Tải bản đầy đủ (.doc) (271 trang)

Nuôi dạy và chăm soc bé yêu ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.16 MB, 271 trang )

Để trữ sữa mẹ
Để ngăn ngừa tình trạng sữa bị nhiễm khuẩn, sữa mẹ phải được xử lý và trữ đúng cách
trước khi cho trẻ dùng.
Theo trang tin healthday.com, các chuyên gia thuộc Trung tâm kiểm soát và ngăn ngừa
bệnh tật Mỹ đã đưa ra những lời khuyên sau:
1. Rửa sạch tay trước khi lấy sữa hoặc chuẩn bị sữa cho trẻ bú;
2. Hãy trữ sữa trong bình sạch sẽ và được đậy nắp kỹ;
3. Nhớ ghi ngày trên bình đựng sữa để bạn có thể biết nên dùng bình nào trước.
Ngoài ra, bạn cũng nên ghi tên trẻ lên bình sữa nếu có người khác chăm sóc trẻ;
4. Không bao giờ châm thêm sữa mới vào sữa đã được trữ trong tủ lạnh;
5. Không bao giờ trữ lại hoặc cho trẻ dùng lại bình sữa đã dùng hết một phần.
Bé không chịu ăn và uống sữa
1
Ảnh: shutterstock
Hỏi: Bé gái nhà em 30 tháng tuổi, nhưng chỉ cao 86cm, nặng 10kg. Em đã làm mọi cách,
tìm mọi thứ thuốc cho con uống nhưng vẫn không cải thiện được tình hình. Thưa bác sĩ,
con em như vậy có phải đã suy dinh dưỡng? Cả ngày bé chỉ ăn được nửa chén cơm, uống
chừng 300ml sữa, tuy nhiên bé vẫn vui chơi bình thường._Hoàng Nguyên (Cao ốc An
Khang, Q.2)
Trả lời: Trẻ 30 tháng tuổi trung bình cân nặng 13kg, cao 90cm, vậy bé đã bị suy dinh
dưỡng thiếu cả cân nặng và chiều cao. Chế độ ăn bé 30 tháng là sáng 1 chén cháo (hay
bún, phở, mì, nui…) nấu đủ chất (cháo có thịt hoặc cá, dầu ăn, rau), trưa nửa chén cơm và
chiều nửa chén cơm (hoặc 1 chén cháo, bún).
Cần xé nhỏ món mặn, cắt nhỏ rau trong canh… để trẻ dễ nhai nuốt. Chú ý thêm 2 muỗng
cà phê dầu ăn (mè, nành…) trong chén cơm hay canh của bé. Ngoài 3 bữa ăn, trẻ cần
600-800ml sữa (sữa tươi, sữa bột đều được). Nếu bữa nào trẻ ăn ít hơn nửa chén phải cho
ăn bù thêm ngay các thức ăn phụ như sữa chua, bánh flan, kem, bánh quy, trái cây hoặc
sữa cho đủ no.

Lợi ích mới khi cho con bú
2


Những bà mẹ thường xuyên cho con bú sẽ có vóc dáng thon thả hơn khi lớn tuổi, theo
trang tin Healthday. Các chuyên gia thuộc Đại học Pittsburgh (Mỹ) đã khảo sát 351 phụ
nữ với độ tuổi trung bình là 51, có trung bình 2 con và người con lớn khoảng 20 tuổi.
Kết quả theo dõi cho thấy những người chưa từng cho con bú hoặc cho bú không đều đặn
tăng 28% nguy cơ tích mỡ bụng so với những người thường xuyên cho con bú. Vòng eo
của những người không hoặc ít cho con bú cũng lớn hơn nhóm kia khoảng 6,5 cm và tỷ lệ
số đo eo-hông của họ cũng cao hơn 47%.
Lúc nào cần bổ sung dinh dưỡng cho trẻ?
Hầu như các bậc cha mẹ thấy con thiếu gì thì bổ sung đó hoặc chạy theo những lời quảng
cáo mà quên những yếu tố tác động đến sự phát triển lâu dài.
Nuôi trẻ trong 3 năm đầu rất khó khăn. Trong ảnh: Bữa ăn trưa của các cháu tại Trường
Mầm non Tân Bình - TPHCM. Ảnh: N. Hữu
Cha mẹ thường mong con mình cao to và bụ bẫm nên thường có tâm lý muốn đạt điều
này thật nhanh. Thực ra, cân nặng và chiều cao là những giá trị phát triển thể chất dễ
3
quan sát nhất nhưng chưa đánh giá hết sự phát triển về trí tuệ, miễn dịch và những yếu tố
khác trong sự phát triển toàn diện của trẻ.
Nuôi trẻ trong 3 năm đầu, đặc biệt là dưới 1 tuổi, thường gặp rất nhiều khó khăn do sức
của trẻ còn yếu, hệ thống miễn dịch chưa hoàn thiện nên hay mắc các bệnh đường hô hấp
và tiêu hóa
Trong thời gian này, cần lưu ý trong lựa chọn
nguồn dinh dưỡng hằng ngày, đặc biệt là nguồn
dinh dưỡng từ sữa để giúp cho trẻ phát triển toàn
diện và cân đối về thể chất, tinh thần, trí tuệ cũng
như miễn dịch chống bệnh. Cần nắm rõ các thời
điểm nhạy cảm sau đây để can thiệp dinh dưỡng
tốt nhất cho trẻ:
- Về thể chất: Trẻ có 2 giai đoạn phát triển vượt
bậc. Giai đoạn 0 đến 5 tuổi (chịu tác động chủ yếu
của chế độ dinh dưỡng) và giai đoạn tiền dậy thì

(chịu tác động chính của hormone và đồng thời
chế độ dinh dưỡng).
Ở cả hai giai đoạn này nên duy trì cân nặng và
chiều cao ở mức cân đối, tránh suy dinh dưỡng
cũng như béo phì. Cần lưu ý cung cấp đầy đủ
những chất hỗ trợ cho sự phát triển của các cơ
quan trong cơ thể như trí não, tiêu hóa, xương
khớp Nhiều trẻ có cân nặng và chiều cao tốt
nhưng vẫn thiếu một số chất như sắt, kẽm, vi
lượng, chất xơ, một số acid amin.
- Về tâm thần vận động: Ba năm đầu tiên có vai
trò quyết định sự phát triển của hệ thần kinh. Lúc
trẻ 3 tuổi, não nặng gấp 3 lần lúc sinh và đạt 85% não của người trưởng thành.
Khi trẻ 6 tuổi, não trẻ đã bằng não của người lớn. Do đó, những dưỡng chất cần cho phát
triển của não và hệ thần kinh nên được cung cấp từ rất sớm, ngay từ giai đoạn bào thai (ví
dụ DHA, ARA, phospholipids, cholin, acid béo thiết yếu, cholesterol, sắt, iod, vi
lượng ).
Có những nghiên cứu cho thấy sử dụng DHA có hiệu quả nhiều nhất trong thai kỳ và 6
tháng đầu tiên. Việc cung cấp dinh dưỡng nên đi đôi với việc tập luyện các phản xạ thần
kinh, rèn luyện khả năng tư duy và khả năng tập trung của trẻ.
- Về miễn dịch: Trong 6 tháng đầu tiên, trẻ được bảo vệ nhờ lượng kháng thể IgG từ mẹ
thông qua nhau thai, đồng thời trong sữa mẹ có chứa nhiều chất chống bệnh (như
Tỉ lệ trẻ béo phì cao ở trường điểm
Các khảo sát gần đây cho thấy, tỉ lệ
trẻ em VN thừa cân và béo phì đang
gia tăng nhanh chóng, nhất là ở các
trường điểm, nơi đông học sinh có
hoàn cảnh kinh tế gia đình khá giả, ít
thời gian vận động, chỉ chú trọng học
tập.

Kết quả khảo sát ở một trường tiểu
học tại một quận trung tâm TPHCM
cho thấy có 47,6% học sinh bị thừa
cân, béo phì, (béo phì chiếm 25,9%
và dư cân 21,7%).
Trẻ béo phì ngoài những mặc cảm về
tâm lý, ngại vận động, ngại giao tiếp,
học hành chậm chạp hay mệt mỏi, có
nguy cơ bị cao huyết áp, tiểu đường,
gan nhiễm mỡ, đau khớp, sẽ có nguy
cơ lùn hơn các bạn vì sẽ dậy thì sớm
hơn, do đó ngưng tăng trưởng sớm
hơn; sức đề kháng kém nên dễ bị mắc
các bệnh nhiễm trùng, dị ứng.
4
lactoferrin, lysozyme, IgA). Sau đó trẻ dễ bị bệnh hơn do miễn dịch của bản thân chưa
hoàn chỉnh và lượng kháng thể mẹ cho cạn dần.
Các kháng thể chống lại kháng nguyên polysaccharide của vi trùng chỉ tốt khi trẻ được 2
đến 3 tuổi, trong khi những kháng thể chống bệnh (IgM và IgG) chỉ đạt được nồng độ của
người lớn khi trẻ 4 đến 6 tuổi. Những miễn dịch khác (như tuyến ức, hệ võng nội mô )
còn hoàn thiện cho đến tuổi dậy thì. Do đó, dinh dưỡng đóng vai trò cực kỳ quan trọng
trong phát triển và hoàn thiện miễn dịch của cơ thể.
Những chất có vai trò điều hòa hay hỗ trợ phát triển miễn dịch là các acid béo thiết yếu,
DHA, ARA, một số acid béo chuỗi ngắn, một số acid amin, nucleotide, folate, sắt, kẽm,
vitamin ADE, vitamin BC, chất xơ
Chế độ dinh dưỡng để giúp có một hệ tiêu hóa khỏe mạnh cũng là yếu tố quan trọng
trong việc phòng chống bệnh tật, vì đường tiêu hóa là nơi tiếp xúc nhiều nhất với các tác
nhân gây bệnh, từ nhiễm trùng đến dị ứng. Đường tiêu hóa cũng là nơi tạo ra hơn 80%
lượng kháng thể IgA của cơ thể giúp trung hòa tác nhân gây bệnh và các độc tố của
chúng.

Chế độ dinh dưỡng hợp lý sẽ giúp cân bằng quá trình viêm và dị ứng của cơ thể, làm
giảm thiểu nguy cơ dị ứng thức ăn, các bệnh lý liên quan đến dị ứng khác (như suyễn,
chàm, viêm dạ dày ruột dị ứng ), bệnh lý viêm mạn (như viêm đường tiêu hóa mạn,
bệnh Crohn, tiểu đường, bệnh Celiac) thậm chí lymphoma, leucemie
Ăn dặm cho bé 7-12 tháng
Từ 8 tháng tuổi, bé có thể ăn được những món giàu đạm và sắt, với độ đặc hơn. Tới 9
tháng tuổi thì lượng sữa mẹ, sữa công thức sẽ từ từ giảm do bé hấp thu được nhiều thức
ăn hơn.
5
Giai đoạn 7-8 tháng tuổi
Khoảng 8 tháng tuổi, khi bé đã ăn được ngũ cốc gạo dành cho bé, nhiều loại hoa quả và rau
xanh khác nhau, bạn thử cho bé làm quen với nhiều món chứa giàu chất đạm và chất sắt, có kết
cấu đặc hơn; chẳng hạn:
- Thịt lợn, thịt gà, kể cả thịt vịt nấu thật chín. Ngoài ra, có thể cho bé ăn thêm tôm, cá… nấu thật
chín.
- Lòng đỏ trứng luộc.
- Các loại đậu đỗ như đậu Hà Lan…
- Ngũ cốc ăn dặm có nguồn gốc từ lúa mỳ; mỳ ống hoặc ruột của bánh mỳ nướng.
Mỗi bữa ăn của bé bao gồm 2-3 loại thức ăn khác nhau. Có thể cho bé ăn từng món riêng rẽ thay
vì trộn lẫn các món với nhau, để kích thích bé thưởng thức mùi vị của từng món.
Thay đổi kết cấu thức ăn
Khoảng 6-9 tháng tuổi, bé bắt đầu tập nhai dù chưa có răng. Giai đoạn này, quan trọng là kết cấu
thức ăn cần thay đổi, từ nấu nhuyễn nhừ sang nấu nhừ có cục nhỏ, mềm và cuối cùng là thức ăn
băm nhỏ, xay nhỏ. Thức ăn băm nhỏ sẽ kích thích bé tập nhai, tập cắn thức ăn có cục, giúp phát
triển kỹ năng nói.
Mẹo vặt: Nấu nhiều thức ăn cùng lúc; chẳng hạn, thịt và rau củ nấu chín rồi làm đông lạnh trong
các hộp nhỏ có thể tiết kiệm được thời gian và giảm căng thẳng cho mẹ khi cần chuẩn bị bữa ăn
nhanh cho con.
Giai đoạn 9-10 tháng tuổi
Tới 9 tháng tuổi thì số lượng sữa mẹ (sữa bột) sẽ từ từ giảm xuống vì mỗi bữa ăn, bé ăn nhiều

thức ăn đặc hơn. Cần cho bé ăn dặm trước khi uống sữa vì thời điểm này, thức ăn đặc là nguồn
dinh dưỡng chủ yếu hơn. Ngoài ra, bạn cần tăng sự đa dạng của các loại thức ăn cho bé.
Cho bé uống nước lọc vì nước lọc thì tốt hơn uống nhiều nước hoa quả. Bất kỳ loại nước quả
6
nào cũng cần được pha loãng với nước lọc theo tỷ lệ 50:50 và chỉ cho bé uống vừa phải. Khuyến
khích bé uống nước từ cốc thay cho bình sữa.
Khi bé ăn bốc thành thạo (khoảng 9 tháng tuổi), bạn có thể cho bé ăn các món cần dùng tay như:
- Các miếng phômai thái nhỏ.
- Các lát thịt lợn, thịt gà hoặc giăm bông nhỏ.
- Mỳ ống nấu chín.
- Bánh quy mềm.
- Các miếng rau củ quả nấu thật chín, như bí ngô, carrot, quả lê, quả táo…
Để tránh bị nghẹn, bạn phải luôn để mắt tới bé khi ăn. Luôn giữ cho người bé thẳng lên khi đút
thức ăn cho bé.
Lưu ý với sữa bò
Sữa mẹ (hoặc sữa công thức) vẫn là nguồn sữa chính cho đến khi bé được 1 tuổi. Sau đó, có
thể tập cho bé uống sữa bò. Tuy nhiên, khoảng 9 tháng tuổi, bạn có thể dùng một chút sữa bò
làm sữa chua, caramen hoặc làm món bánh trứng sữa cho bé thưởng thức.
Các thức ăn cần tránh
Các miếng rau, củ quả nấu chưa chín có thể làm bé bị nghẹn.
Thức ăn nhỏ và cứng, như bỏng ngô và kẹo.
Các loại hạt, quả nhỏ còn nguyên quả như hạt dẻ, lạc, hạt điều…
Giai đoạn 12 tháng
Bạn cần khuyến khích bé tự ăn và đưa cốc cho bé tự tập uống nước. Đây là giai đoạn thích hợp
để cho bé ăn cùng các bữa chính với gia đình theo khẩu phần thích hợp của bé. Khoảnh một
nửa khẩu phần của bé là thực phẩm và nửa kia gồm sữa mẹ, cộng với sữa công thức. Bé có thể
dùng 500ml sữa công thức, kèm theo 3-4 lần “ti mẹ” mỗi ngày.
Mẹo nhỏ với bé kén ăn
Bé lười ăn với những loại thức ăn mới (chưa quen) cũng là điều bình thường. Nhiều bé, khi tập
ăn thức ăn mới đến lần thứ 10 mới chịu ăn. Vì thế, cha mẹ cần kiên nhẫn.

Cho bé thử thức ăn mới cùng với những loại thức ăn quen thuộc mà bạn biết rằng bé rất thích.
Như thế, nếu bé có từ chối món mới thì vẫn còn món cũ để thay thế. Những lưu ý dành cho cha
mẹ lúc này là:
- Kiên nhẫn.
- Không khí thoải mái.
- Có miếng lót dưới sàn nhà, đeo yếm cho bé khi ăn.
Ngoài ra, bạn cần nhớ:
7
- Cho bé ăn thức ăn đặc thật từ từ. Mỗi bé có thói quen ăn uống khác nhau và cách tiếp cận thức
ăn cũng khác nhau. Nên đa dạng thức ăn cho bé.
- Sản phẩm ít chất béo làm từ sữa không thích hợp cho bé dưới 2 tuổi.
Theo Me&Be
Để tăng cường khả năng tiêu hoá hấp thu cho trẻ
Sức khỏe của chúng ta phụ thuộc nhiều vào hoạt động của bộ máy tiêu hoá. Bình thường,
trong hệ thống tiêu hoá có 2 loại vi khuẩn thường xuyên tồn tại, đó là các vi khuẩn có lợi
cho cơ thể chiếm khoảng 85%, còn lại 15% là các vi khuẩn có tiềm năng gây bệnh.
> Viabiovit- Mang lại sức khoẻ “vàng” cho trẻ > VIABIOVIT - sự kỳ diệu của cuộc sống
- Hệ vi khuẩn có lợi ở đường ruột là một yếu tố vô cùng quan trọng không chỉ cho chức
năng tiêu hoá thức ăn, thải độc, bài tiết, chuyển hoá mà còn liên quan đến sự tổng hợp các
yếu tố vi lượng (vitamin, các men) các nội tiết tố đường tiêu hoá, các chất kháng sinh tự
nhiên để kìm hãm và tiêu diệt vi khuẩn cũng như nấm gây bệnh. Đặc biệt, vi khuẩn có lợi
ở đường ruột còn tác động tích cực đến cả hệ miễn dịch (sức đề kháng) của toàn bộ cơ
thể, nhất là tại các màng hoạt dịch như ở: các xoang, miệng, tai mũi họng, đường hô hấp,
đường ruột, tiết niệu và gan mật
- Trong quá trình sinh sống, nếu ăn thức ăn có chứa quá nhiều chất bảo quản thực phẩm,
thức ăn chứa độc tố sinh ra từ việc nấu nướng và chế biến, chế độ ăn uống không hợp
lý hoặc sử dụng thuốc kháng sinh kéo dài, , các liệu pháp vật lý (xạ trị) để điều trị bệnh
sẽ làm mất cân bằng hệ vi khuẩn trong cơ quan tiêu hoá, dẫn đến tổn thương niêm mạc
ruột, viêm, loét (do sự phát triển quá mức của các vi khuẩn chất bổ dưỡng (đối với hệ
thống tiêu hoá bị suy giảm, cơ thể chỉ hấp thụ từ 5% đến 50%) mà chức năng đào thải

độc tố cũng bị kém đi.Kết quả là làm giảm sức đề kháng, tăng nguy cơ bị các bệnh nhiễm
trùng, các bệnh viêm, dị ứng, bệnh tự miễn, không chỉ cho đường tiêu hoá mà còn cho
8
nhiều cơ quan khác trong cơ thể. Khi đó việc bổ sung các vi khuẩn lành tính này là điều
quan trọng và rất cần thiết.
- Đã từ nhiều năm nay, các nhà khoa học đã dùng các chế phẩm chứa các loại vi khuẩn
lành tính có nguồn gốc từ các sản phẩm sữa, sữa chua, các loại thực phẩm và nước uống
lên men để tăng cường sức khoẻ, chống bệnh tật và tăng tuổi thọ. Trong đó các vi khuẩn
lành tính họ Lactobacillus (Lactobacillus sprorogenes, Lactobacillus kefir, Lactobacillus
acidophilus) là thành phần chính vô cùng quan trọng và không thể thiếu trong các chế
phẩm men vi sinh.
VIABIOVIT là một sản phẩm của Công Ty Vắcxin Và Sinh Phẩm Số II
(BIOPHARCO), được phối hợp 3 chủng vi khuẩn trong họ Lactobacillus rất có lợi cho
đường ruột. Với hàm lượng vi khuẩn lớn và dạng đông khô nên khả năng sống bảo tồn
lâu khi được bảo quản ở nhiệt độ thường, các chủng vi sinh vật này sẽ giúp cân bằng hệ
thống vi khuẩn có ích trong đường ruột, giúp thúc đẩy quá trình tiêu hoá và hấp thu dinh
dưỡng.
- Hiệu quả tác dụng của 3 chủng vi khuẩn có ích nhờ các hoạt tính sau:
+ Tạo môi trường axit nhờ tiết ra axit lactic, đây là môi trường trường thuận lợi cho hệ vi
sinh lên men đường ruột phát triển và ngược lại, ức chế sự phát triển của vi khuẩn gây
bệnh dạng Gram(-).
+ Tiết ra các chất diệt khuẩn như: acid acetic, acid benzoic…
+ Thúc đẩy quá trình tổng hợp vitamin và một số acid amin cần thiết cho cơ thể, do đó rất
có lợi cho quá trình tiêu hoá và hấp thu.
+ Tác dụng của một số vitamin nhóm B và PP: Nâng cao sức đề kháng của cơ thể, đặc
biệt giúp tăng cường khả năng tiêu hoá và hấp thu tốt các chất bổ dưỡng cho trẻ sơ sinh.
Cân bằng rối loạn hệ vi khuẩn đường ruột do dùng kháng sinh
+ Giúp tạo cảm giác ngon miệng và tăng cường tiêu hoá, dùng tốt cho những người rối
loạn tiêu hoá ( tiêu chảy, táo bón, đại tràng mãn tính, đầy hơi): những người có nguy cơ
bệnh tim mạch và chống lão hoá tuổi già.

VIABIOVIT Nâng cao sức đề kháng của cơ thể, đặc biệt giúp tăng cường khả năng tiêu
hoá và hấp thu tốt các chất bổ dưỡng cho trẻ em nhờ bổ sung một số vitamin nhóm B và
PP.
Phòng tránh nôn, trớ ở trẻ
Khi cho bé ăn xong, mẹ đặt bé nằm ngửa ngay lập tức, trong khi cơ thượng phát triển
kém hơn cơ môn vị dẫn đến thức ăn trong dạ dày chảy ra ngoài thực quản và gây nôn, trớ.
9
Trẻ bị trớ, nôn là hiện tượng rất bình thường ở mọi trẻ sơ sinh. Có những trẻ ít gặp trường hợp
này nhưng có những trẻ làm mẹ rất vất vả khi vừa cho bé bú hoặc ăn no xong bé lại trớ ra.
Tại sao bé hay trớ?
Trẻ sơ sinh có dạ dày nhỏ, các cơ và hệ thần kinh còn non nớt chưa phát triển hoàn chỉnh khiến
trẻ không thể hấp thụ được nhiều sữa cùng một lúc nên trẻ sẽ bị trớ. Người mẹ cho bé bú quá
no, khiến bé không thể hấp thụ hết được.
Khi cho bé ăn xong, mẹ đặt bé nằm ngửa ngay lập tức, trong khi cơ thượng phát triển kém hơn
cơ môn vị dẫn đến thức ăn trong dạ dày chảy ra ngoài thực quản và gây nôn, trớ.

Nếu trẻ bú bình, nếu mẹ không để ý sữa không lên đến đầu núm vú khiến trẻ nuốt toàn không
khí. Điều này sẽ khiến bé bị chướng bụng gây nôn trớ.

Phòng tránh
Đây là hiện tượng khá bình thường diễn ra ở trẻ nhỏ, nhất là trẻ sơ sinh khi cơ thể còn quá non
nớt chưa kịp thích nghi với môi trường bên ngoài, vì vậy các mẹ có thể phòng tránh được.
Nên cân nhắc xem lượng sữa như thế nào thì vừa đủ cho bé, đừng để bé bú quá nhiều sữa, dạ
dày không chứa nổi sẽ khiến bé bị trớ ra ngoài. Nếu bé bú chai, lỗ ở phần núm vú cho sữa chảy
ra không được to quá hoặc bé quá. Nên kiểm tra xem tia sữa chảy ra có đều không trước khi cho
bé bú, tránh việc bé bị uống quá nhiều sẽ bị sặc hoặc chỉ toàn nuốt phải không khí.
Khi cho bé bú sữa, nên bế bé với tư thế đầu ngẩng cao, sau khi bú xong không nên đặt bé nằm
ngửa xuống giường ngay vì sẽ rất khó tiêu hoá, ách bụng và dễ nôn trớ.
Sau bữa ăn trẻ nên được vận động nhẹ nhàng, đi lại, chơi trò chơi. Không nên đi ngủ ngay sau
khi ăn no vì trẻ có thể bị trớ ngay trong khi ngủ, có thể rất nguy hiểm cho trẻ.

Mẹ nên cẩn thận với việc chọn và chế biến thức ăn vì nhiều trẻ sẽ bị dị ứng với một số thức ăn
lạ. Khi bị dị ứng, trẻ cũng có thể bị nôn, trớ. Lúc đó hãy đưa trẻ đi khám bác sĩ ngay để có biện
pháp kịp thời cho trẻ.
Đối với trẻ nhỏ, mẹ cũng không nên ép trẻ ăn quá nhiều cùng một lúc. Ở độ tuổi nào trẻ cũng chỉ
10
hấp thụ được một lượng thức ăn nhất định. Để trẻ có nhiều dinh dưỡng, các mẹ có thể chia nhỏ
các bữa ăn để giúp bé cảm thấy ngon miệng hơn.
8 dấu hiệu cần đổi sữa cho bé
Nổi ban, tiêu chảy, chậm lên cân… là dấu hiệu loại sữa đang dùng không phù hợp với cơ
thể bé.
Nếu con bạn có nhiều dấu hiệu được liệt kê dưới đây, bạn nên tham khảo ý kiến bác sĩ dinh
dưỡng và đổi sữa cho con.
Tiêu chảy
Đây là dấu hiệu dễ gặp ở các bé. Tuy nhiên, nếu tiêu chảy liên tục 5-7 lần một ngày, phân có lẫn
máu thì có thể là dấu hiệu nghiêm trọng của dị ứng sữa.
Nôn trớ
Nôn trớ và khó khăn khi nuốt cũng có thể là triệu chứng của dị ứng sữa.
Nổi ban
Có nhiều nguyên nhân gây nổi ban ở bé như chứng chàm bội nhiễm. Dị ứng sữa cũng gây nổi
ban, nhất là khi đi kèm với tiêu chảy và nôn trớ.
Hay quấy khóc
Khóc là chuyện thường ở các bé nhưng khóc liên tục trong thời gian dài thì có thể là bất thường.
Nếu không có lý do rõ ràng thì hay quấy khóc có thể do bé bị đau bụng. Trong một số trường
hợp, quấy khóc thường xuyên là dấu hiệu đau dạ dày - kết quả của dị ứng protein có trong sữa.
Chậm hoặc không lên cân
Phần lớn các bé tăng gấp đôi trọng lượng trong vòng 6 tháng đầu, gấp ba trong vòng 12 tháng
đầu tiên. Nhưng nếu không nhận đủ dinh dưỡng do bị tiêu chảy, nôn trớ liên tục thì bé sẽ không
11
thể tăng cân theo chuẩn.
‘'Xì hơi’'

Nếu “xì hơi” nhiều, xuất hiện kèm các triệu chứng khác thì có thể bé đang bị dị ứng protein có
trong sữa.
Có vấn đề về hô hấp
Cảm lạnh là chứng bệnh có thể gặp ở nhiều bé. Tuy nhiên, nếu bé khò khè, khó thở, chảy nước
mũi liên tục thì có thể không phải do cảm lạnh. Với một số bé, vấn đề ở hệ hô hấp có thể do
phản ứng với protein trong sữa.
Kém bú, yếu ớt
Bé bị dị ứng sữa sẽ thiếu năng lượng, dễ bị mất nước, kém bú, ít vận động.
Theo Đất Việt
Trẻ còi xương - Dấu hiệu và cách phòng ngừa
Trẻ sinh thiếu tháng, trẻ lên cân nhanh, trẻ thấp còi, trẻ ít được phơi nắng, đều có thể bị
còi xương. Mặc dù vậy, rất nhiều bà mẹ chưa nhận biết được dấu hiệu còi xương của con.
Dưới đây chúng tôi xin giới thiệu kinh nghiệm của một số bà mẹ và ý kiến của chuyên
gia dinh dưỡng về vấn đề này.
Chị Đào Bích Hạnh (Thanh Xuân - Hà Nội)
Tôi mang thai được 36 tuần thì bị vỡ ối nên sinh sớm hơn dự định. Con trai tôi khi sinh ra
nặng 2,8kg, bác sĩ bảo cháu bị còi xương, thóp trước, thóp sau của cháu bị hở khá nhiều.
12
Sau 3 tuần nằm viện thì cháu được về nhà. Bác sĩ hướng dẫn tôi là mỗi buổi sáng phải
cho con tắm nắng khoảng 15 phút kết hợp với uống vitamin D3, canxi cùng chế độ ăn
uống của mẹ để có nhiều sữa, đủ dinh dưỡng cho con. Nhưng vì sinh thiếu tháng nên
cháu yếu ớt, lại là mùa đông nên tôi không dám cho cháu tắm nắng nhiều. Chỉ cho con
ngồi ở cạnh cửa sổ hoặc những hôm ấm áp mới dám cho cháu ra ban công phơi nắng. Tôi
cho con uống thuốc cùng chế độ dinh dưỡng như bác sĩ khuyên, cuối cùng thì tình trạng
sức khỏe của cháu có cải thiện hơn một chút. Tuy nhiên mọi sự phát triển của con tôi đều
chậm hơn so với những trẻ khác.
Chị Lê Thị Nhâm (Đống Đa - Hà Nội)
Con tôi sinh ra đủ ngày đủ tháng và nặng 4kg. Cháu bú mẹ hoàn toàn trong 4 tháng đầu
và tăng cân rất tốt. Tháng đầu cháu tăng 2kg, tháng thứ 2 tăng 1,7kg. Khi cháu được 5
tháng thì đã nặng tới 11kg. Nhìn con lớn từng ngày tôi mừng lắm. Hiềm một nỗi cháu rất

hay quấy khóc ban đêm. Mọi người mách chữa mẹo thế nào tôi cũng nghe theo, miễn là
làm sao để con thôi quấy khóc. Nào thì để đôi đũa với con dao ở đầu giường; đốt vía; để
roi dâu ở gầm giường; thậm chí mẹ chồng tôi còn mời cả thầy về cúng giải vía mà cháu
vẫn không hết quấy khóc. Cho đến khi được 10 tháng tuổi, con tôi bị sốt và khi đi khám
bệnh, bác sĩ bảo cháu bị còi xương thì tôi mới biết. Ban đầu tôi còn thắc mắc là con tôi
tăng cân như thế thì sao mà còi xương được, thì bác sĩ giải thích: đầu to, tóc rụng kiểu
vành khăn, đặc biệt là hay giật mình, quấy khóc ban đêm là điển hình của bệnh còi
xương. Còn không phải cứ lên cân tốt là không bị còi xương. Con tôi bị còi xương thể
bụ Lúc ấy tôi mới hiểu và cho con uống thuốc theo đơn của bác sĩ dinh dưỡng. Vài
tháng sau thì tóc cháu bắt đầu mọc, nhưng đến giờ đầu cháu vẫn hơi to so với bình
thường. Chắc đó là do hậu quả của còi xương gây nên.
ThS. Lê Thị Hải (Viện Dinh dưỡng Quốc gia)
Qua thực tế khám bệnh và tư vấn tại Viện Dinh dưỡng cho thấy còi xương là bệnh phổ
biến ở trẻ dưới 3 tuổi. Tình trạng còi xương thường gặp ở các trẻ đẻ non, trẻ sinh thiếu
tháng, thiếu cân, trẻ có hội chứng kém hấp thu, trẻ suy dinh dưỡng, trẻ không được tắm
nắng Một số trẻ tăng cân nhanh, bụ bẫm cũng là một yếu tố nguy cơ gây còi xương. Ở
những trẻ này nhu cầu về canxi, phốt-pho cao hơn trẻ bình thường, mà ở trong thức ăn thì
có rất ít vitamin D (loại vitamin giúp hấp thu canxi), nên không đáp ứng đủ nhu cầu canxi
của trẻ. Ở những trẻ này được gọi là còi xương thể bụ bẫm.
Các triệu chứng thường gặp ở trẻ còi xương là hay quấy khóc, ngủ không yên giấc, hay
giật mình, ra nhiều mồ hôi, rụng tóc vùng sau gáy tạo thành hình vành khăn, thóp mềm
và chậm liền, chậm mọc răng, chậm biết lẫy, bò, đi Nguyên nhân gây còi xương ở trẻ
em phần lớn là do thiếu vitamin D. Trẻ ăn sữa bột có nguy cơ còi xương cao hơn trẻ bú
mẹ. Tuy nhiên, ngay cả sữa mẹ cũng không cung cấp đủ vitamin D cho trẻ, vì thế trẻ cần
"lấy" thêm chất này qua việc tắm nắng mặt trời.
Có nhiều bà mẹ không biết con quấy khóc do bị còi xương nên đã tìm cách chữa bằng
"mẹo" mà không mang lại kết quả. Cũng có nhiều bà mẹ khi biết con bị còi xương thì tìm
13
cách bổ sung canxi. Tuy nhiên nếu cung cấp đủ canxi mà thiếu vitamin D thì cơ thể cũng
không hấp thu được.

Để dự phòng còi xương, ngay từ thời kỳ mang thai, người mẹ nên dành thời gian tắm
nắng, đi dạo ngoài trời, chọn thực phẩm giàu vitamin D và canxi. Khi thai được 7 tháng,
bà mẹ có thể uống 1 ống vitamin D 200.000 IU để phòng còi xương cho con. Trẻ sinh ra
cần được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu. Khi đã ăn bổ sung, cần cho dầu mỡ vào bát
bột để tăng hấp thu vitamin D (có nhiều trong cá, thịt, trứng, nấm ) vì chất này thuộc
loại vitamin tan trong dầu. Cho trẻ ăn các thực phẩm giàu canxi như tôm, cua, cá và uống
sữa nếu mẹ thiếu sữa hoặc khi đã cai sữa mẹ. Hằng ngày, cần cho trẻ tắm nắng, để lộ
chân, tay, lưng, bụng. Chỉ cần 15-30 phút tắm nắng vào buổi sáng trước 9 giờ, tiền tố
vitamin D trên da trẻ sẽ được chuyển thành vitamin D. Cho trẻ uống vitamin D 400 IU
mỗi ngày trong suốt năm đầu tiên, nhất là về mùa đông, đặc biệt cần với trẻ sinh non, nhẹ
cân.
Đối với những trẻ đã bị còi xương thì việc bổ sung vitamin D qua đường ăn uống là rất
hạn chế, vì trong thức ăn có rất ít vitamin D. Với những trẻ này thì cần tích cực tắm nắng
hoặc bổ sung vitamin D bằng thuốc theo chỉ định của bác sĩ mới điều trị được bệnh còi
xương.
Một số bệnh thường gặp sau khi “vượt cạn”
Niềm hạnh phúc đón nhận một thành viên mới chưa kịp vơi thì người mẹ trẻ phải đối mặt
với những căn bệnh mà họ không hề biết sự hiểm nguy luôn cận kề. Vì vậy, bên cạnh
công việc chăm sóc cho con trẻ, các bà mẹ hãy lưu ý một số căn bệnh thông thường sau
đây, có cách phòng và điều trị đúng để không bị ảnh hưởng đến sức khỏe cả mẹ và con.
14
Bệnh “nứt cổ gà”
Bệnh “nứt cổ gà” thường gặp ở những bà mẹ đang cho con bú. Nguyên nhân chủ yếu dẫn
đến bệnh này là vì cho con bú không đúng cách. Thay vì cho bé ngậm hết quầng vú thì
mẹ chỉ cho con mớm hời hợt vào núm vú. Vì thế, mỗi lần bé bú, núm vú bị kéo, giật
mạnh, lâu ngày gây ra hiện tượng “nứt cổ gà”. Biểu hiện ban đầu của bệnh là xuất hiện
một hoặc hai vết nứt nhỏ, sau đó tấy đỏ, đau nhức, thậm chí nhiễm trùng, mưng mủ. Nếu
không chữa trị kịp thời, vết nứt sẽ lan dài quanh chân núm vú, gây đau đớn cho mẹ và
mất vệ sinh cho trẻ. Phòng tránh bệnh này bằng cách cho trẻ bú đúng cách. Hãy kéo bé về
phía ngực mình, kích thích bằng cách dùng đầu vú cù vào môi dưới của trẻ để trẻ há

miệng to như đang ngáp, lúc này mẹ phải kéo nhanh bé về phía bầu vú. Miệng của bé mở
rộng sẽ ngậm hết toàn bộ phần quầng vú và đầu vú.
Các sản phụ cũng nên chăm sóc vú bằng các sản phẩm chuyên dụng như: mỡ cừu tinh
chế, dầu hướng dương, kem dưỡng núm vú để tránh bị “nứt cổ gà”. Bên cạnh đó, phải vệ
sinh đầu vú thường xuyên bằng cách lau vú bằng nước ấm sau khi cho con bú và tránh để
da bị khô nẻ. Không bôi xà phòng hoặc dùng dung dịch triệt khuẩn trên vùng vú, vì sẽ
dẫn đến hiện tượng da khô và nứt núm vú. Hạn chế mặc áo lót để làm giảm sự phát triển
của vi khuẩn. Việc chữa trị bệnh “nứt cổ gà” cũng khá đơn giản. Trước tiên, cần rửa sạch
chỗ đau bằng nước ấm pha muối. Sau đó, lau khô và bôi thuốc tetracyclin, bepanthen,
lanolin, fuciort Các bài thuốc dân gian cũng khá hiệu nghiệm trong việc điều trị bệnh
này như bài thuốc rượu hạt gấc. Hãy lấy hạt gấc sao vàng, hạ thổ, tán mịn, ngâm rượu
trắng rồi bôi lên chỗ bị đau sẽ có tác dụng sát khuẩn. Hoặc giã nát mồng tơi và một ít
muối hạt rồi đắp lên vết thương hoặc dùng lá rau ngót giã nát, vắt lấy nước cốt rồi đắp lên
chỗ nứt Ngoài ra, có thể lau sạch vùng bị đau, chờ đến khô rồi nặn một chút sữa và xoa
lên đầu vú rồi để khô, đến tối lại rửa sạch và lại làm như vậy, thực hiện việc này cho đến
khi khỏi hẳn. Để tiếp tục duy trì nguồn sữa cho trẻ trong khi điều trị, hãy vắt sữa thường
xuyên vào đúng các cữ bú của trẻ. Chỉ đến khi vết thương đã kín miệng và lên da non
mới nên cho trẻ bú lại.
Viêm nhũ
Viêm nhũ là quá trình bế tắc, ứ đọng sữa và tạo mủ cấp tính. Bệnh thường phát sinh vào
thời kỳ cho con bú với những triệu chứng bầu vú sưng nóng, sốt, đau mình. Nguyên nhân
chính của bệnh này cũng là do trẻ bú mẹ không đúng cách làm trầy da vùng xung quanh
núm vú và dẫn đến viêm tuyến sữa. Ngoài ra, còn có một số nguyên nhân khác như
không day đều bầu sữa để thông tia sữa ngay sau sinh; không vệ sinh đầu vú và vắt bỏ
sữa thừa khi trẻ không bú hết (sữa đọng gây ôi, tắc và ung nhũ); tinh thần không thư thái
làm can khí uất, ảnh hưởng đến chức năng vận hóa của tỳ, sữa ứ đọng hóa hỏa sinh nhũ
cung
Để chữa trị thì cách đơn giản nhất là ngưng cho con bú ở bên viêm, nặn bớt sữa. Sau đó
uống kháng sinh (sau khi đã đi khám bác sĩ), bệnh sẽ khỏi sau vài ngày. Nhưng nếu chỗ
viêm da đã thành áp-xe thì nên đi khám. Bác sĩ sẽ rạch vùng áp-xe đủ rộng để lấy hết mủ

và để một ống nhựa dẫn mủ chảy ra cho sạch hẳn.
15
Cơn tetani do hạ canxi máu
Nguyên nhân của việc xuất hiện cơn tetani là do trong quá trình mang thai và cho con bú,
một lượng lớn canxi được lấy từ người mẹ sang thai nhi để phát triển hệ thống xương của
thai nhi. Quá trình này làm cho nồng độ canxi máu của người mẹ giảm, đặc biệt ở những
người mẹ có chế độ ăn không đầy đủ canxi theo nhu cầu (1.500mg/ ngày) hay những
người bị bệnh đường tiêu hóa mãn tính. Những người nghén nhiều hay nôn làm mất
nước, điện giải và tình trạng kiềm hóa kèm theo tình trạng lo lắng, tạo điều kiện cho cơn
tetani xuất hiện. Dấu hiệu báo trước của tình trạng này là sự kích thích quá mức của hệ
thống thần kinh - cơ hoặc đi kèm là hiện tượng bị cảm, nặng nề ở tay, chân, vùng quanh
miệng. Tiếp theo là hiện tượng co cơ đột ngột, nhất là ở bàn tay và ngón tay (giống hình
ảnh bàn tay người đỡ đẻ). Ngoài ra, cũng có thể biểu hiện ở các vị trí khác như ở chân
hay ở mặt. Một số trường hợp có kèm với co thắt cơ trơn gây nên tình trạng khó thở do
co thắt khí quản hay đau bụng do co thắt cơ trơn ở ruột Tình trạng này kéo dài từ vài
phút đến vài giờ. Có thể có tình trạng lo lắng, hoảng hốt, mạch nhanh Khi đi khám, bác
sĩ có thể phát hiện được tình trạng co cơ vùng má khi gõ bằng búa phản xạ vùng trước lỗ
tai (dấu hiệu Chvostek) hay cơn tetani tái xuất hiện khi yêu cầu bệnh nhân thở nhanh (gây
tình trạng kiềm hóa máu do tăng thông khí). Xét nghiệm máu trong cơn sẽ thấy canxi
máu giảm nhưng đôi khi có những trường hợp canxi máu không giảm.
Để phòng tránh và điều trị chứng bệnh này thì lời khuyên trước tiên là nên bổ sung canxi
(1.000 - 1.500mg/ ngày) và vitamin D. Có thể bổ sung bằng các thức ăn giàu canxi (cua,
cá, thịt ) và phơi nắng để tăng tổng hợp vitamin D từ da. Các triệu chứng của cơn tétani
sẽ hết đi nhanh nếu được tiêm tĩnh mạch dung dịch canxi (thường dùng 500 - 1.000mg
dung dịch canxi clorua).
Một điều lưu ý các bà mẹ là không nên tự ý sử dụng thuốc điều trị các chứng bệnh xương
khớp trong thời kỳ thai nghén và cho con bú. Khi dùng thuốc phải có sự chỉ dẫn của bác
sĩ chuyên khoa, để tránh những hậu quả không mong muốn cho cả mẹ và con.
Hãy tin vào bản năng người mẹ
Bản năng của người mẹ thường đúng nếu họ linh cảm rằng con họ đang gặp nguy hiểm

khi có biểu hiện ốm, các chuyên gia Anh cho biết.
16
Kinh nghiệm chung của các bác sĩ nhi khoa là điều trị nỗi sợ hãi và lo lắng của cha mẹ
bệnh nhi bởi họ biết bệnh nhân của mình không vấn đề gì.

Thực tế, bản năng người mẹ ít khi sai và cần được đưa vào danh sách các dấu hiệu nhận
biết bệnh mà mọi bác sĩ cần nắm được khi khám cho trẻ bị bệnh.

“Với một bác sĩ, điều quan trọng là luôn phải chú ý tới các bậc cha mẹ, người mà đang
đặc biệt lo lắng cho tình trạng sức khỏe của con mình”, nhà nghiên cứu, TS Matthew
Thompson, Khoa Chăm sóc sức khỏe cá nhân, ĐH Oxford (Anh) cho biết.

“Chúng ta nên tin tưởng vào bản năng làm cha mẹ. Trên hết, họ đã chăm sóc con mình
trong nhiều tình huống bệnh tật trước đó và có thể nói cho bác sĩ biết sự khác biệt của lần
ốm này”.

Các bác sĩ nên tin vào cảm giác ruột già máu mủ khi đang cố gắng phán đoán xem bệnh
nhi bị viêm nhiễm nghiêm trọng hay chỉ là chứng ho, cảm lạnh thông thường.

Họ cũng nên thường xuyên đo thân nhiệt cho trẻ, đây là một trong những khâu cơ bản mà
thường bị bỏ qua.

Nghiên cứu được đăng tải trên tạp chí y học Lancet.

Bổ sung dinh dưỡng cho trẻ: Cần nhìn xa trông rộng
17
Chúng ta luôn mong muốn con mình phát triển cân đối và khỏe mạnh. Nhưng làm thế nào
để trẻ phát triển tối ưu thì nhiều bậc phụ huynh còn khá lúng túng.
Điều này thể hiện rõ trong việc bổ sung nguồn dinh dưỡng, đặc biệt là nguồn dinh dưỡng
từ sữa trong các các giai đoạn phát triển. Hầu như các bậc cha mẹ thấy con mình thiếu gì

thì bổ sung đó, rồi chạy theo những lời quảng cáo mà bỏ quên những yếu tố tác động đến
sự phát triển lâu dài
Những nguy hiểm bắt nguồn từ tâm lý
Trước tiên, chúng ta hay mong muốn con em chúng ta cao to và bụ bẫm. Chúng ta bị mặc
cảm về hình dạng thấp bé của người Việt nam trong một quãng thời gian dài, do đó khi
có cơ hội, chúng ta mong muốn cải thiện hình ảnh này thật nhanh. Cân nặng và chiều cao
là những giá trị phát triển thể chất dễ quan sát nhất, nhưng chưa đánh giá hết sự phát triển
về trí tuệ, miễn dịch và những yếu tố khác trong sự phát triển toàn diện của trẻ. Có khi
chúng ta đã quá đà trong việc thúc trẻ tăng trường về mặt thể chất và làm cho trẻ béo phì,
gây ra những hậu quả lâu dài không tốt cho sức khỏe.
Các khảo sát gần đây cho thấy, tỉ lệ trẻ em Việt nam thừa cân và béo phì đang gia tăng
nhanh chóng, nhất là ở những thành phố lớn. Ở những quận trung tâm của Hà Nội và
thành phố Hồ Chí Minh, nhất là ở các trường điểm, với đối tượng học sinh là những trẻ
có điều kiện kinh tế khá, ít thời gian vận động, chỉ chú trọng học tập, tỉ lệ béo phì đang ở
mức báo động. Năm 2004, qua khảo sát 1 trường tiểu học tại quận 3 cho thấy có đến
47,6% học sinh bị thừa cân béo phì, trong đó béo phì chiếm 25,9% và dư cân 21,7%.
Trẻ béo phì ngoài những mặc cảm về tâm lý, ngại vận động, ngại giao tiếp, học hành
chậm chạp, hay mệt mỏi, có nguy cơ bị cao huyết áp, tiểu đường, gan nhiễm mỡ, đau
18
khớp, sẽ có nguy cơ lùn hơn các bạn vì sẽ dậy thì sớm hơn, do đó ngưng tăng trưởng sớm
hơn. Trẻ béo phì cũng có sức đề kháng kém nên dễ bị mắc các bệnh nhiễm trùng.
Đặc biệt hơn, khi trẻ ăn nhiều phấn đấu để giảm cân còn khó hơn là tăng cân và chúng ta
cũng sẽ không thấy dễ chịu tí nào khi mình ăn cơm và con mình ngồi bên cạnh (béo tròn)
luôn xin thêm chút nữa, một chút nữa?
Cần bổ sung dinh dưỡng ngay từ đầu
Theo bác sĩ Nguyễn Thị Thu Hậu, Trưởng Khoa Dinh Dưỡng, Bệnh viện Nhi Đồng 2,
nuôi trẻ trong 3 năm đầu (đặc biệt là dưới 1 tuổi) gặp rất nhiều khó khăn, do các con còn
nhỏ, sức yếu. Hệ thống miễn dịch đã có nhưng chưa hoàn thiện nên trẻ hay mắc các bệnh
của đường hô hấp và tiêu hóa Nếu trẻ bị ốm nhiều lần sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển
thể chất. Điều đó đòi hỏi các bà mẹ cần cần lưu ý trong việc lựa chọn nguồn dinh dưỡng

hàng ngày, đặc biệt là nguồn dinh dưỡng từ sữa để giúp cho trẻ phát triển toàn diện và
cân đối về thể chất, tinh thần, trí tuệ cũng như miễn dịch chống bệnh…chứ không nên
phiến diện khi chăm sóc trẻ. Cần nắm rõ các thời điểm để can thiệp tốt nhất cho trẻ.
Về thể chất, trẻ có 2 giai đoạn phát triển vượt bậc: giai đoạn 0-5 tuổi (chịu tác động chủ
yếu của chế độ dinh dưỡng), và giai đoạn tiền dậy thì (chịu tác động chính của hormone
và đồng thời chế độ dinh dưỡng). Nên duy trì cân nặng và chiều cao ở mức cân đối, tránh
bị suy dinh dưỡng cũng như béo phì. Cần lưu ý cung cấp đầy đủ những chất hỗ trợ cho sự
phát triển của các cơ quan trong cơ thể như trí não, tiêu hóa, xương khớp…Nhiều trẻ có
cân nặng và chiều cao tốt nhưng vẫn thiếu một số chất như sắt, kẽm, vi lượng, chất xơ,
một số acid amin…
Về tâm thần vận động, 3 năm đầu tiên có vai trò quyết định sự phát triển của hệ thần
kinh. Lúc trẻ 3 tuổi, não nặng gấp 3 lần lúc sinh và đạt trên 80% não của người trưởng
thành. Khi trẻ 6 tuổi, não trẻ đã bằng não của người lớn. Do đó, những dưỡng chất cần
cho phát triển của não và hệ thần kinh nên được cung cấp từ rất sớm, ngay từ giai đoạn
bào thai, ví dụ DHA, ARA, phospholipids, cholin, acid béo thiết yếu, cholesterol, sắt, iod,
vi lượng Có những nghiên cứu cho thấy sử dụng DHA có hiệu quả nhiều nhất trong thai
kỳ và 6 tháng đầu tiên. Việc cung cấp dinh dưỡng nên đi đôi với việc tập luyện các phản
xạ thần kinh, rèn luyện khả năng tư duy và khả năng tập trung của trẻ.
Trong 6 tháng đầu tiên, trẻ được bảo vệ nhờ lượng kháng thể IgG mẹ cho qua nhau thai,
đồng thời trong sữa mẹ có chứa nhiều chất chống bệnh như lactoferrin, lysozyme, IgA.
Sau đó trẻ dễ bị bệnh hơn do miễn dịch của bản thân chưa hoàn chỉnh. Các kháng thể
chống lại kháng nguyên polysaccharide của vi trùng chỉ tốt khi trẻ được 2-3 tuổi, trong
khi những kháng thể chống bệnh IgM và IgG chỉ bằng nồng độ của người lớn khi trẻ 4-6
tuổi, những miễn dịch khác như tuyến ức, hệ võng nội mô… còn hoàn thiện cho đến tuổi
dây thì. Do đó, dinh dưỡng đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong phát triển và hoàn thiện
miễn dịch của cơ thể. Nếu trẻ suy dinh dưỡng, khả năng chống bệnh sẽ kém. Những chất
có vai trò điều hòa hay hỗ trợ phát triển miễn dịch là các acid béo thiết yếu, DHA, ARA,
một số acid béo chuỗi ngắn, một số acid amin, nucleotide, folate, sắt, kẽm, vitamin ADE,
vitamin BC, chất xơ…
19

Như vậy, chúng ta cần có những hiểu biết đúng về sự phát triển của trẻ, về nguồn dinh
dưỡng bổ sung để có những biện pháp hỗ trợ cả về dinh dưỡng và tập luyện, sinh hoạt …
đúng mức, đúng lúc để con em chúng ta trở thành những con người khỏe mạnh, thông
minh, phát huy tối đa tiềm năng di truyền của cơ thể.
Theo dantri
Hiểu đúng về sữa
Sự phát triển của những năm đầu đời có ảnh hưởng rất lớn tới sức khỏe sau này của trẻ.
Dinh dưỡng bổ sung (đặc biệt từ sữa) trong giai đoạn này đóng vai trò quan trọng.
Hệ tiêu hóa của trẻ 4 tháng tuổi chỉ hấp thụ được sữa. Đến 2 tuổi, trẻ mới có thể ăn được
những thực phẩm tương tự người lớn, nên trước đó rất dễ bị rối loạn tiêu hóa. Trong giai
đoạn này, sữa là thực phẩm đặc biệt, thiết yếu giúp trẻ phát triển cân nặng, chiều cao và
hoàn thiện các cơ quan khác như thận, gan, ruột, não, hệ miễn dịch
Những ngộ nhận
Do tâm lý thích con cao to và tròn trĩnh, không ít phụ huynh ngộ nhận trong việc lựa
chọn nguồn dinh dưỡng bổ sung từ sữa. Sai lầm thường thấy nhất là phụ huynh chỉ quan
tâm nguồn dinh dưỡng giúp phát triển về thể chất (chiều cao, cân nặng), ít chú ý các thức
ăn khác cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển toàn diện về trí não, sức đề
kháng. Ít ai biết rằng, sự tăng chiều cao và cân nặng phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác
như: di truyền, nội tiết tố, luyện tập và các vi chất dinh dưỡng (kẽm, can-xi, vitamin D )
có trong nhiều thực phẩm khác nhau chứ không chỉ riêng sữa.
20
Nếu chỉ quan tâm bổ sung nhiều sữa giúp tăng
chiều cao và cân nặng, có thể trẻ sẽ vừa béo phì
vừa thiếu chiều cao và những chất dinh dưỡng
khác.
Dưỡng chất nào cần thiết?
Sữa mẹ đáp ứng đủ những yêu cầu trên, sẵn có
trong tự nhiên và rất rẻ.
Khi nuôi con bằng sữa mẹ, đôi khi, cân nặng và
chiều cao của trẻ không được như sữa bình nhưng trẻ hấp thụ sữa mẹ sẽ ít rối loạn tiêu

hóa, phát triển trí thông minh tốt
Trong trường hợp trẻ không được nuôi bằng sữa mẹ như con nuôi, mẹ bị bệnh nặng phụ
huynh nên chọn những loại sữa có đủ năng lượng và chất dinh dưỡng như: can-xi, sắt,
kẽm, DHA, ARA, Cholin Đồng thời, phải theo dõi về những dấu hiệu trưởng thành về
trí tuệ như phát triển ngôn ngữ, vận động, cân nặng, chiều cao. Bên cạnh đó, cần lưu ý
những biểu hiện của sự thiếu một số chất dinh dưỡng quan trọng ảnh hưởng tới hệ miễn
dịch và trí thông minh của trẻ: chậm nói, chậm mọc răng, chậm đứng - đi, bệnh vặt, ít
quan tâm tới môi trường xung quanh, da xanh, nhút nhát không giao tiếp với người lạ.
Sữa mẹ là tiêu chuẩn
Khi lựa chọn nguồn dinh dưỡng từ sữa, phụ huynh cần lưu ý đến những sản phẩm uy tín,
có sự đầu tư nghiên cứu kỹ lưỡng với các thành phần và dưỡng chất bổ sung đầy đủ và
hợp lý, đảm bảo cho sự phát triển về lâu về dài của trẻ.
Mặt khác, tránh lựa chọn những sản phẩm mang tính chất hỗ trợ cho sự phát triển tức
thời, bởi đôi khi, một số loại sữa có thể mang lại sự phát triển chiều cao và cân nặng như
nhau, nhưng thực tế lại khác nhau rất nhiều trong việc ảnh hưởng đến sự phát triển lâu dài
của trẻ.
Ngoài ra, quan điểm về cách chọn sữa nào cũng rất quan trọng, phụ thuộc vào thời điểm
phát triển của trẻ.
Vì mỗi giai đoạn, trẻ có những yêu cầu cung cấp chất dinh dưỡng từ nhiều nguồn khác
nhau.
Chẳng hạn, giai đoạn mới sinh tới 6 tháng tuổi, nguồn cung cấp dinh dưỡng duy nhất là
sữa (sữa mẹ là tốt nhất), sữa có công thức bổ sung chất dinh dưỡng giống sữa mẹ; từ 6
tháng đến 3 tuổi, trẻ có thể ăn thêm những thực phẩm khác, vẫn cần nhiều vi chất dinh
dưỡng để phát triển hệ thần kinh – miễn dịch, nên cũng chọn sữa giống sữa mẹ nhưng
tiêu chuẩn bớt chặt chẽ hơn.
Sữa mẹ giúp giảm tính hung hăng
Suy dinh dưỡng
Với trẻ, suy dinh dưỡng sẽ có chiều
cao thấp; béo phì dễ bị tiểu đường,
cao huyết áp, bệnh tim mạch; thiếu

máu do thiếu sắt ảnh hưởng tới trí
thông minh; thiếu kẽm có chiều cao
thấp, giảm khả năng miễn dịch, dễ
mắc các bệnh nhiễm trùng, biếng ăn;
thiếu vitamin D và vitamin A sẽ bị
còi xương, khô mắt và giảm miễn
dịch; thiếu chất béo (DHA, ARA,
Cholin) sẽ ảnh hưởng tới sự hoàn
thiện hệ thống thần kinh, thị lực
21
Những trẻ được nuôi bằng sữa mẹ trong suốt 6 tháng hoặc lâu hơn thường ít tỏ ra hung
dữ, lo lắng hoặc bị trầm cảm trong suốt thời thơ ấu cũng như khi bước vào tuổi thiếu
niên.
Đó là kết luận của các nhà khoa học thuộc Viện Nghiên cứu sức khỏe trẻ em Telethon
(Úc), theo hãng tin ANI. Khảo sát ở các trẻ em là con của hơn 2.300 bà mẹ từ năm 1989 -
1992, các chuyên gia nhận thấy 11% trẻ chưa bao giờ bú sữa mẹ, 38% được nuôi bằng
sữa mẹ chưa tới 6 tháng và chỉ hơn một nửa trong số này được nuôi bằng sữa mẹ từ 6
tháng trở lên. Và những trẻ bú sữa mẹ lâu thường ít bị trầm cảm, lo lắng hơn so với
những nhóm trẻ khác.
Dấu hiệu nhận biết trẻ sơ sinh đói
Ảnh: Shutterstock
Những ai mới làm cha làm mẹ thời gian đầu thường khó nhận biết khi nào trẻ khóc là báo
hiệu trẻ đang đói bụng.
22
Theo trang tin Healthday.com, các chuyên gia thuộc Tổ chức Nemours (một tổ chức
chuyên chăm lo sức khỏe trẻ em, Mỹ) đã đưa ra những dấu hiệu cho thấy trẻ muốn ăn. Đó
là: 1. Trẻ quay đầu qua bên phải bên trái; 2. Trẻ mở miệng và lè lưỡi ra; 3. Đặt tay, ngón
tay hoặc nắm tay gần miệng; 4. Chu miệng lại; 5. Quay mặt về phía vú mẹ; 6. Miệng
chóp chép.
Giải pháp nào để tránh béo phì sau khi sinh?

Trong những năm gần đây, đời sống xã hội đã nâng lên một bước, cho nên việc chăm sóc
cho mẹ tròn con vuông, sinh con được khỏe mạnh, thông minh đã được các bậc cha mẹ
chú trọng nhiều dễ dẫn đến việc lạm dụng bồi dưỡng, vì vậy việc tăng cân rồi thành béo
phì sau sinh đã trở thành phổ biến.
Tập thể dục phù hợp sau khi sinh khoảng 1 tháng.
Ảnh hưởng của béo phì đến thai phụ
Bên cạnh sự tăng cân do thai, nước ối, nhau và dây rốn, cơ thể thai phụ còn tích lũy thêm
ít nhất từ 3 - 5kg dự trữ năng lượng dưới dạng tế bào mỡ. Theo các chuyên gia dinh
dưỡng, khuyên các sản phụ nên tăng cân cần thiết cho phát triển bình thường của thai nhi
chiếm trọng lượng từ 10 - 12kg, trong đó nên phân bố vào mỗi 3 tháng của thai kỳ, với 3
tháng đầu nên tăng cân ít khoảng 1 - 2kg hoặc có thể không tăng, với 3 tháng giữa nên
tăng 4 - 5kg, với 3 tháng cuối có thể tăng 5 - 6kg; nếu vào 6 tháng cuối của thai kỳ mà
tăng ít khoảng 1kg thì cần được khám thai định kỳ, vì rất có thể thai nhi có vấn đề về sức
khỏe.
23
Ngoài cách tính phỏng đoán tăng cân trong thai kỳ như trên, theo các nhà khoa học cũng
khuyên nên dựa vào chỉ số khối cơ thể (viết tắt BMI) là phương pháp thông dụng, được
tính như sau:
BMI = W(kg) : (D)2. Trong đó W là cân nặng cơ thể tính bằng kg và D là chiều cao được
tính bằng mét; nếu BMI < 19,8 thì có thể tăng cân từ 12 – 18 kg trong suốt thai kỳ; nếu
BMI giao động từ 19,8 - 26 thì tăng 11,5 - 16kg; nếu BMI giao động từ 26 - 29 thì nên
tăng 7 - 11kg; nếu > 29 thì chỉ nên tăng trên 6kg trong thai kỳ. Qua thống kê, các nhà
khoa học cũng thấy rằng, chiều cao của phụ nữ Việt Nam đa số là dưới 1,60m, nên việc
tăng cân từ 10 - 15kg trong quá trình mang thai là một chỉ số lý tưởng, nếu để tăng trên
16kg trong thai kỳ, thì sẽ có nguy cơ duy trì số cân này và bắt đầu kích thích chứng béo
phì khó kiểm soát.
Tuy nhiên, do còn những suy nghĩ lạc hậu cho là ăn càng nhiều càng tốt cho em bé, nên
vẫn còn xuất hiện nhiều người tăng cân quá mức, khiến cơ thể không tương xứng với cân
nặng, nguy cơ tai biến sản khoa cũng cao hơn, tình trạng béo phì sau sinh tất yếu sẽ xảy
ra, làm tăng nguy cơ mắc các bệnh mạn tính và giảm khả năng tình dục. Béo phì không

chỉ ảnh hưởng đến thẩm mỹ mà còn gây ra nhiều bất tiện trong sinh hoạt, nguy hiểm hơn
là gây ra nhiều chứng bệnh, làm giảm tuổi thọ, béo phì còn liên quan nhiều đến nhồi máu
cơ tim, tăng huyết áp, giảm khả năng lao động và nhất là giảm sức bền
trong lao động, chức năng sinh sản cũng gặp nhiều khó khăn, hay mắc phải các bệnh mỡ
cao trong máu, gan nhiễm mỡ và các bệnh nội tiết khác như đái tháo đường.
Những giải pháp tránh béo phì sau sinh
Trước hết, sản phụ phải biết tự cân đối một chế độ dinh dưỡng hợp lý cho mình hàng
ngày, bằng cách giảm bớt năng lượng nạp vào cơ thể, đặc biệt là chất béo từ mỡ động vật.
Tuy nhiên, giải pháp chỉ nên thực hiện sau sinh từ tháng thứ 6 trở đi, vì trước đó sản phụ
cần có nhiều năng lượng đủ để có sữa cho bé bú, tránh ăn kiêng quá mức vì khi ăn kiêng,
cơ thể sẽ không có đủ sữa cho bé và chất lượng sữa cũng giảm theo. Cần có một chế độ
thực đơn đủ chất dinh dưỡng như: chế độ ăn có nhiều rau tươi và hoa quả để có nhiều
vitamin và muối khoáng; có nhiều tinh bột từ cơm, ngũ cốc, bánh mì, đậu; có nhiều chất
đạm có từ động vật như: cá, tôm, cua, bò, gà, thịt heo
Cần uống đủ nước trong ngày, ít nhất là 2 lít trong 24 giờ và uống bất kỳ thời điểm nào
khi cảm thấy khát, tránh uống trà quá đậm đặc, cà phê, rượu bia hay thuốc lá vì các chất
kích thích sẽ được bài tiết qua sữa và có thể ảnh hưởng trực tiếp đến em bé. Sau khi đã
ngừng cho con bú mẹ, có thể bắt đầu chế độ ăn kiêng nghiêm ngặt hơn hoặc có thể dùng
thêm các chế phẩm giảm cân nếu muốn. Cần duy trì vận động hàng ngày, ngay cả trước
và sau sinh, tập luyện vừa sức vì tập luyện trong thời kỳ mang thai không chỉ giúp cơ thể
dẻo dai lúc sinh mà còn làm cho quá trình trao đổi chất giữa mẹ và con được tốt hơn, tăng
sức đề kháng của cơ thể mẹ. Các bài tập bắt đầu từ cường độ nhẹ với thời gian ngắn rồi
mới tăng dần đến vừa sức, nhất là một năm đầu sau sinh. Nếu tập quá sức hoặc quá mạnh
sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe. Đi bộ là cách làm đơn giản, hiệu quả và đang được rất nhiều
sản phụ ưa chuộng. Ở tuần lễ đầu sau sinh, sản phụ nên đi lại nhẹ nhàng, sau đó có thể di
24
chuyển gần như bình thường và sau một tháng sản phụ có thể bắt đầu tập luyện với các
môn thể thao phù hợp, với giai đoạn này tốt nhất là đi bộ, tập yoga, tập trên các máy tập
đa năng… Tập với thời gian ngắn từ 10 - 20 phút, sau đó tăng dần từ 45 phút đến 1 giờ
mỗi ngày. Sau sinh 2 - 3 tháng có thể vận động nặng. Với những sản phụ sinh mổ, vẫn

nên bắt đầu tập luyện từ 1 tháng sau sinh nhưng rất nhẹ nhàng bằng các bài thể dục tay
không, đi bộ tăng dần, chú trọng tập mà vết mổ thấy không đau hoặc đau ở mức độ vừa
phải là được.
Ngoài giải pháp bằng chế độ dinh dưỡng thật tốt, duy trì chế độ vận động thường xuyên
và hợp lý, thì bên cạnh đó sản phụ cũng cần tạo cho mình có một cuộc sống vui vẻ, tinh
thần thoải mái, tránh tối đa những xung đột, những stress trong cuộc sống, stress trong
công việc; nghỉ ngơi một cách khoa học và hợp lý, tạo thói quen theo dõi cân nặng mỗi
tuần một lần.
Phòng tránh khuyết tật ở trẻ sơ sinh
Tháng một là bắt đầu cho một năm mới, là tháng của sự trẻ trung và tái sinh. Với ý nghĩa
đó, Bộ Y tế và Trung tâm kiểm soát dịch bệnh Hoa Kỳ đã tuyên bố tháng một là "Tháng
quốc gia phòng chống khuyết tật trẻ sơ sinh”.
25

×