7% sản lượng cả nước), Đông Bắc (21,2% , 22,7%),
DH Nam Trung Bộ (8,0%, 8,5%). Tỉnh trồng nhiều nhất Tây Ninh, Đồng Nai, Lạng Sơn.
- Cây bông: là nguyên liệu quan trọng cho công nghiệp kéo sợi, dệt vải. Cây bông ưa khí
hậu nóng, nhiệt độ thích hợp nhất là 25
0
-30
0
C; ngừng sinh trưởng khi nhiệt độ dưới 17
0

C, có thể
chết nếu nhiệt độ dưới 5
0
C kéo dài, cây cần nhiều ẩm lượng mưa từ 800 - 1.000mm là đủ, mùa ra
quả cần nhiều mưa, nhưng lúc quả chín cần thời tiết tuyệt đối khô hanh. Vì vậy ở nước ta, chỉ
15
một số vùng là thích hợp với cây bông. Diện tích bông năm 2005 là 25,8 ngàn ha, sản lượng 33,5
ngàn tấn. Tỉnh trồng nhiều bông nhất là Đắc Lắc, Bình Thuận.
Bảng 3.7. Diện tích và sản lượng một số cây công nghiệp hàng năm 1985 – 2008
Diện tích (nghìn ha) Sản lượng (nghìn tấn)
1985 2000 2005 2008 1985 2000 2005 2008
Bông 13,8 18,6 25,8 5,2 4,5 18,8 33,5 6,9
Đay 22,0 5,5 5,6 3,4 47,1 11,3 12,6 8,8
Cói 15,3 9,3 12,5 11,7 92,8 61,4 80,5 84,7
Mía
143,2 302,3 266,3 271,1 5559,7
15044,
3
14948,7 16128,0
Lạc 212,7 244,9 269,6 256,0 202,4 355,3 489,3 533,8
Đậu tương 102,0 124,1 204,1 191,5 79,1 149,3 292,7 268,6
Thuốc lá 42,6 24,4 16,8 16,4 38,4 27,1 26,0 28,7
Ngoài ra, một số cây CN hàng năm cũng đang được phát triển ở các vùng khác nhau nhu
cây dâu tằm (Tây Nguyên), đay (ĐB sông Hồng, ĐB sông Cửu Long), cói (ĐB sông Hồng).
c. Ngành trồng cây công nghiệp lâu năm
Về mặt kinh tế, đây là cây trồng lấy nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, chu kỳ kinh
doanh nhiều năm. Sinh trưởng và phát triển trong điều kiện sinh thái nhất định, vì vậy phải lựa
chọn địa bàn phân bố phù hợp thì mới cho năng suất và chất lượng cao. Do mục tiêu là làm
nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, nhưng sản phẩm cũng dễ bị hư hỏng; vì vậy việc bố trí
hợp lý từ khâu gieo trồng - thu hoạch - bảo quản - vận chuyển nối liền với công nghiệp chế biến

để đảm bảo chất lượng của nguyên liệu.
Với điều kiện sinh thái khác nhau cho từng loại cây cùng với sự phân hóa khí hậu đã tạo
nên những tiền đề để có thể trồng được từ giống cây có nguồn gốc nhiệt đới, cận nhiệt và ôn đới.
Mỗi cây trồng đòi hỏi điều kiện sinh thái nhất định (nếu một số loại cây có sự tương đối đồng
nhất về điều kiện sinh thái; thì đất với tính chất lý - hóa khác nhau lại có ý nghĩa to lớn trong việc
phân hóa cây trồng). Ví dụ, cây chè và cao su đòi hỏi độ pH là 4,0-4,5; cây cao su lại sống được
trên đất kiềm, còn cây chè lại kỵ canxi.
Điều kiện sinh thái của một số loại cây công nghiệp lâu năm.
Loại
cây
Các điều kiện sinh thái
Đánh giá chung
Khí hậu Đất đai
Chè
Nhiệt độ 15-30
0C
, độ ẩm
~80%, mưa đều quanh năm
Chua, pH: 4,0 - 4,5, tơi, xốp,
đất cao, nước ngầm 1,2m
Cần nhiệt của cận nhiệt.
Cần ẩm của nhiệt đới.
Hồi
Nhiệt độ (giống như chè), 2
mùa khô, mưa rõ rệt
Hơi chua đến kiềm, pH 5,0 -
6,5, nước ngầm sâu, tơi xốp
Nếu mưa ít thì hoa ít
tinh dầu.


phê
Nhiệt độ 20-30
0
C, độ ẩm

80%, 2 mùa khô, mưa rõ rệt.
Kiềm, sinh trưởng tốt trên
đất ba dan
Không chịu lạnh, bị bệnh,
cần có cây che bóng
Cao
su
Nhiệt độ 20- 40
0C
, độ ẩm

80%, không chịu được gió
mạnh, mưa đều càng tốt.
Chua đến hơi kiềm, pH 5,0 -
6,5, nước ngầm sâu, thoát
nước, đất thoáng
Nên phân bố từ 18
0
B
vào phía Nam
● Một số loại cây chính
16
- Cao su: Là loại cây lấy mủ ở miền rừng cận nhiệt đới (Nam Mỹ, Trung Mỹ, châu Phi
nhiệt đới và vùng rừng Đông Nam Á). Cây này được biết đến vào cuối thế kỷ XIX, khi CN ô tô
ra đời và đòi hỏi nhiều săm lốp, thì cao su mới được phát triển. Ở nước ta, cao su được trồng từ

cuối TK 19 ở Thủ Dầu Một và Khánh Hoà; các đồn điền được hình thành ở Đ.Nam Bộ và Tây
Nguyên. Năm 1920: diện tích 7,2 ngàn ha; năm 1963 tăng lên 14,0 ngàn ha. Trong chiến tranh,
một số rừng cao su già cỗi, một số khác bị tàn phá (năm 1975 chỉ còn 8.000 ha). Từ năm 1980 trở
lại đây diện tích & sản lượng tăng nhanh, năm 1990 (211,7 ngàn ha & sản lượng 57,9 ngàn tấn),
đến 2005 (482,7 ngàn ha - 481,6 ngàn tấn) và năm 2008 (631,5 ngàn ha - 659,6 ngàn tấn). Vùng
trồng nhiều nhất Đông Nam Bộ (Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh), chiếm khoảng
80% diện tích cho sản phẩm (mủ) cả nước. Ngoài ra, cao su đang phát triển mạnh ở Tây Nguyên
(Gia Lai). Ở Bắc Trung Bộ (Quảng Trị và Phủ Quì, Nghệ An) Đây là loại cây mang lại hiệu quả
kinh tế tổng hợp (gỗ, nhựa ), nước ta diện tích trồng cao su còn nhiều. Vì vậy, cần tìm kiếm và
mở rộng thị trường…
- Cà phê: Là loại cây ưa nhiệt (trên 15
0
C), cần ẩm (lượng mưa > 1.250 mm/năm), là cây
lấy hạt, có thể trồng từ vĩ tuyến 20
0
B trở vào. Cà phê nhập vào nước ta có 3 loại là: Cà phê chè
(Coffea Arabica) nguồn gốc từ Êtiôpi; Cà phê vối (coffea Robusta) nguồn gốc từ Công Gô; Cà
phê mít (coffea excelea) nguồn gốc Libêria. Trong 3 giống này, cà phê chè ưa khí hậu chí tuyến
(cây này xuất xứ ở các vùng núi cao, nếu đưa xuống trồng ở các thung lũng có biên độ nhiệt hàng
ngày lớn, cây hay có bệnh rỉ sắt).
Diện tích cà phê tăng khá nhanh: năm 1976 là 18,8 ngàn ha, 1985 tăng lên 44,7 ngàn ha,
năm 2005 tăng lên 497,4 ngàn ha và đến năm 2008 là 530,9 ngàn ha. Sản lượng năm 1990 là 92,0
ngàn tấn thì đến năm 2005 tăng lên 752,1 ngàn tấn và năm 2008 là 1.055,8 ngàn tấn. Vùng trồng
nhiều nhất là Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Các tỉnh có diện tích nhiều nhất là Đắc Lắc (3/4
diện tích cả nước), Lâm Đồng, Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước…
Cây cà phê mang lại hiệu quả kinh tế cao, nhu cầu thị trường TG lớn (mặc dù giá cả có
nhiều biến động; nhưng thị trường xuất khẩu vẫn được mở rộng). Năm 1985, xuất khẩu mới đạt
9,2 ngàn tấn thì đến 1990 tăng lên 89,6 ngàn tấn, năm 2002 là 719,0 ngàn tấn và năm 2005 là
912,7 ngàn tấn và năm 2008 là 1.059,5 ngàn tấn (*). Diện tích trồng cà phê trong những năm qua
tăng quá nhanh đã làm cung vượt quá cầu. Khi giá cà phê trên TG giảm mạnh đã làm cho người

sản xuất gặp nhiều khó khăn. Hướng phát triển trong những năm tới là ổn định diện tích và tập
trung vào loại cà phê có chất lượng (cà phê chè).
- Cây chè: Là loại cây bụi của miền nhiệt đới và cận nhiệt gió mùa, có mùa đông lạnh và
khô, có thể chịu được lạnh tới -10
0
C (đặc biệt là giống chè Shan Ấn Độ chịu lạnh rất giỏi). Chè
Trung Quốc lá to (còn gọi là chè trung du ở trung du phía Bắc) và chè Shan (ở MNPB’ và Lâm
Đồng). Chè là cây có biên độ sinh thái rộng, mưa rải đều thì kéo dài thời gian cho búp. Biên độ
dao động nhiệt ngày - đêm cao thì chè tích luỹ được nhiều dầu thơm. Vì vậy, cây chè phát triển
tốt nhất là từ vĩ độ 18
0
B trở ra. Trước kia, cây chè chỉ được trồng ở Phú Thọ và Buôn Hồ (Đắc
Lắc) kinh doanh theo hình thức đồn điền. Năm 1930 chỉ có 8.000 ha và sản lượng 6.000 tấn. Hiện
nay cây chè được trồng rộng rãi khắp cả nước; năm 1976 cả nước có 38,7 ngàn ha, sản lượng
18,0 ngàn tấn chè khô, năm 1985 tăng lên 50,8 ngàn ha và 28,2 ngàn tấn, năm 2005 tăng lên
122,5 ngàn ha và 570,0 ngàn tấn và năm 2008 (129,3 ngàn ha – 760,5 ngàn tấn), xuất khẩu đạt
17
104,5 ngàn tấn. Vùng chè lớn nhất là MNTDPB’, Tây Nguyên và một số nơi (Nghệ An, Thanh
Hoá, ). Lâm Đồng là tỉnh có diện tích chè lớn nhất cả nước
Bảng 3.8. Diện tích gieo trồng và sản lượng một số cây công nghiệp lâu năm từ 1985 - 2008
Diện tích (nghìn ha) Sản lượng (nghìn tấn)
1985 2000 2005 2008 1985 2000 2005 2008
Chè búp 50,8 87,7 122,5 129,3 28,2 314,7 570,0 760,5
Cà phê 44,7 561,9 497,4 530,9 12,3 802,5 752,1 1055,8
Cao su 180,2 412,0 482,7 631,5 47,9 290,8 481,6 659,6
Hồ tiêu 2,2 27,9 49,1 50,0 1,3 39,2 80,3 98,3
Điều 195,6 348,1 402,7 67,6 240,2 308,5
Dừa 127,0 161,3 132,0 138,3 611,8 884,8 977,2 1086,0
3.1.3. Ngành trồng cây ăn quả
Ngành này được phát triển khá sớm với nhiều sản phẩm nổi tiếng như cam Xã Đoài, bưởi

Đoan Hùng, Phúc Trạch, Biên Hoà, nhãn Hưng Yên, xoài Lái Thiêu (Bình Dương), đào Sa Pa,
mận Lạng Sơn Tuy nhiên, ngành này phát triển chậm và thiếu ổn định. Năm 1990, cả nước mới
có 281,2 ngàn ha cây ăn quả các loại, năm 2005 là 767,4 ngàn ha và 2008 là 775,3 ngàn ha. Các
vùng trồng cây ăn quả hàng hoá: xoài ở Đông Nam Bộ, ĐB sông Cửu Long; cam Phủ Quì (Nghệ
An); mận Bắc Hà (Lào Cai); vải thiều Lục Ngạn (Bắc Giang)
3.2. NGÀNH CHĂN NUÔI
3.2.1. Đặc điểm chung
Trước đây, ngành này chưa được coi là ngành sản xuất độc lập, chủ yếu là ngành hỗ trợ
cho trồng trọt. Khi chăn nuôi người ta chỉ nghĩ đến sức kéo, vận tải cùng các chợ bán trâu, bò,
ngựa còn nuôi gia cầm là chỉ dùng khi cơ nhỡ, hay dùng trong việc cưới xin, ma chay, giỗ tết
nhu cầu này không đủ để kích thích sản xuất hàng hoá. Khi cơ chế thị trường mở ra, người dân đã
quen với sản xuất nông phẩm hàng hoá, thì hình thức chăn nuôi đã thay đổi (chăn nuôi công
nghiệp đã phổ biến đến các hộ gia đình), sản phẩm cung cấp cho công nghiệp chế biến và cho
xuất khẩu ngày càng tăng. Trong cơ cấu giá trị sản xuất ngành chăn nuôi, thì giá trị sản xuất của
chăn nuôi gia súc chiếm tỉ trọng lớn nhất (
±
70,0%), gia cầm có xu hướng giảm, các sản phẩm
không qua giết thịt có xu hướng tăng, nhưng chưa ổn định. Tỉ trọng giá trị sản xuất chăn nuôi
trong nông nghiệp cũng chỉ dao động ở gần 20,0% (năm 1990 là 16,63%, 2000 là 16,51%, 2008
là 19,75%).
Bảng 3.9. Cơ cấu giá trị SX ngành chăn nuôi theo vật nuôi và theo sản phẩm 1990 - 2008 (%).
Các ngành chăn nuôi 1990 1995 2000 2005 2008
Tổng giá trị 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0
Gia súc 63,87 69,92 61,41 71,17 70,39
Gia cầm 19,26 17,50 17,81 13,47 14.21
Sản phẩm không qua giết thịt 12,92 14,19 15,14 13,29 13,54
Sản phẩm khác 3,95 3,39 2,64 2,06 1,86
Bảng 3.10. Sản lượng sản phẩm chăn nuôi chủ yếu từ 2000 – 2008
18
Đơn vị tính 2000 2003 2005 2008

Sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng Tấn 48415 5306 59800 71543
Sản lượng thịt bò hơi xuất chuồng " 93819 107540 142163 227196
Sản lượng sữa tươi " 51458 126697 197679 262160
Sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng Nghìn tấn 1418.1 1795.0 2288.3 2771
Sản lượng thịt gia cầm hơi giết, bán " 292.9 372.7 321.9 417.0
Trứng gia cầm Triệu quả 3771.0 4852.0 3948.5 4937.6
Sản lượng mật ong Tấn 5958 12758 13591 9960
Sản lượng kén tằm " 7153 11582 11475 7746
3.2.2. Chăn nuôi gia súc lớn
- Chăn nuôi trâu: Trâu là vật nuôi rất gần gũi với người nông dân, chủ yếu dùng làm sức
kéo trong nông nghiệp, lấy thịt, sữa. Nước ta có nhiều giống trâu tốt như trâu Nghệ An, Tuyên
Quang, gần đây chúng ta nhập giống trâu Mura có kết quả tốt. Về số lượng (2008) là 2,89 triệu
con, nhiều nhất Đông Bắc (1,2 triệu con – 42,1%), Bắc Trung Bộ (25,3%), Tây Bắc (16,2%); tỉnh
nuôi nhiều nhất là Nghệ An 296,5 ngàn con (10,2% cả nước), Thanh Hoá (227,3 ngàn con), Lạng
Sơn (160,9 ngàn), Sơn La (158,6 ngàn), Hà Giang (146,4 ngàn), Tuyên Quang (145,1 ngàn).
- Ngành chăn nuôi bò: Bò là vật nuôi đã được thuần dưỡng cách đây 25.000 năm, dùng
làm sức kéo, lấy thịt, sữa. Tùy theo từng điều kiện cụ thể, mỗi địa phương lại có hướng CMH’
khác nhau: Ba Vì (Hà Tây) chăn nuôi bò giống kết hợp lấy thịt, sữa; Mộc Châu (Sơn La) bò sữa
và sinh sản; Đức Trọng (Lâm Đồng) nuôi lấy sữa và sinh sản; ngoại ô các TP lớn Hà Nội, TP
HCM (chủ yếu là lấy sữa); đồng bằng Bắc Bộ dùng sức kéo; DH miền Trung (cày kéo, sinh sản,
lấy thịt). Tổng đàn bò cả nước năm 2008 là 6,33 triệu con; DH Nam Trung Bộ (1,43 triệu con–
22,7%), Bắc Trung Bộ (1,18 triệu con–18,6%), Tây Nguyên (721,3 ngàn con–11,4%), ĐB sông
Cửu Long (713,5 ngàn con–11,3%). Các tỉnh nuôi nhiều nhất là Nghệ An (408,9 ngàn con),
Thanh Hóa (351,3 ngàn), Gia Lai (327,6 ngàn), Bình Định (307,5 ngàn)
- Ngựa: nuôi phổ biến ở miền núi dùng vận chuyển hàng hoá. Đàn ngựa có xu hướng
giảm. Năm 1985 cả nước có ~ 132,7 ngàn con, đến năm 2008 giảm xuống còn 121,0 ngàn con.
Các giống ngựa tốt có ở Hát Lót (Sơn La), Nước Hai (Cao Bằng).
Địa bàn chăn nuôi gia súc không có nhiều thay đổi đã tạo nên một số mâu thuẫn: Hai
đồng bằng lớn có nhu cầu về sức kéo, thì 60% đàn trâu lại tập trung ở TDMNPB’, nhu cầu tiêu
thụ SP thịt tập trung ở vùng đông dân cũng là một vấn đề cần đặt ra trong thời gian tới.

Bảng 3.11. Số lượng đàn gia súc, gia cầm thời kỳ 1990 - 2008. (Nghìn con)
Trâu Bò Lợn Ngựa Dê, cừu Gia cầm
1990 2854,1 3116,9 12260,5 141,3 372,3 107400,0
1995 2962,8 3638,9 16306,4 126,8 550,5 163000,0
2000 2897,2 4127,9 20193,8 126.5 543,9 196100,0
2005 2922,2 5540,7 27435.0 110.5 1314.1 219900,0
2008 2897,7 6337,7 26701,6 121,0 1483,5 247300,0
3.2.3. Chăn nuôi gia súc nhỏ, gia cầm
19
- Đàn lợn: chăn nuôi lợn gắn liền với các vùng sản xuất lương thực. Đàn lợn tăng khá
nhanh và vững chắc. Năm 2008, cả nước có trên 26,7 triệu con (tăng 2,3 lần so với 1985). Các
vùng nuôi nhiều nhất là ĐB sông Hồng (6,79 triệu con – 25,4% cả nước), Đông Bắc (18,7%),
Bắc Trung Bộ (13,3%), ĐB sông Cửu Long (13,6%). Các tỉnh – thành phố có số đầu lợn nhiều
nhất Hà Nội (1,66 triệu con), Nghệ An (1,17 triệu), Thanh Hoá (1,14 triệu), Đồng Nai (1,08
triệu), Nam Định (1,02 triệu), Bắc Giang (1,05 triệu).
- Dê, cừu: là loại mắn đẻ, cho năng suất cao. Riêng về cừu, chủ yếu để lấy lông, ở nước ta
còn đang thử nghiệm, nhưng ít hiệu quả. Đàn dê chăn thả chủ yếu ở các vùng núi đá. Đàn cừu
chủ yếu nuôi ở vùng cao nguyên. Năm 1990 tổng đàn dê cừu là 372,3 ngàn con, đến năm 2008
tăng lên 1,48 triệu con (tăng 4,0 lần).
- Chăn nuôi gia cầm: Chăn nuôi gia cầm thường gắn liền với việc tận dụng nguồn lao
động phụ, phế liệu của ngành trồng trọt, là ngành đem lại hiệu quả kinh tế cao (do chu kỳ sinh
trưởng ngắn). Nhờ phát triển CNCB’ thức ăn kết hợp với nhu cầu ngày càng cao của thị trường,
đàn gia cầm liên tục tăng. Năm 2008 là 247,3 triệu con. Đàn gà, được nuôi ở đồng bằng, TDMN’;
ven các TP lớn có hình thức nuôi công nghiệp. Đàn vịt, nhiều nhất ở ĐB sông Cửu Long. Ngan,
ngỗng được nuôi ở nhiều vùng, nhưng nhiều nhất thuộc về ĐB sông Hồng và DHMT. Vào cuối
năm 2002 đầu năm 2003 dịch cúm gia cầm bùng phát (tiêu hủy tới 35,0 triệu con). Vì vậy việc
phát triển đàn gia cầm nên dự kiến là 340-350 triệu con vào năm 2010, trong đó đẩy mạnh liên
doanh chăn nuôi gà ở các TP HCM, Đồng Nai, Ninh Bình, Hải Dương
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Tại sao việc sử dụng hợp lý đất đai là vấn đề quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội

của cả nước cũng như đối với từng vùng lãnh thổ ?
2. Tại sao nói việc đảm bảo an toàn về lương thực là cơ sở để đa dạng hóa nông nghiệp.
3. Tình hình sản xuất lương thực của nước ta. Các vùng chuyên canh cây lương thực. Tại
sao cơ cấu cây lương thực (lúa) lại rất khác nhau giữa các vùng lãnh thổ ?
4. Chứng minh rằng nước ta đang phát huy tốt thế mạnh của nền nông nghiệp nhiệt đới.
5. Y nghĩa của việc đẩy mạnh sản xuất LT-TP. Hiện trạng và khả năng giải quyết đề LT-
TP. Nguyên nhân dẫn tới sản lượng lương thực ở nước ta tăng lên không ngừng
6. Phân tích những thuận lợi và khó khăn trong phát triển ngành chăn nuôi. Tình hình phát
triển và phân bố một số gia súc - gia cầm chủ yếu ở nước ta.
7. Giải thích tại sao ngành chăn nuôi nước ta vẫn chiếm tỉ trọng nhỏ trong cơ cấu nông
nghiệp. Định hướng phát triển chăn nuôi trong những năm tiếp theo.
8. Ý nghĩa của việc phát triển cây công nghiệp ở nước ta. Tình hình phát triển và phân bố
các cây công nghiệp chủ yếu.
9. Tại sao phát triển các vùng chuyên canh cây công nghiệp gắn với công nghiệp chế biến
là một phương hướng lớn trong chiến lược phát triển nông nghiệp ở nước ta. Những điều kiện
phát triển cây công nghiệp và những khó khăn cần khắc phục.
10. Thế nào là vùng chuyên canh cây công nghiệp, những điều kiện đề hình thành các
vùng chuyên canh cây công nghiệp. Các vùng chuyên canh cây công nghiệp lớn ở nước ta.
B. NGÀNH LÂM NGHIỆP.
20
1. Vai trò của lâm nghiệp trong nền kinh tế quốc dân (KTQD)
- Lâm nghiệp có vai trò rất quan trọng đối với việc phát triển KT-XH và đặc biệt là môi
trường sinh thái. Môi trường sinh thái đã và đang là vấn đề mang tính toàn cầu chứ không phải
đối với mỗi quốc gia, một trong những nguyên nhân cơ bản làm suy thoái môi trường sinh thái là
lớp phủ rừng bị tàn phá mạnh gây hậu quả rất lớn; mất rừng dẫn tới phá vỡ cân bằng sinh thái,
không còn khả năng bảo vệ nguồn nước, bảo vệ đất và các nguồn gien sinh vật; mất rừng sẽ ảnh
hưởng lớn đến việc phòng hộ (chắn sóng, chặn cát bay, chống lũ ); mất rừng, đồng nghĩa với
giảm tuổi thọ của các hồ thủy điện và thủy lợi và gây ra nhiều hậu quả khác kèm theo nó.
- Rừng là nguồn cung cấp gỗ, lâm sản cho nhu cầu đời sống và sản xuất; cung cấp các mặt
hàng xuất khẩu quan trọng (gỗ, lâm sản); Đối với các vùng cao, rừng còn là nguồn sống chủ yếu

của đồng bào dân tộc. Trong quá trình CNH’ và ĐTH', nhu cầu gỗ phục vụ cho nhu cầu xây dựng
cơ bản cần phải được ưu tiên phát triển. Nếu mỗi năm nhu cầu gỗ cho xây dựng cơ bản ~ 30 triệu
m
3
,

thì

cần phải ổn định qui mô rừng sản xuất ~ 5,0 triệu ha; trên thực tế nếu tính cả gỗ, củi khai
thác (cả khai thác không có tổ chức) thì chúng ta chỉ đạt ~ 25 triệu m
3
/năm. Vì vậy, việc qui
hoạch, chăm sóc, tu bổ, trồng mới, khai thác, CB' với nước ta hiện nay là rất quan trọng.
2. Tình hình khai thác – chế biến gỗ, lâm sản
2.1. Thực trạng nguồn tài nguyên rừng
Năm 2008, diện tích rừng của cả nước 13,11 triệu ha (rừng tự nhiên là 10,3 triệu ha), độ
che phủ gần 39,0%. Sự phát triển của ngành lâm nghiệp gắn liền với tài nguyên rừng, nguồn tài
nguyên rừng lại biến động rất mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng, cả theo hướng tích cực và
tiêu cực. Chỉ tính từ sau 1975, thì thời kỳ từ 1976 - 1990 mỗi năm rừng nước ta mất ~ 1,2% diện
tích; từ năm 1991 - 1995 tỉ lệ rừng bị mất trung bình 0,88%/năm. Tây Nguyên và các tỉnh Nam
Bộ, rừng mất nhanh nhất; Trong khi đó, các tỉnh miền Bắc rừng có xu thế ổn định và tăng lên.
▪ Rừng tự nhiên: Liên tục giảm suốt thời kỳ từ 1976 cho đến 1995. Theo kết quả điều tra,
đánh giá của Viện điều tra, qui hoạch rừng 1995, thì chỉ sau 14 năm (1976-1990), rừng tự nhiên
giảm ~ 2,0 triệu ha (190.000ha/năm); từ sau 1990, diện tích rừng giảm chậm hơn và bằng ~ 1/4
thời kỳ trước đó. Trong các kiểu rừng trên (trừ rừng lá rộng rụng lá và rừng hỗn giao gỗ và tre,
nứa) thì tất cả các kiểu rừng còn lại đều giảm về diện tích. Cụ thể:
- Rừng lá rộng thường xanh và nửa rụng lá giảm nhanh nhất, đặc biệt là ở Đắc Lắc và
Gia Lai (từ 1976-1995) giảm 32,2% diện tích. Thời kỳ 1976-1995, Tây Nguyên giảm 60,9 vạn ha
(1976-1990 giảm 54,6 vạn ha; 1991-1995 giảm 6,3 vạn ha. Trước năm 1990, loại rừng này giảm
sút ở tất cả các vùng. Thời kỳ 1991-1995, Tây Nguyên, ĐNBộ và NTBộ vẫn tiếp tục giảm, thì ở

BTBộ có xu hướng ổn định và Tây Bắc có xu hướng tăng lên.
- Rừng tre, nứa cũng giảm khá nhanh (Tây Nguyên, đến B.Trung Bộ, Đông Bắc). Bên
cạnh việc đốt rẫy làm nương, một phần diện tích rừng bị phá để trồng cây công nghiệp (chè, cà
phê, ) vì thế rừng tre nứa lại giảm nhanh hơn vào thời kỳ 1991 - 1995 so với 1976 - 1990.
21
- Rừng ngập mặn, chua phèn cũng giảm mạnh vào thời kỳ 1991-1995. So với năm 1990,
diện tích rừng ngập mặn chỉ còn ~50%, rừng chua phèn chỉ còn ~ 30%. Tốc độ giảm nhanh nhất
là ở Cà Mau, Bạc Liêu, Kiên Giang (do cháy rừng và nuôi trồng thuỷ sản).
Bảng 3.12. Biến động một số kiểu rừng tự nhiên thời kỳ 1976-1995 (1.000 ha).
Kiểu rừng 1976 1990 1995
1 Rừng lá rộng thường xanh và nửa rụng lá 8330,7 5759,5 5648,6
2 Rừng rụng lá 796,0 846,6 935,0
3 Rừng lá kim 180,8 135,1 155,1
4 Rừng ngập mặn 91,5 73,5 34,7
5 Rừng chua phèn 47,9 34,1 13,6
6 Rừng tre nứa 1174,2 1048,2 846,0
7 Rừng hỗn giao giữa gỗ và tre nứa 428,6 498,6 618,8
8 Rừng đặc sản 27,0 35,1 0,7
▪ Rừng trồng: Trong những năm qua có xu hướng tăng nhanh (đó là do chính sách giao
đất, giao rừng, hỗ trợ vốn, kỹ thuật của Nhà nước và các tổ chức quốc tế). Mặt khác, còn do việc
ổn định đời sống cho đồng bào dân tộc miền núi. Đến năm 2006, cả nước có 12.663.900 ha rừng
(rừng tự nhiên là 10.177.700 ha, rừng trồng là 2.486.200 ha).
Bảng 3.13. Diện tích rừng trồng, bị cháy và chặt phá phân theo vùng năm 1995, 1999,2008
Rừng trồng (nghìn ha) Rừng bị cháy (ha) Rừng bị chặt phá (ha)
1995 1999 2008 1995 1999 2008 1995 1999 2008
Cả nước 209,6 230,1 200,1 7457 4813
1677,
3 18914 5196
2242,
4

ĐBSH 10,5 5,4 19,3 167 166,3 115 9 5,2
TD&MNP
B 52,90 82,2
78,4
679 3546
425,3
2199 265 297,0
DHMTrun
g 80,8 66,9
72,7
1842 411
593,7
2487 1040 238,0
T.Nguyên 11,1 9,5 15,6 2344 211 24,0 10134 3154 662,5
ĐNBộ 14,8 7,1 3,7 520 458 86,9 1387 714
1026,
0
ĐB SCL 39,5 17,2 6,9 2072 012 306,9 2592 15 13,7
Bộ QP-CA 41,8 3,5
▪ Vấn đề tu bổ, bảo vệ rừng. Bắt đầu từ năm 1992, Nhà nước đã tiến hành XD các khu
bảo tồn tự nhiên. Năm 2007 cả nước có 30 vườn quốc gia, 65 khu dự trữ thiên nhiên và bảo tồn
loài – sinh cảnh, 6 khu được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển của thế giới với tổng
diện tích trên 2,09 triệu ha (năm 05/2009 UNESCO công nhận thêm Cù Lao Chàm và Cà Mau) .
2.2. Tình hình khai thác – chế biến gỗ, lâm sản
- Về cơ cấu: rừng chia làm 3 loại ( phòng hộ, đặc dụng và kinh doanh sản xuất)
22
- Rừng kinh doanh bao gồm: Rừng gỗ phục vụ cho xây dựng cơ bản; Rừng nguyên liệu
giấy; Rừng gỗ trụ mỏ; Rừng tre, nứa cho nhu cầu xây dựng và nguyên liệu giấy; Rừng đặc sản
(thông, quế, hồi, cánh kiến ); Rừng gỗ gia dụng và lấy củi.
- Về sản lượng gỗ khai thác (do có chủ trương đóng cửa rừng, cấm xuất khẩu gỗ tròn và

gỗ xẻ), vì vậy sản lượng gỗ khai thác giảm. Thời kỳ 1991-1995 khai thác ~ 14,4 triệu m
3
,
(BQ/năm 2,8 triệu m
3
, năm 1998 còn 2,2 triệu m
3
, năm 2002 là 2,5 triệu m
3
/năm, năm 2005 là
2,99 triệu m
3
), năm 2008 là 3,56 triệu m
3
. Vùng khai thác nhiều gỗ là: Đông Bắc (29,5 sản lượng
cả nước), DH Nam Trung Bộ (18,8%), ĐB sông Cửu Long (17,7%). Về củi ~ 26 triệu ste. Tre,
nứa, luồng ~ 300 triệu cây. Các sản phẩm gỗ chủ yếu là gỗ tròn, gỗ xẻ, ván sàn, đồ gỗ, gỗ lạng,
gỗ dán. Cả nước có vài trăm xí nghiệp cưa xẻ, vài ngàn xưởng thủ công.
Bảng 3.14. Sản lượng gỗ khai thác phân theo địa phương từ 1995 - 2008 (Nghìn m
3
)
1995 1997 1999 2001 2003 2005 2008
Cả nước 2793,1 2480,0 2122,5 2397,2 2435,8 2996,4 3562,3
ĐB sông Hồng 255,8 175,7 129,5 117,5 98,4 157,0 186,1
Miền núi, trung du phía Bắc 826,0 691,3 705,4 767,1 710,2 1050,9 1278,3
Đông Bắc 572,0 464,6 475,0 519,7 525,2 771,2 1051,7
Tây Bắc 254,0 226,7 230,4 247,4 185,0 279,7 226,6
Duyên hải miền Trung 653,5 646,8 497,0 553,2 656,3 833,2 1057,2
Bắc Trung Bộ 323,4 290,7 219,4 235,2 293,6 310,8 388,2
DH Nam Trung Bộ 330,1 356,1 277,6 318,0 362,7 522,4 669,0

Tây Nguyên 415,3 335,1 243,5 395,2 313,0 309,3 373,6
Đông Nam Bộ 121,8 103,2 84,9 105,4 76,1 90,4 128,4
ĐB sông Cửu Long 520,7 527,9 462,2 458,8 581,8 609,8 632,1
- Các lâm trường lớn hoạt động dưới dạng Liên hiệp L-N-CN đó là Liên hiệp nguyên liệu
giấy Bãi Bằng, Liên hiệp các xí nghiệp gỗ trụ mỏ, Liên hiệp nông-công nghiệp Sông Hiếu, Liên
hiệp Kôn Hà Nừng, Liên hiệp Easúp, Liên hiệp Gia Nghĩa, Liên hiệp La Ngà.
- Những xưởng cưa xẻ lớn thường tập trung ở những nơi có điều kiện thuận tiện tập trung
gỗ (ở hợp lưu các sông, hoặc nơi có điều kiện xuất khẩu): Hà Nội, Hải Phòng, Hàm Rồng, Vinh,
Đà Nẵng, Qui Nhơn, Biên Hòa, TP HCM là những nơi tập trung nhiều xưởng cưa xẻ lớn. Ngoài
ra, ở các địa phương cũng có những xưởng cưa xẻ nhỏ phục vụ chủ yếu nhu cầu dân dụng.
- Về gỗ dán, có một số cơ sở sản xuất như xí nghiệp gỗ dán Cầu Đuống (Hà Nội), Bến
Thủy (Vinh), Biên Hòa, TP HCM. Các xưởng đồ gỗ phát triển mạnh ở các thành phố lớn, nơi có
nhu cầu tiêu thụ cao như Hà Nội, Đà Nẵng, Biên Hòa và TP HCM.
- Ngành sản xuất mây, tre, trúc phổ biến ở Cao bằng, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Thái Nguyên,
Hà Giang, Sơn La, Hoà Bình, Hà Nội, Nghệ-Tĩnh, Bình-Trị-Thiên, Biên Hòa, TP HCM. Các mặt
hàng thường làm bằng phương pháp thủ công để xuất khẩu.
- Ngành sản xuất diêm, các xí nghiệp phân bố ở Hà Nội, Biên Hòa và TP HCM, hàng năm
sản xuất > 350 triệu bao.
23
- Ngành sản xuất giấy: Lớn nhất là nhà máy giấy Bãi Bằng (Phú Thọ) và Tân Mai (Đồng
Nai). Ở miền Bắc có những nhà máy giấy như Hoàng Văn Thụ (Thái Nguyên); Việt Trì (Phú
Thọ); Lam Sơn (Thanh Hóa), riêng nhà máy giấy Bãi Bằng (Phú Thọ) thuộc loại hiện đại nhất,
công suất 60.000 tấn/năm; nhà máy nằm trên hợp lưu của 3 con sông Chảy, Lô, Gâm, hợp điểm
của nhiều nguồn gỗ, tre, nứa cung cấp cho nhà máy. Ở miền Nam có tới ~ 10 nhà máy làm giấy
có máy móc tối tân (COGIVINA; NAGICO; COGIMEKO; Nam Việt; Long Thành .v.v.) phần
lớn ở TP HCM, Biên Hòa và Tân Mai (Đồng Nai). Trước đây, các nhà máy này dùng bột giấy
nhập và chỉ SX đạt ~ 60% so với công suất thiết kế; ngày nay đã dùng nguồn nguyên liệu tại chỗ
lấy từ nguồn thông Lâm Đồng, tre, nứa từ lưu vực sông Đồng Nai và cả nguồn phế liệu dồi dào ở
nông thôn như rơm, rạ, bã mía.
3. Định hướng phát triển

- Chuyển từ khai thác sang phục hồi, bảo vệ tài nguyên sinh thái, tính đa dạng sinh học
cũng như các hệ động - thực vật quí hiếm.
- Sẽ phủ xanh phần lớn diện tích đất trống đồi núi trọc, đưa diện tích rừng lên ~ 15 triệu
ha, độ che phủ là 45% (năm 2005, độ che phủ rừng 38%)
- Trồng 50 vạn ha rừng nguyên liệu giấy ở Đông Bắc và Đông Nam Bộ để cung cấp cho
các nhà máy giấy trong vùng (Bãi Bằng, Tân Mai).
- Trồng 30 vạn ha rừng phục vụ xây dựng cơ bản ở DH miền Trung và Tây Nguyên.
- Trồng 30 vạn ha rừng đặc sản (quế, hồi, trẩu, cánh kiến đỏ ) cung cấp cho các xí nghiệp
CB' vừa và nhỏ với công nghệ tiên tiến ở Quảng Ninh, Hà Tĩnh, Quảng Bình
- Trồng 10 vạn ha rừng nguyên liệu và dược liệu và làm giàu 70 vạn ha rừng tự nhiên để
cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến gỗ, lâm sản.
CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Vai trò của ngành lâm nghiệp đối với kinh tế - xã hội và môi trường sinh thái.
2. Trình bày thực trạng về tài nguyên rừng ở nước ta. Vấn đề đặt ra trong việc khai thác
và sử dụng hợp lí nguồn tài nguyên này. Nêu định hướng phát triển.
3. Trình bày những hoạt động chính của ngành lâm nghiệp nước ta.
4. Dựa vào bảng số liệu: 3.14. Hãy phân tích tình hình khai thác gỗ ở nước ta thời kì trên.
5. Dựa vào kiến thức đã học, hãy trình bày những nét cơ bản về Vườn quốc gia, Khu dự
trữ sinh quyển thế giới. Kể tên các Vườn quốc gia và Khu dự trữ sinh quyển thế giới ở nước ta
(tính đến năm 12/2009).
24
C. NGÀNH NGƯ NGHIỆP
1. Vai trò của ngư nghiệp trong nền kinh tế quốc dân
Vai trò của ngành này thể hiện rất rõ trong cơ cấu bữa ăn của nhân dân (thực phẩm có
dinh dưỡng cao). Tiêu thụ BQ cả nước 14kg cá /người (thành thị 17kg, nông thôn 13 kg). Góp
phần tạo ra mặt hàng xuất khẩu quan trọng (năm 1995 tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 621,4 triệu
USD, chiếm 11,4% tổng giá trị hàng xuất khẩu cả nước, đến năm 2000 tăng lên 1.478,5 triệu
USD (10,1%), năm 2005 là 2.723,5 triệu USD (8,4%) và năm 2008 là 4.510,1 triệu USD (7,2%).
Tốc độ tăng từ 1995 – 2008 là 7,3 lần (đứng hàng thứ 5 sau hàng dệt, may, dầu thô, giày dép,
gạo). Thị trường được mở rộng tới 90 quốc gia và vùng lãnh thổ. Ngoài ra, ngành này đã thu hút

3,1% số lao động có việc làm của cả nước (1,1 triệu lao động), bao gồm 45,0 vạn lao động làm
nghề đánh bắt, 56,0 vạn lao động làm nghề nuôi trồng và 6 vạn lao động trong lĩnh vực chế biến.
2. Tình hình phát triển
2.1. Sản lượng thủy sản
Sản lượng thủy sản ở nước ta tăng khá nhanh. năm 1990 sản lượng đạt 890,6 ngàn tấn (khai
thác 728,5 ngàn tấn, nuôi trồng 162,1 ngàn tấn), đến 1995 sản lượng là 1584,4 ngàn tấn (1195,3
ngàn tấn và 389,1 ngàn tấn). Năm 2008, sản lượng thủy sản tăng lên 4,60 triệu tấn (khai thác
2136,4 ngàn tấn, nuôi trồng 2465,6 ngàn tấn). Trong cơ cấu, thủy sản nuôi trồng tăng nhanh về tỉ
trọng từ 18,2% (năm 1990) tăng lên 53,58% (năm 2008)
Sản lượng cao nhất là ĐB sông Cửu Long 2,70 triệu tấn (58,70% cả nước), DH Nam Trung
Bộ (14,70% cả nước), ĐB sông Hồng (9,20%).
Bảng 3.15. Sản lượng thủy sản phân theo địa phương từ 1995 – 2008 (nghìn tấn)
1995 2000 2005 2008
Cả nước 1584,40 2250,5 3465,92 4602,03
Đồng bằng sông Hồng 110,30 194,00 324,38 424,79
Trung du và miền núi phía Bắc 40,20 55,10 98,81 133,31
Đông Bắc 37,04 51,10 91,13 122,70
Tây Bắc 3,18 4,0 7,67 10,61
Duyên hải miền Trung 448,08 627,81 871,57 985,56
Bắc Trung Bộ 108,71 164,87 247,71 309,31
Duyên hải Nam Trung Bộ 339,37 462,93 623,85 676,25
Tây Nguyên 8,90 10,28 14,58 18,43
Đông Nam Bộ 157,60 194,26 310,77 338,0
Đồng bằng sông Cửu Long 819,20 1169,0 1845,82 2701,9
2.2. Đánh bắt hải sản (chủ yếu là cá biển)
Tất cả các tỉnh ven biển đều có ngành khai thác phát triển đặc biệt phát triển mạnh ở DH
Nam Trung Bộ và Nam Bộ. Năm 2008, sản lượng cá biển của cả nước đạt 1,47 triệu tấn. ĐB sông
25

×