Hệ thống phân loại nấm
Sự phân loại nấm cổ điển quá phức
tạp và không ngừng thay đổi cho
đến nay. Nói chung, cơ sở để phân
loại nấm dựa vào phương thức sinh
sản và cấu trúc, hình dạng của cơ
quan sinh bào tử. Tất cả các tên
nấm đều có myco cho dù thuộc
nhiều giới khác nhau.
Đầu tiên, trong hệ thống phân loại
của C. Linnaeus (1707-1778), nấm
thuộc giới thực vật. Theo hệ thống
phân loại 5 giới của Whittaker
(1920-1981), hầu hết nấm thuộc
giới nấm không bao gồm một số
loài có cấu trúc lông roi (như
Hyphochytridiomycetes) trong giới
protista. H
ệ thống của giới nấm bao
gồm hai ngành (G. C. Ainsworth,
1973): Myxomycota và Eumycota.
Eumycota bao gồm 5 ngành phụ:
Mastigomycotina,
Deuteromycotina, Zygomycotina,
Ascomycotina và Basidiomycotina.
Tiếp theo, hệ thống phân loại của
nấm được phân chia một cách đặc
biệt. Theo C. J. Alexopoulos
(2002), nấm có 3 phần trong giới
nấm, giới Stramenopila (một giới
mới bao gồm các sinh vật có cấu
trúc lông roi được tách ra từ
protista) và giới Protista. Giới nấm
có 4 ngành: Chytridiomycota,
Zygomycota, Ascomycota,
Basidiomycota. Phần của nấm
trong giới Stramenopila có 3
ngành: Oomycota,
Hyphochytriomycota,
Labryrinthulomycota. Bốn ngành
khác của nấm được xem như là các
sinh vật nguên sinh trong giới
protista: Plasmodiomycota,
Dictyosteliomycota,
Acrasiomycota, Myxomycota. Lý
do của sự phân chia này là từ
nhưng bằng chứng mới của các
nghiên cứu về rRNA và hoá sinh
học. Các bằng chứng chứng minh
sự tồn tại của 3 nhóm nấm khác
nhau. gần đây, sau khi hệ thống
phân lơại giới xấut hiện, giới nấm
được tái cấu trúc và sắp xếp lại. tất
c
ả các phấn trong cá giới khác nhau
được tập hợp lại chỉ trong một giới
nấm. các nhà nấm học phân chia
giới này thành hai phần: nấm giả,
bao gồm 7 ngành: Oomycota,
Hyphochytridiomycota,
Labyrinthulomycota,
Plasmodiophoromycota,
Dictyosteliomycota, Acrasiomycota
và Myxomycota và nấm thất là
những phần còn lại.
Sự phân loại theo hệ thống phân tử
của sinh giới nói chung và nấm nói
riêng thì hầu như dựa vào thành
phần và c
ấu trúc của các gen rRNA
bởi vì chúng có cả vùng bảo tồn và
vùng có kh
ả năng biến đổi. Các gen
rRNA định vị ở hai nơi trong tế b
ào
là nhân và ti thể nhưng các gen
rRNA trong nhân thường thích hợp
hơn. Các gen rRNA có sự thuận lợi
hơn vì hai lý do: 1/. Các gen rRNA
có nhiều bản sao dễ dàng cho được
tạo dòng; 2/. Các gen rRNA ti thể
tương ứng với các gen của
prokaryote. Trong nhiều trình tự
của các gen rRNA, trình tự ITS và
IGS, trình tự ribosom 18S hay 25S
được sử dụng nhiều hơn thay cho
trình tự 5,8S hay 5S bởi vì chúng
dài hơn và đủ sự đa dạng. phương
pháp phổ biến nhất là giải trình tự
các sản phẩm PCR được tạo ra từ
các cặp mồi chuyên biệt. Tiếp
theo,
các trình tự được phân tích hay so
sánh với các trình tự khác hay hay
lấy ra từ ngân hàng gen để xây
dựng cây phát sinh loài. Một số
phương thức khác cần cho việc
nghiên cứu sự phân loại ở mức
phân tử dựa vào cấu trúc thứ cấp
của các gen rRNA hay sử dụng
RFLP (Restriction Fragment
Length Polymorphism) xây dựng
bản đồ vị trí cắt giới hạn. Theo
quan điểm của tôi, việc áp dụng
phân loại phân tử ở nấm vẫn còn
một số vấn đề và khó và nhất là
mối liên kết giữa các loài phân tử
và các loài hình thái cũng như tính
tương hợp về sự giao phối của các
loài nấm.
Hoangpham
Tài liệu tham khảo:
1) Alexopoulos CJ, Mims CW,
Blackwell M, 2002. Introductory
mycology. Published by John
Wiley & Sons (Asia), Singapore.
2) David SH, 1992. Ribosomal
RNA and Fungal systematics.
Transactions of the Mycological
Society Social of Japan, Trans.
Mycol. Soc. Japan 33: pp. 533-
556.
3) Đông BX, 1977. Một số vấn đề
về nấm học (Viet nam). Nhà xuất
bản KHoa học và Kỹ thuật, Việtt
nam.
4) Dũng NL, Nguyen ĐQ, Pham
VT, 1997. Vi sinh vậtt học
(Vietnamese). Nhà xuất bản Giáo
dục, Việt Nam.
5) Junta S, 1998. Relatedness,
phylogeny, and evolution of fungi.
MycoScience 39: pp.487-511.
6) Suzuki A (Chairman of Asian
Mycological Committee), 2007.
Current trends in mushroom
science and technology. Present in
Institute of Tropical Biology,
Hochiminh City, Vietnam. March,
2007.