Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Đề cương Văn 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (292.58 KB, 29 trang )

đề cơng ôn tập ngữ văn 12

Cõu 1.Tiu s H Chớ Minh :
-Sinh nm 1890 ti Kim Liờn, Nam n, Ngh An.
- Lỳc nh, hc Hỏn hc nh. Ln lờn, theo cha vo kinh, hc trng Quc hc Hu. Mt thi
gian, Ngi dy hc trng Dc Thanh (Phan Thit)
- Nm 1911, Bỏc ra i tỡm ng cu nc t Bn Nh Rng
- 1941, sau 30 nm bụn ba tỡm ng cu nc, Ngi tr v Vit Nam thnh lp Mt trn Vit
Minh, trc tip lónh o cỏch mng Vit Nam
- 1942-1943, ngi b bt giam ti nh tự Tng Gii Thch khi sang õy tranh th s vin tr
ca Trung Quc. Sau 13 thỏng, Ngi c tr t do
- Ngy 2/9/1945, ti Qung trng Ba ỡnh, Ngi c Tuyờn ngụn c lp, khai sinh nc Vit
Nam dõn ch cng ho.
- Nm 1946, Ngi c bu lm Ch tch nc. T õy, Ngi ó lónh o nhõn dõn v CM
Vit Nam ginh thng li trong hai cuc khỏng chin chng Phỏp v chng M.
-2-9-1969, ch tch H Chớ Minh qua i
Cõu 2. Quan im sỏng tỏc vn hc ca Ch tch H Chớ Minh
-H Chớ Minh xem vn ngh l mt ht ng tinh thn phong phỳ v phc v cú hiu qu cho
s nghip cỏch mng. Ngi ó xỏc nh v trớ v vai trũ to ln ca ngh s trong s nghip u
tranh gii phúng dõn tc v phỏt trin x hi. Tinh thn ú ó c Ngi núi lờn trong bi th
Cm tng c Thiờn gia thi:
Nay trong th nờn cú thộp
Nh th cng phi bit xung phong
Cht thộp õy chớnh l xu hng cỏch mng v tin b v t tng l cm hng u tranh
xó hi tớch cc ca th ca. Quan im ca H Chớ minh l s tip th, k tha quan im dựng
vn chng lm v khớ chin u trong truyn thng dõn tc v c nõng cao trong thi i
cỏch mng vụ sn. Trong bc th gi cỏc ha s trong dp trin lóm hi ho ton quc 1951, mt
ln na, Bỏc khng nh: Vn hoỏ ngh thut cng l mt mt trn, anh ch em cng l chin s
trờn mt trn y.
- H Chi Minh c bit chỳ ý n i tng thng thc v tip nhn vn chng. Vn chng
trong thi i cỏch mng phi coi qung i qun chỳng l i tng phc v. Ngi nờu kinh


nghim chung cho hot ng bỏo trớ v vn chng, mi ngi khi cm bỳt cn xỏc nh rừ: Vit
cho ai? (i tng), Vit lm gỡ? (Mc ớch), Vit cỏi gỡ? (Ni dung) v Vit nh th no?
(Hỡnh thc). Nh vy, i tng v mc ớch qui nh ni dung v hỡnh thc ca tỏc phm.
Ngi vit cú x lý ỳng cỏc mi quan h gia mc ớch v phng tin, gia ph cp v nõng
cao, gia ni dung v hỡnh thc thỡ mi phỏt huy c hiu qu ca hot ng vn hc.
-H Chớ Minh luụn quan nim tỏc phm vn chng phi cú tớnh chõn tht. Tớnh chõn tht cn
l cỏi gc ca vn chng xa v nay. Ngi yờu cu vn ngh s phi miờu t cho hay, cho
chõn tht cho hựng hn nhng ti phong phỳ ca hin thc cỏch mng, phi chỳ ý nờu gng
Ngi tt, vic tt, un nn v phờ bỡnh cỏi xu. Nh vn phi chỳ ý n hỡnh thc biu hin,
trỏnh li vit cu kỡ, xa l, nng n. Hỡnh thc ca tỏc phm phi trong sỏng, hp dn, ngụn t
phi chn lc, bo m s trong sỏng ca ting Vit. Theo Ngi, tỏc phm vn chng phi th
hin c cỏi tinh thn ca dõn tc, ca nhõn dõn v c nhõn dõn a thớch.
Ngụ c ng-Trng THPT Bc Yờn Thnh, Ngh An
Câu 3.Sự nghiệp văn học Hồ Chí Minh
a.Văn chính luận:
- Mục đích: được viết nhằm tấn công trực diện kẻ thù hoặc thực hiện những nhiệm vụ cách mạng
qua những chặng đường lịch sử.
- Tác phẩm tiêu biểu:
+ Các bài báo.
+ Bản án chế độ thực dân Pháp.
+ Tuyên ngôn độc lập.
+ Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.
+ Di chúc.
- Đặc điểm: giàu chất trí tuệ và tính luận chiến, suốt ½ thế kỉ tấn công trực diện kẻ thù bằng sức
mạnh và ngòi bút. . Mạch văn sắc sảo,thuyết phục.
b.Truyện và kí:
- Tác phẩm tiêu biểu:
Lời than vãn của bà Trưng Trắc, Đồng tâm nhất trí, Vi hành, Những trò lố hay là Va ren và
Phan Bội Châu, Con rùa, Giấc ngủ 10 năm, Nhật kí chìm tàu…
- Mục đích: Dựa vào sự thật tai nghe mắt thấy và cả hư cấu nghệ thuật để vạch trần tội ác, bản

chất tàn bạo xảo trá của thực dân Pháp và tay sai, đồn thời đề cao tấm gương đấu tranh yêu nước
của nhân dân.
- Đặc điểm:
+ Nội dung cô đọng, cốt truyện sáng tạo, kết cấu độc đáo.
+ Mỗi tác đều có tư tưởng riêng, hấp dẫn, sáng tỏ, ý tưởng thâm thuý,kín đáo, chất trí tuệ toả
trong hình tượng và phong cách giàu tính hiện đại.
c Thơ ca
- Là lĩnh vựcc nổi bật nhất trong sáng tạo văn chương Hồ Chí Minh
- Tác phẩm chính:
+ Nhật kí trong tù: 133 bài. Đây là tập thơ tiêu biểu nhất trong di sản thơ ca HCM. , sáng tác khi
người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam 1942-1943. Nội dung : phê phán bộ mặt nhà tù
Tưởng Giứoi Thạch và xã hội Trung Quốc thời đó, là bức chân dung tự họa thể hiện rõ vẻ đẹp
tâm hồn HCM. Nghệ thuật : sắc thái cổ điển ( bút ppháp chấm phá ước lệ, thể thơ thất ngôn tứ
tuyệt Đường luật…), tinh thần thời đại ( hình tượng thơ luôn có sự vận động…)
+ Thơ Hồ Chí Minh: 86 bài.
+ Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh: 36 bài.
- Nội dung:
+ Thể hiện lòng yêu thương con người sâu nặng, khát vọng đấu tranh cho độc lập dân tộc.
+ Ca ngợi thiên nhiên hùng vĩ, phản ánh thời kì hoạt động bí mật, gian khổ nhưng cũng rất lạc
quan, hào hùng.
Câu 4 : Giới thiệu về Phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh
- Văn chính luận: Tư duy sắc sảo, giàu tri thức văn hoá, gắn lí luận với thực tiễn, vận dụng có
hiệu quả nhiều phương thức biểu hiện. Những sáng tác VH của Hồ Chí Minh đều có sự thống
nhất giữa cổ điển và hiện đại, giữa chính trị và nghệ thuật
- Truyện và kí: chủ động, sáng tạo, chân thực tạo không khí gần gũi. Giọng điệu châm biếm, sắc
Ngô Đức Đồng-Trường THPT Bắc Yên Thành, Nghệ An
sảo, thâm thuý tinh tế, hoà quyện giữa chất trí tuệ và chất hiện đại.
- Thơ ca: Hàm súc, uyên thâm, đạt chuẩn mực cao về nghệ thuật,
vận dụng nhiều thể loại, phục vụ có hiệu quả cho nhiệm vụ cách mạng.
Câu 5: Hoàn cảnh ra đời của “Tuyên ngôn Độc lập” (NAQ-HCM)

- Chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc. Phát xít Nhật, kẻ đang chiếm đóng nước ta lúc bấy giờ đã
đầu hàng Đồng minh.
-Trên cả nước, nhân dân ta vùng dậy giành chính quyền  19-08-1945, CMT8 thành công,
chính quyền về tay nhân dân Hà Nội.
-26-08-1945, Chủ tịch HCM từ Việt Bắc về thủ đô HN tại căn nhà số 48 Hàng Ngang người đã
soạn thảo “Tuyên ngôn Độc lập”
-2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình, Người thay mặt chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn Độc
lập, khai sinh ra nước Việt Nam DCCH.
-Tuyên ngôn độc lập là một văn kiện có giá trị lịch sử to lớn, là lời tuyên bố xóa bỏ chế độ thực
dân phong kiến, là sự khẳng định quyền tự chủ và vị thế bình đẳng của dân tộc ta trên toàn thế
giới, là mốc son lịch sử mở ra kỉ nguyên Độc lập – Tự do trên đất nước ta.
-Tuyên ngôn là một tác phẩm chính luận đặc sắc có sự mạnh và tính thuyết phục, thể hiện ở
cách lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, bằng chứng xác thực, ngôn ngữ hùng hồn, đầy cảm xúc.
Câu 6: Nêu đối tượng, mục đích hướng tới của bản “Tuyên ngôn Độc lập”?
• Đối tượng:
-Đồng bào cả nước.
-Nhân dân thế giới.
-Đặc biệt là thực dân Pháp, Mĩ, bởi chúng có ý đinh cướp nước ta.
• Mục đích:
-Khẳng định quyền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam
-Bác bỏ những luận điệu xảo trá của Pháp và Mĩ trước dư luận Quốc tế
-Thể hiện ý chí gang thép của người Việt Nam, quyết tâm bảo vệ nền độc lập dân tộc bằng
mọi giá.
Câu 7: Nguyễn Ái Quốc đã vạch trần luận điệu của thực dân Pháp như thế nào qua Tuyên
ngôn Độc lập
1. Cơ sở pháp lý và chính nghĩa của bản Tuyên ngôn Độc lập
- Là khẳng định quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc
của con người. Đó là những quyền không ai có thể xâm phạm được; người ta sinh ra phải luôn
luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi.
- Hồ Chủ Tịch đã trích dẫn 2 câu nổi tiếng trong 2 bản Tuyên ngôn của Mĩ và Pháp, trước hết là

để khẳng định Nhân quyền và Dân quyền là tư tưởng lớn, cao đẹp của thời đại, sau nữa là “suy
rộng ra…” nhằm nêu cao một lý tưởng về quyền bình đẳng, quyền sống, quyền sung sướng và
quyền tự do của các dân tộc trên thế giới.
- Cách mở bài rất đặc sắc, từ công nhận Nhân quyền và Dân quyền là tư tưởng thời đại đi đến
khẳng định Độc lập, Tự do, Hạnh phúc là khát vọng của các dân tộc. Câu văn “Đó là những lẽ
phải không ai chối cãi được” là sự khẳng định một cách hùng hồn chân lí thời đại: Độc lập, Tự
do, Hạnh phúc, Bình đẳng của con người, của các dân tộc cần được tôn trọng và bảo vệ.
+ Bác nêu chân lý phổ biến của mọi dân tộc chứ ko chỉ riêng của Pháp Mĩ  tạo tính khách quan
và cơ sở pháp lí cho lí lẽ của mình.
Ngô Đức Đồng-Trường THPT Bắc Yên Thành, Nghệ An
+Bác đã dùng một phương pháp luận rất hiệu quả “Gậy ông đập lưng ông”: bác bỏ luận điệu của
đối phương ko gì đích đáng hơn và thú vị hơn là dùng lời lẽ của chính họ để phủ định họ.
+ Cách làm này còn thể hiện niềm tự hào dân tộc vì Bác đã đặt 3 bản tuyên ngôn ngang hàng với
nhau.
+ Phát triển quyền lợi con người trong 2 bản tuyên ngôn của P&M thành quyền lợi dân tộc. Về lí
lẽ, con người bao giờ cũng tồn tại trong một dân tộc cụ thể nên vấn đề con người, xét đền cũng là
vấn đề dân tộc. Về thực tế, dân tộc VN đang bị đe dọa bởi các lực lượng thù địch nên vế đề dân
tộc đang là một vấn đề bức thiết đồi với người VN lúc ấy đồng thời cũng là mong mỏi lớn nhất
của cuộc đời bác.
- Cách mở bài rất hay, hùng hồn trang nghiêm. Người không chỉ nói với nhân dân Việt Nam ta,
mà còn tuyên bố với thế giới. Trong hoàn cảnh lịch sử thời bấy giờ, thế chiến 2 vừa kết thúc,
Người trích dẫn như vậy là để tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của dư luận tiến bộ thế giới, nhất là
các nước trong phe Đồng minh, đồng thời ngăn chặn âm mưu tái chiếm Đông Dương làm thuộc
địa của Đờ Gôn và bọn thực dân Pháp hiếu chiến, đầy tham vọng.
2.Bản cáo trạng tội ác thực dân Pháp.
- Với những dẫn chứng đã dạng phong phú vốn là những sự thật hiển nhiên, Bác đã buộc tội kẻ
thù rất hùng hồn, đanh thép qua những phương diện cơ bản: KT, CT, VH, Ngoại giao… bằng
phương pháp tương phản đầy sức thuyết phục. Cái hay của pp tương phản là Bác ko cần nói ra
mà bản chất xấu xa của thực dân Pháp cứ lồ lộ hiện ra.
- Năm tội ác về chính trị:

1- tước đoạt tự do dân chủ,
2- luật pháp dã man, chia để trị,
3- chém giết những chiến sĩ yêu nước của ta,
4- ràng buộc dư luận và thi hành chính sách ngu dân,
5- đầu độc bằng rượu cồn, thuốc phiện.
- Năm tội ác lớn về kinh tế:
1- bóc lột tước đoạt,
2- độc quyền in giấy bạc, xuất cảng và nhập cảng,
3- sưu thuế nặng nề, vô lý đã bần cùng nhân dân ta,
4- đè nén khống chế các nhà tư sản ta, bóc lột tàn nhẫn công nhân ta,
5- gây ra thảm họa làm hơn 2 triệu đồng bào ta bị chết đói năm 1945.
- Chúng lên tiếng bảo hộ Việt Nam những thực tế trong vòng 5 năm (1940 – 1945) thực dân
Pháp đã hèn hạ và nhục nhã “bán nước ta 2 lần cho Nhật”.
- Chúng rêu rao tự do bình đẳng nhưng thực tế lại cướp nước ta, áp bức đồng bào ta, dìm các
cuộc khởi nghĩa của ta trong bể máu.Thẳng tay khủng bố Việt Minh; “thậm chí đến khi thua
chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên Bái và Cao Bằng”.
- Chúng khoe công khai hóa VN nhưng thực tế lại đầu độc dân ta bằng chính sách ngu dân,
rượu cồn, thuốc phiện.
- Chúng tuyên bố Đông Dương là thuộc địa của chúng, nay phải trở về tay chúng nhưng từ
mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa.
Nhân dân ta đã nổi dậy giành chính quyền khi Nhật hàng Đồng minh.  Như vậy. chúng ta đã
lấy lại VN từ tay Nhật chứ ko phải từ tay Pháp. Luận điểm này vô cùng quan trọng về mặt pháp lí
dẫn tới sự phủ nhận triệt đề mọi đặc quyền, đặc lợi của thực dân Pháp ở VN.
Ngô Đức Đồng-Trường THPT Bắc Yên Thành, Nghệ An
=> Hệ thống lí lẽ và dẫn chứng ở trên đã vạch ra một cách sâu sắc bản chất của thực dân
Pháp: giả dối, phản trắc, lọc lừa, có tội chứ ko có công với người VN.
Rõ ràng, cuộc xâm lược của thực dân Pháp vào VN sau mùa thu 1945 là hoàn toàn phi nghĩa. TD
Pháp đã cố to son trát phấn cho cuộc ct phi nghĩa để trở lại xâm lc VN nhưng đã bị Bác vạch trần
ko thương tiếc bộ mặt xấu xa của chúng.
Câu 8: Lời tuyên bố độc lập trong bản “Tuyên ngôn Độc lập” có giá trị như thế nào ?

• Đối với kẻ thù:
- Thoát li hẳn với thực dân Pháp
- Xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp kí với VN
- Xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên VN
=>3 lời tuyên bố với mức độ tăng dần, từ ngữ hết sức chặt chẽ
• Đối với nhân dân Việt Nam:
- Họ xứng đáng được hưởng độc lập, tự do
+ Dũng cảm chiến đầu và hy sinh biết bao xương máu chiến đấu cho nền độc lập tự do. Sự khẳng
định rất hùng hồn thể hiện niềm tự hào dân tộc bằng một loạt phép điệp từ đầy tính hùng biện: “1
dân tộc đã gan góc” (điệp 2 lần), “dân tộc đó phải được”(điệp 2 lần).
+ Đứng về phe đồng minh chống phát xít
+ Nêu cao lá cờ bác ái
- Nền độc lập ấy được bảo vệ bằng ý chí lớn của người VN. Bác đã khẳng định “Toàn thể dân
tộc VN…nền tự do độc lập ấy”  bộc lộ sức mạnh vô địch của tình cảm yên nước của người VN
trong truyền thống giữ nước quý báu mà Bác đã từng ca ngợi.
- Bác cũng kêu gọi sự ủng hộ của nhân dân thế giới
- Khẳng định một lần nữa sự thật nước VN đã thành một nước tự do và độc lập.

Câu 9: Giá trị thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu được Phạm Văn Đồng phản ảnh như thế
nào qua văn bản “Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ dân tộc”? (Liên hệ với
hoàn cảnh lịch sử đất nước, hoàn cảnh gia đình nhà thơ)
1. Nêu vấn đề
- Đánh giá so sánh Nguyễn Đình Chiểu là:
+ Ngôi sao có ánh sáng khác thường: ánh sáng đẹp nhưng chưa quen nhìn nên khó thấy
+ Phải chăm chú nhìn mới thấy và càng nhìn càng thấy sáng: phải dày công nghiên cứu thì mới
thấy.
Luận đề: Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ yêu nước mà các tác phẩm của ông là những trang bất
hủ ca ngợi cuộc chiến đấu oanh liệt của nhân dân ta, một tác giả cần được nghiên cứu đề cao hơn
nữa.
Tác giả đã vào đề một cách trực tiếp, thẳng thắn, độc đáo: nêu vấn đề một cách trực tiếp và lí giải

nguyên nhân với cách so sánh cụ thể, giàu tính hình tượng. Đó cũng là cách đặt vấn đề khoa học,
sâu sắc vừa khẳng định được vị trí của Nguyễn Đình Chiểu vừa định hướng tìm hiểu thơ văn
Nguyễn Đình Chiểu .
2. Giải quyết vấn đề:
a. Luận điểm 1: Cuộc đời, con người và quan niệm sáng tác thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu.
- Hoàn cảnh sống: nước mất nhà tan, mang thân phận đặc biệt: mù cả hai mắt.
Ngô Đức Đồng-Trường THPT Bắc Yên Thành, Nghệ An
- Con người: nhà nho yêu nước, vì mù mắt nên hoạt động chủ yếu bằng thơ văn; nêu cao tấm
gương anh dũng, khí tiết, sáng chói về tinh thần yêu nước và căm thù giặc sâu sắc.
- Quan niệm sáng tác: dùng văn chương làm vũ khí chiến đấu, ca ngợi đạo đức, chính nghĩa.
Quan niệm văn chương của Nguyễn Đình Chiểu hoàn toàn thống nhất với quan niệm về lẽ làm
người.
b. Luận điểm 2: Thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu.
- Tái hiện một thời đau thương, khổ nhục mà vĩ đại của đất nước, nhân dân.Thơ văn NĐC đã bám
sát đời sống lịch sử đấu tranh của nhân dân Nam Bộ, có hơi thở nóng bỏng của tình cảm yêu
nước thuơng nòi. Đó cũng là cách khẳng định NĐC xứng đáng là một ngôi sao sáng .
- Thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu ca ngợi những người anh hùng suốt đời tận trung
với nước, than khóc cho những người đã trọn nghĩa với dân.
Luận chứng: Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc là một đóng góp lớn
+ Khúc ca của người anh hùng thất thế nhưng vẫn hiên ngang
+ Lần đầu tiên, người nông dân di vào văn học viết, là hình tượng nghệ thuật trung tâm.
- Thơ văn yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu không chỉ có sức nặng đấu tranh mà còn đẹp ở hình
thức, có những đóa hoa, hòn ngọc rất đẹp
Văn chương NĐC tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh của thời đại, có sức cổ vũ mạnh mẽ cho
cuộc chiến đấu chống thực dân.
c. Luận điểm 3 :Truyện Lục Vân Tiên.
- Là “một bản trường ca ca ngợi chính nghĩa, những đạo đức đáng quý trọng ở đời, ca ngợi những
người trung nghĩa.
- Không phủ nhận những hạn chế của tác phẩm: giá trị luận lí mà NĐC ca ngợi, ở thời đại chúng
ta, theo quan điểm chúng ta thì có phần đã lỗi thời”, hay văn chương của LVT “có những chỗ lời

văn không hay lắm”.
- Khẳng định tư tưởng, thế giới nhân vật, về nghệ thuật trong truyện LVT có những điểm mạnh
và giá trị riêng: tư tưởng nhân-nghĩa-trí-dũng; nhân vật gần gũi với nhân dân, từ nhân dân mà ra:
dũng cảm, đấu tranh không khoan nhượng cho chính nghĩa; nghệ thuật kể truyện nôm dễ hiểu dễ
nhớ, dễ truyền bá dân gian, thậm chí có cả những lời thơ hay.
Cách lập luận đòn bẩy, bắt đầu lập luận là một sự hạ xuống, nhưng đó là sự hạ xuống để
nâng lên; xem xét LVT trong mối quan hệ mật thiết với đời sống của nhân dân.
3. Kết thúc vấn đề:
- Khẳng định vị trí của NĐC trong lịch sử VH, trong đời sống tâm hồn dân tộc và trong cuộc
kháng chiến chống Mĩ
- Tỏ niềm tiếc thương thành kính.
Vừa có tác dụng khắc sâu, vừa có thể đi vào lòng người niềm xúc cảm thiết tha.
Câu 10 : Ý nghĩa nhan đề bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng
-Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập đầu năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội
Lào, bảo vệ biên giới Việt – Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào cũng
như miền tây Bắc Bộ Việt Nam. Địa bàn đóng quân và hoạt động của đoàn quân Tây Tiến khá
rộng, bao gồm các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hòa Bình, miền tây Thanh Hóa và cả Sầm Nưa ( Lào).
Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh viên chiến
đấu trong những hoàn cảnh rất gian khổ, vô cùng thiếu thốn về vật chất, bệnh sốt rét hoành hành
Ngô Đức Đồng-Trường THPT Bắc Yên Thành, Nghệ An
dữ dội. Tuy vậy, họ sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm. Đoàn quân Tây Tiến, sau một
thời gian hoạt động ở Lào, trở về Hòa Bình thành lập trung đoàn 52.
-Cuối năm 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị cũ chưa bao lâu, tại Phù
Lưu Chanh, Quang Dũng viết bài thơ Nhớ Tây Tiến.Tây Tiến có nghĩa là tiến về miền Tây, nơi
đoàn quân đang dốc hết sức mình bảo vệ tổ quốc và giúp sức cho đất nước bạn.
Câu 11: Con đường hành quân gian khổ của binh đoàn Tây tiến được Quang Dũng miêu
tả như thế nào? Phân tích kĩ những biện pháp nghệ thuật đặc sắc.
-Bức tranh thiên nhiên ở miền Tây lần lượt hiện ra qua khung cảnh, địa bàn hoạt động. Đoàn
binhTây Tiến phải trải qua một đoạn đường hiểm trở trên một địa bàn rộng với các địa danh Sài
Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mai Châu

Dốc lên khúc khuỷu , dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời.
Câu thơ diễn tả con đường gian khổ mang dáng nét tạo hình thông qua 5 thanh trắc, hai từ
“dốc”ngăn cách nhau bởi dấu phẩy gợi cảm tưởng cho người đọc chưa vượt qua được dốc này lại
đến dốc khác. Các từ láy “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, các hình ảnh ”heo hút”, ”cồn mây”, ”súng
ngửi trời” đã diến tả sự hiểm trở, trùng điệp của núi đèo miền Tây. Để diễn tả độ cao vòi vọi của
con dốc chỉ cần ba chữ ”súng ngửi trời”. Đây là hình ảnh rất thực, lãng mạn, vừa ngộ nghĩnh vừa
mang tính chất tinh nghịch, táo bạo. Người lính nhuư đang đi trong mây, mũi súng chạm mây
trời.
-Con đường đi lên đầy chông gai, nguy hiểm nhưng co đường đi xuống cũng không dễ dàng:
“Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”
-Hình ảnh thơ đối xứng, câu thơ như được gấp lại, thanh điệu biến đổi, từ chỉ số lượng “ngàn
thước” đã diễn tả các dốc núi hút lên và đổ xuống gần như thẳng đứng.
Ba câu thơ được vẽ bằng những nét gân guốc, câu thứ được vẽ bằng những nét mềm mại, đằm
thắm ( toàn thanh bằng )
“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Câu thơ diễn tả trận mưa đều đều không ngớt, rộng, xa với chân núi trắng trời, mưa nhẹ trong
không gian lớn, mịt mùng, thấp thoáng những mái nhà như đang trôi bồng bềnh. Vẻ dữ dội,
hoang dại còn được miêu tả không chỉ theo hướng không gian mà còn theo chiều thời gian. Chiều
chiều cọp trêu người”
Không gian rừng núi hoan vu hiểm trở, luôn là mối de dọa của con người, làm cho con người
trở nên ốm yếu, da xanh, tóc rụng…
Câu 12: Hình tượng người lính trong binh đoàn Tây tiến được xây dựng mang những nét
hào hoa, lãng mạn nhưng cũng rất chân thực sinh động. Hãy làm sáng tỏ nhận định trên.
Đây là hình tượng tập thể của người lính Tây Tiến. Quang Dũng đã chọn lọc những nết tiêu biểu
của từng người lính để tạc nên bức tượng đài tập thể mang tinh thần chung của đoàn quân.
+ Vẻ đẹp hào hoa
- Nếu người lính trong Đồng chí (Chính Hữu), Nhớ (Hồng Nguyên)Cá nước, Tố Hữu; Đồng chí,
Chính Hữu mang dáng dấp của những người nông dân ra trận, chất phác, hồn nhiên , ra đi từ mái
tranh gốc rạ, bến nước cây đa ( ), thì người lính của binh đoàn Tây Tiến hầu hết là các chàng trai

Hà thành thuở ấy. Họ là những thanh niên trí thức mang trong mình sự sôi nổi, lãng mạn và một
bầu nhiệt huyết đối với quê hương đất nước. Họ khao khát được khẳng định mình trong môi
trường khốc liệt của chiến tranh (thực chất đây là một sự ý thức sâu sắc về mình ).
Ngô Đức Đồng-Trường THPT Bắc Yên Thành, Nghệ An
- Sự khác biệt ấy còn xuất phát từ chất tâm hồn của chính Quang Dũng. Cái chơi vơi, thăm thẳm,
xa khơi, oai linh thác gầm thét, oai hùm, của cảnh và người trong Tây Tiến cũng là những giai
điệu, những sắc màu của thế giới tâm hồn Quang Dũng. Chính vì thế, nhà thơ đặc biệt đồng điệu
đồng cảm với chất lính Tây Tiến hào hoa, phóng khoáng, nên thơ.
+ Vẻ đẹp giản dị mà kiêu hùng
- Hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp hào hùng, lẫm liệt - có bóng dáng của các tráng sĩ
xưa - coi cái chết nhẹ nhàng, thanh thản: Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh/áo bào thay chiếu
anh về đất/Sông Mã gầm lên khúc độc hành nhưng cũng rất thời đại, rất mới mẻ.
-Hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên một cách chân thực, gần gũi trong nét hồn nhiên , tinh
nghịch (Người lính trong Đồng chí của Chính Hữu không có dáng dấp tráng sĩ mà gần với Văn tế
NSCG ). Họ là những người chiến sĩ của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, bước vào cuộc chiến
khốc liệt với tư thế ngang tàng, bất chấp hiện thực nghiệt ngã: "Heo hút cồn mây súng ngửi
trời" "Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc - Quân xanh mâu lá dữ oai hùm"; "Chiến trường đi
chằng tiếc đời xanh". Nhưng điều làm nên sức mạnh thực sự của người lính Tây Tiến là nguồn
lực tinh thần. Ý chí chiến đấu quên mình, tình yêu mãnh liệt với quê hương đất nước mà biểu
hiện cụ thể trong bài thơ là tình yêu với thiên nhiên miền Tây, với núi rừng, làng bản. Tình yêu
cuộc sống làm bừng sáng vẻ đẹp của cuộc đời chiến đấu gian khổ: "nhớ ôi Tây Tiến cơm lên
khói - Mai Châu mùa em thơm nếp xôi" "Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa - Kìa em xiêm áo tự
bao giờ"
- Viết về người lính trong những năm thăng kháng chiến gian khổ, Quang Dũng không né tránh
sự mất mát, đau thương. Vẻ đẹp của người lính không tách rời nỗi đau của chiến tranh ác liệt. Sự
hi sinh của những người lính đã được biểu hiện bằng những hình ảnh bi thương, nhưng không bi
luỵ. Cái chết đồng hành với mỗi bước chân trên con đường chiến trận. Người lính có thể gục
xuống, ngã xuống vì bom đạn vì sốt rét, vì đói khổ, nhưng đó không phải là sự gục ngã: Trong cái
bi (nỗi đau mất mát, chiến tranh tàn khốc) vẫn tiềm tàng một sức mạnh bất khuất: "Anh bạn dãi
dầu không bưởi nữa - Gục lên súng mũ bỏ quên đời" ; "Rải rác biên cương mỏ viễn xứ - Chiến

trường đi chẳng tiếc đời xanh - áo bào thay chiếu anh về đất - Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
+ Tâm hồn lạc quan, lãng mạn
- Tâm hồn lạc quan, lãng mạn vốn là phẩm chất tinh thần nổi bật của người lính. Nhiều tác giả đã
viết về điều đó , song ở Tây Tiến, tâm hồn lạc quan, mơ mộng của những chàng trai Hà Nội
không giống với cái hồn nhiên chân chất của những người lính xuất thân từ từ gốc rạ bờ tre, từ
cây đa, giếng nước. ( Giếng nước gốc đa Đằng nớ vợ chưa đằng nớ Lũ chúng tôi ). Đã có một
thời người ta phê phán câu thơ Đêm mơ Hà Nộ dáng Kiều thơm- cho rằng QD mộng mơ quá,
nhưng suy cho cùng, điều đó lại rất cần thiết. Đặc biệt, đối với những người lính phải chiến đấu
trong một hoàn cảnh khắc nghiệt , nếu không có niềm lạc quan, mộng mơ thì họ sẽ chết vì nỗi
buồn trước khi chết vì bom đạn của kẻ thù (nhất lại là đối với những chàng trai HN ). Từng là
một người lính nên QD hiểu rõ điều đó.
-Vẻ đẹp lãng mạn của người lính Tây Tiến được bộc lộ không phải chỉ ở dáng vẻ oai hùm, phóng
túng, mà luôn thăng hoa trong chất tâm hồn, trong từng giai điệu cảm xúc của người lính giữa
cảnh tàn khốc của chiến tranh. Cái nhìn của nhà thơ cũng là cái nhìn từ đôi mắt mộng mơ của
người lính. Đôi mắt ấy đã cảm nhận được về đẹp đầy chất thơ của thiên nhiên, con người, cuộc
sống miền Tây Tổ quốc: "Người đi Châu Mộc chiều sương ấy - Có thấy hồn lau nẻo bến bờ - Có
nhớ dáng người trên độc mộc - Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa". Cũng từ cái nhìn ấy, thế giới
Ngô Đức Đồng-Trường THPT Bắc Yên Thành, Nghệ An
của cái đẹp, của thi ca, nhạc hoạ, của tình yêu và tình người luôn hiện hữu, bất chấp thực tại đầy
gian nan, khắc nghiệt, bất chấp cái chết luôn đồng hành: "Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa - Kìa
em xiêm áo tự bao giờ - Khèn lên man điệu nàng e ấp - Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ"; "Mắt
trừng gửi mộng qua biên giới - Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm" Cũng bằng cảm quan đầy
chất lãng mạn, lí tưởng hoá, sự hi sinh của những người lính vô danh đã được biểu hiện bằng
hình tượng thơ mang vẻ đẹp thiêng liêng, kì vĩ: "Áo bào thay chiếu anh về đất -Sông Mã gầm lên
khúc độc hành".
Câu 13:
1.Tiểu sử Tố Hữu:
- Sinh năm 1920 - Là đứa con của “Huế đẹp và thơ”, như ông viết:
“Hương Giang ơi, dòng sông êm,
Qua tim ta, vẫn ngày đêm tự tình”

(Bài ca quê hương)
- 19 tuổi đã trở thành đảng viên Đảng Cộng sản, tiếp tục hoạt động bí mật chống Pháp - Nhật.
- Sau Cách mạng, ông phụ trách công tác Văn nghệ, là cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước.
- Tố Hữu là nhà thơ lớn của đất nước ta. Hơn nửa thế kỷ làm thơ, năm 70 tuổi ông viết:
“Bạc phơ mái tóc, mây đưa mộng
Thanh bạch hồn thơ, nắng nở hoa”.
(“Bảy mươi” – 10/1990)
Tác phẩm thơ
1“Từ ấy”, (1937 – 1946)
2. “Việt Bắc” (1954)
3. “Gió lộng” (1961)
4. “Ra trận” (1972)
5. “Máu và hoa” (1977)
6. “Một tiếng đờn” (1979 – 1992
2. Phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu
- Tố Hữu là nhà thơ trữ tình chính trị thể hiện nồng nhiệt tự hào lý tưởng cách mạng, đời sống
cách mạng của nhân dân ta.
- Tố Hữu là nhà thơ của lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn. Khuynh hướng sử thi, cái tôi
trữ tình – cái tôi chiến sĩ mang tầm vóc hoành tráng, màu sắc lịch sử được diễn tả bằng bút pháp
thần thoại hóa, hình tưởng thơ kì vĩ, tráng lệ.
- Nét đặc sắc trong thơ Tố Hữu là có giọng điệu riêng. Thơ liền mạch, nhất khí tự nhiên, giọng
tâm tình, ngọt ngào tha thiết.
Nghệ thuật thơ Tố Hữu giàu tính dân tộc. Phối hợp tài tình ca dao, dân cam các thể thơ dân tộc
và “thơ mới”. Vận dụng biến hoá cách nói, cách cảm, cách so sánh ví von rất gần gũi với tâm hồn
người. Phong phú vần điệu, câu thơ mượt mà, dễ thuộc dễ ngâm. “Việt Bắc”, “Nước non ngàn
dặm”, “Theo chân Bác”… là những bài thơ tuyệt bút của Tố Hữu.
Câu 14 Tình cảm của người chiến sĩ cách mạng đối với quê hương cách mạng trong bài thơ
Việt Bắc:
- Những kỷ niệm ân tình sâu nặng một thời gian khổ
- Nhớ con người Việt Bắc

- Nhớ cảnh Việt Bắc trong 4 mùa
Ngô Đức Đồng-Trường THPT Bắc Yên Thành, Nghệ An
- Nhớ chiến khu Việt Bắc oai hùng
- Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền
1. Hai mươi câu đầu là lời nhắn gửi, những câu hỏi của “ta” (người ở lại nhắn gửi hỏi
“mình” (người về).
Cảnh tiễn đưa, cảnh phân ly ngập ngừng, lưu luyến bâng khuâng: “Tiếng ai tha thiết bên cồn…
áo chàm đưa buổi phân li…” Có 8 câu hỏi liên tiếp (đặt ở câu 6): “Có nhớ ta… có nhớ không…
có nhớ những ngày… có nhớ những nhà… có nhớ núi non… mình có nhớ mình…” Sự láy đi láy
lại diễn tả nỗi niềm day dứt khôn nguôi của người ở lại. Bao kỷ niệm sâu nặng một thời gian khổ
như vương vấn hồn người:
Các câu 8 hầu như ngắt thành 2 vế tiểu đối 4/4, ngôn ngữ thơ cân xứng, hài hòa, âm điệu thơ
êm ái, nhịp nhàng, nhạc điệu ngân nga thấm sâu vào tâm hồn người, gợi ra một trường thương
nhớ, lưu luyến mênh mông. “Mình” và “ta” trong ca dao, dân ca là lứa đôi giao duyên tình tự.
“Mình”, “ta” đi vào thơ Tố Hữu đã tạo nên âm điệu trữ tình đậm đà màu sắc dân ca, nhưng đã
mang một ý nghĩa mới trong quan hệ: người cán bộ kháng chiến với đồng bào Việt Bắc; tình
quân dân, tình kẻ ở người về
2. Sáu mươi tám câu tiếp theo là người về trả lời kẻ ở lại. Có thể nói đó là khúc tâm tình của
người cán bộ kháng chiến, của người về. Bao trùm nỗi nhớ ấy là “như nhớ người yêu” trong mọi
thời gian và tràn ngập cả không gian:
- Nhớ cảnh Việt Bắc, cảnh nào cũng đầy ắp kỷ niệm:
- Nhớ con người Việt Bắc giàu tình nghĩa cần cù gian khổ: Điều đáng nhớ nhất là nhớ người ở
lại rất giàu tình nghĩa, “đậm đà lòng son”:
Nhớ cảnh 4 mùa chiến khu. Nỗi nhớ gắn liền với tình yêu thiên nhiên, tình yêu sông núi, đầy
lạc quan và tự hào. Nhớ cảnh nhớ người, “ta nhớ những hoa cùng người”. Nhớ mùa đông “Rừng
xanh hoa chuối đỏ tươi”. Nhớ “Ngày xuân mơ nở trắng rừng”. Nhớ mùa hè “Ve kêu rừng phách
đổ vàng”. Nhớ cảnh “Rừng thu trăng rọi hòa bình”. Nỗi nhớ triền miên, kéo dài theo năm tháng.
- Nhớ chiến khu oai hùng:
- Nhớ con đường chiến dịch:
Âm điệu thơ hùng tráng thể hiện sức mạnh chiến đấu và chiến thắng của quân và dân ta. Từ núi

rừng chiến khu đến bộ đội, dân công, tất cả đều mang theo một sức mạnh nhân nghĩa Việt Nam
thần kỳ quyết thắng.
- Nỗi nhớ gắn liền với niềm tin
- Nhớ Việt Bắc là nhớ về cội nguồn, nhớ một chặng đường lịch sử và cách mạng:
Câu 15 : Khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn thơ Tố Hữu :
- Khí thế ra trận bừng bừng của quân ta được miêu tả hết sức chân thực bằng những hình ảnh
gân guốc, khỏe khoắn; bằng những từ tượng hình, tượng thanh chính xác; bằng một so sánh
thoáng nhìn qua không có gì mới mẻ nhưng thực chất lại có ý vị: Đêm đêm rầm rập như là đất
rung, các từ láy mang âm hưởng sử thi hoành tráng.
- Nét lãng mạn trong đời sống kháng chiến cũng được nói tới bằng hình ảnh vừa giàu ý nghĩa
tả thực, vừa thấm đẫm tính tượng trưng: Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan. Cảm hứng lãng
mạn còn được thể hiện trong vẻ đẹplý tưởng của cn ngời về cuộc sống mới mẻ , thể hiện niềm tin
vững chắc van tương lai tươi sáng dẫu còn nhièu khó khăn gian khổ
-Tuy mô tả cảnh ban đêm, nhưng bức tranh thơ của Tố Hữu lại giàu chi tiết nói về ánh sáng:
ánh sáng của sao trời, của lửa đuốc, của đèn pha Sự so sánh Đèn pha bật sáng như ngày mai
Ngô Đức Đồng-Trường THPT Bắc Yên Thành, Nghệ An
lên tuy có vẻ cường điệu nhưng phản ánh đúng niềm phấn chấn tràn ngập lòng người kháng
chiến.
- Để thể hiện không khí chiến thắng, tác giả lặp lại nhiều lần từ “vui” và đưa vào thơ một loạt
địa danh thuộc cả 3 miền Bắc, Trung, Nam, quyện hoà, xoắn xuýt với nhau. So với những nhà
thơ khác như Quang Dũng, Hoàng Cầm, cách sử dụng địa danh của Tố Hữu vẫn có những nét
riêng độc đáo.
- Bài thơ tràn đầy âm hưởng anh hùng ca, mang dáng dấp một sử thi hiện hưđại bởi chỉ cần
phác họa khung cảnh hùng tráng ở Việt Bắc, tác giả đã làm sống dậy khí thế vô cùng mạnh mẽ
của cả một dân tộc đứngn lên chiến đấu vì tổ quốc độc lập tự do.
Câu 16 : Hình ảnh Đất Nước trong bài thơ cùng tên của Nguyễn Khoa Điềm
1. Đất nước - cội nguồn dân tộc
- Đất nước có đã lâu rồi từ những “ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể”. Đất nước gắn liền
với mĩ tục thuần phong, với cổ tích truyền thuyết “Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
- Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc – Tóc mẹ thì bới sau đầu – Cha mẹ

thương nhau bằng gừng cay muối mặn”.
- Đất nước gắn bó với những cái bình dị thân thuộc quanh ta:
-Đất nước là “nơi ta hò hẹn”, là “nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”, là “nơi anh
đến trường” là “nơi em tắm”…
- Đất nước gắn liền với dân ca “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc…, con cá ngư ông
móng nước biển khơi”, gắn liền với huyền thoại “Trăm trứng” thiêng liêng:
- Đất nước trường tồn theo thời gian đằng đẵng, trải rộng trên một “không gian mênh mông”.
Yêu thương biết bao, bởi lẽ “Đất nước là nơi dân mình đoàn tụ”, là quê hương xứ sở ngàn đời:
- Đất nước lâu đời “ngày xửa ngày xưa”, Đất nước hôm nay, và Đất nước mai sau. Một niềm
tin cao cả thiêng liêng:
Đất nước là của mọi người, trong đó có một phần của “anh và em hôm nay”. Đất nước mỗi
ngày một tốt đẹp vững bền, trở nên “vẹn tròn to lớn”. Đất nước hình thành và trường tồn bằng
máu xương của mỗi chúng ta. Tình yêu nước là sự “gắn bó và san sẻ”. Đây là một trong những
đoạn thơ tâm tình sâu lắng, hay nhất trong bài thơ nói về tình yêu đất nước:
2. Đất nước của Nhân dân - Đất nước của ca dao thần thoại
- Đất nước hùng vĩ. Giang sơn gấm vóc. Ý tưởng ấy, niềm tự hào ấy đã được nhiều thi sĩ bao
đời nay nói đến thật hay, thật xúc động. Nguyễn Khoa Điềm nói về ý tưởng ấy niềm tự hào ấy rất
thơ và rất độc đáo. Tượng hình, sông núi gắn liền với những đức tính quý báu, những phẩm chất
cao đẹp của con người Việt Nam. Là sự thủy chung trong tình yêu. Là truyền thống anh hùng bất
khuất, là tinh thần đoàn kết, nghĩa tình. Là khát vọng bay bổng, là tinh thần hiếu học. Là đức tính
cần mẫn sum vầy, là chí khí tự lập tự cường. Mỗi tên núi tên sông trở nên gần gũi trong tâm hồn
ta:
- Tính phẩm mỹ, tính hình tượng và tính riêng phong cách được hội tụ qua đoạn thơ này, tạo
nên giá trị nhân văn đích thực, làm cho người đọc vô cùng thú vị khi cảm nhận và khám phá.
- Tên núi, tên sông, tên ruộng đồng, gò bãi… mang theo “ao ước”, thể hiện “lối sống ông cha”
là tâm hồn dân tộc:
- Mồ hôi và máu của Nhân dân, của những anh hùng vô danh đã dựng xây và bảo vệ Đất nước:
- Chính nhân dân đã “giữ và truyền” hạt lúa, đã “truyền lửa”, “truyền giọng điệu”, “gánh tên
làng tên xã”…, “đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái”. Chính Nhân dân đã làm nên Đất
Ngô Đức Đồng-Trường THPT Bắc Yên Thành, Nghệ An

nước, để Đất nước là của Nhân dân. Vần thơ hàm chứa ý tưởng đẹp, một lối diễn đạt ý vị ngọt
ngào
- Đất nước mang sức sống mãnh liệt, tiềm tàng vì Nhân dân đã biết yêu và biết ghét, bền chí và
dẻo dai, biết “quý công cầm vàng”, “biết trồng tre đợi ngày thành gậy”, biết trả thù cho nước, rửa
hận cho giống nòi mà “không sợ dài lâu”.
- Hình ảnh người chèo đò, kéo thuyền vượt thác cất cao tiếng hát là một biểu tượng nói lên sức
mạnh Nhân dân chiến thắng mọi thử thách, lạc quan tin tưởng đưa Đất nước đi tới một ngày mai
vô cùng tươi sáng:
* Kết luận
Giọng thơ tâm tình tha thiết. Vận dụng tục ngữ ca dao, dân ca, cổ tích, truyền thuyết… một cách
hồn nhiên thú vị. Có một số đoạn thơ rất đặc sắc: ý tưởng đẹp, cảm xúc và hình tượng hài hòa,
hội tụ nên những vần thơ mĩ lệ. Tư tưởng đất nước của Nhân dân được thể hiện vô cùng sâu sắc
với tất cả niềm tự hào và tình yêu nước. Một đôi chỗ còn dàn trải, thiếu hàm súc. Nguyễn Khoa
Điềm đã góp cho đề tài Đất nước một bài thơ hay, ý vị đậm đà.
Câu 17 : Vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh:
Sóng của Xuân Quỳnh là tiếng nói của một tâm hồn thiếu nữ đang trong độ tuổi hai mươi, tiếng
nói của một trái tim chân thành và đam mê, luôn rực cháy chất trẻ trung mãnh liệt, khao khát
được sống hết mình và yêu hết mình:
- Ba hình ảnh sông, sóng, bể như là những chi tiết bổ sung cho nhau : sông và bể làm nên đời
sóng, sóng chỉ thực sự có đời sống riêng khi ra với biển khơi mênh mang thăm thẳm. Tất cả các
khía cạnh tương phản dữ dội - dịu êm, ồn ào - lặng lẽ tạo nên một cái nhìn bao quát về sóng.
Mạch sóng mạnh mẽ như bứt phá không gian chật hẹp để khát khao một không gian lớn lao.
Hành trình tìm ra tận bể chất chứa sức sống tiềm tàng, bền bỉ để vươn tới giá trị tuyệt đích của
chính mình.
- Trên hành trình ấy, điểm xuất phát của sóng tưởng chừng đã đưọc lý giải rõ ràng: sóng bắt đầu
từ gió. Nhưng rồi những băn khoăn cứ nối tiếp cho đến lúc không thể giải đáp (và cũng không
cần giải đáp) bằng lý trí, đó cũng là lúc tầng tầng lớp lớp nghĩa của sóng hiện ra : con sóng của
biển khơi tạo ra sóng thơ, con sóng thơ dào dạt của tâm hồn làm xuất hiện con sóng của tình yêu
bất tận. Và khi đã thành sóng tình thì không bao giờ có thể lý giải được khi nào ta yêu nhau?
Những liên tưởng điệp trùng dào dạt đã nối kết được con người với không gian biển khơi .

- Gắn với thế giới riêng tư của Anh và Em là cặp hình ảnh sóng - bờ. Con sóng Xuân Quỳnh sâu
kín, tinh tế trong một nỗi nhớ cháy lòng của tình yêu. Nỗi nhớ gói gọn trong thời gian của một
ngày đêm nhưng đủ sức dồn nén dung lượng tình yêu của cả một đời người. Nỗi nhớ không chỉ
có mặt trong thời gian được ý thức mà còn gắn với tiềm thức - thời gian trong mơ. Vị ngọt ngào
mê đắm của tình yêu lan tỏa trong cách nói nghịch lý trong mơ còn thức. Thế giới của Anh và Em
không giới hạn chiều dài Bắc - Nam, không khoanh vùng địa bàn mà nơi nào cũng có nỗi nhớ
thường trực của tình yêu vĩnh viễn. Xuân Quỳnh đã tiếp nhận nỗi nhớ ấy bằng tất cả sự nhạy cảm
của lứa tuổi đôi mươi và khẳng định cho một cái tôi của con người luôn vững tin ở tình yêu.
- Hành trình Tình Yêu cũng là hành trình tự thử thách của lòng kiên trì bền bỉ để đạt mục đích
của mỗi một cá nhân. Cái nhìn về cuộc đời của Xuân Quỳnh thật nhân hậu và nồng nàn :
Cuộc đời là biển lớn tình yêu, kết tinh vị mặn ân tình, được tạo nên và hòa lẫn cùng trăm con
sóng nhỏ. Trong quan niệm của nhà thơ, số phận cá nhân không thể tách khỏi cộng đồng. Sóng
không phải là biểu tượng củaq một cái tôi ngạo nghễ và cô đơn như thơ lãng mạn. Khát vọng lớn
Ngô Đức Đồng-Trường THPT Bắc Yên Thành, Nghệ An
nhưng trong cách nói Xuân Quỳnh lại rất khiêm nhường : trăm con sóng nhỏ như là sự tổng hòa
những vẻ đẹp khác nhau để tạo thành biển lớn. Mỗi một quan hệ riêng tư sẽ làm đẹp thêm cho lẽ
sống thời đại "Người yêu người, sống để yêu nhau" (Tố Hữu). Đó không chỉ là tinh thần của con
người thời đại chống Mỹ mà còn là âm vang của một tấm lòng luôn tha thiết với sự sống, với tình
yêu.
-Trong biển lớn tình yêu cuộc đời hôm nay, đã có biết bao con sóng đã tới bờ, đang tới bờ và tìm
về bờ. Tình yêu vẫn luôn luôn là đề tài hấp dẫn với mọi lứa tuổi, để mọi người đi tìm những lới
giải đáp cho ẩn số tình yêu trong một hành trình tìm kiếm không mệt mỏi. Sóng của Xuân Quỳnh
vẫn vỗ những nhịp yêu thương, giúp những người đang yêu thêm tự tin vào chính mình, bởi thế
giới của Anh và Em cũng là thế giới của những con người biết tìm ra ý nghĩa của sự sống thiêng
liêng. Sống là đưọc yêu, Yêu là sống hết mình với cuộc đời vốn rất nhiều yêu thương.
Câu 18 : Tư tưởng đổi mới của Lor-ca có ảnh hưởng như thế nào trong thơ ca Thanh
Thảo :
- Một nhân cách cao đẹp: yêu nhạc dân gian, dùng tiếng đàn ghi ta để giãi bày nỗi đau buồn và
khát vọng yêu thương của nhân dân, dũng cảm đấu tranh với nền chính trị độc tài, nền nghệ thuật
già nua, bảo thủ.

- Lor ca là một hịên tượng xuất chúng có sức ảnh hưởng to lớn tới nghệ thuật và chính trị của Tây
Ban Nha lúc bấy giờ, Lor-ca đã nồng nhiệt cổ vũ cho nhân dân đấu tranh đòi quyền sống chính
đáng, đồng thời khởi xướng thúc đẩy mạnh mẽ những cách tân nghệ thuật.
- Là một sự đột phá cho văn minh nhân loại⇒ Thanh Thảo đã từng viết : « Lorca là nhà thơ của
những giấc mơ, của những linh cảm nhoi nhói, một nhà thơ có thể biến những giấc mơ thành
nhịp điệu, có thể biến những linh cảm thành ngôn từ. Lorca siêu thực một cách tự nhiên, và hiện
thực một cách tự nhiên » (Lorca trong tôi – Mãi mãi là bí mật, NXB Lao động, 2004).
Câu 19 : Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân
Nguyễn Tuân có một phong cách nghệ thuật rất độc đáo và sâu sắc.
-Trước Cách mạng tháng Tám, phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân có thể thâu tóm trong một
chữ "ngông"Thể hiện phong cách này, mỗi trang viết của Nguyễn Tuân đều muốn chứng tỏ tài
hoa uyên bác. Và mọi sự vật được miêu tả dù chỉ là cái ăn cái uống, cũng được quan sát chủ yếu
ở phương diện văn hoá, mĩ thuật.Ông đi tìm cái đẹp của thời xưa còn vương sót lại và ông gọi là
Vang bóng một thời.
-Sau Cách mạng, phong cách Nguyễn Tuân có những thay đổi quan trọng . Ông không đối lập
giữa quá khứ, hiện tại và tương lai.Văn Nguyễn Tuân, vừa đĩnh đạc cổ kính, vừa trẻ trung hiện
đại. Nguyễn Tuân học theo "chủ nghĩa xê dịch". Vì thế ông là nhà văn của những tính cách phi
thường, của những tình cảm, cảm giác mãnh liệt, của những phong cảnh tuyệt mĩ, của gió, bão,
núi cao rừng thiêng, thác ghềnh dữ dội Ông vẫn tiếp cận thế giới, con người thiên về phương
diện văn hóa nghệ thuật, nghệ sĩ, nhưng giờ đây ông còn tìm thấy chất tài hoa nghệ sỹ ở cả nhân
dân đại chúng. Còn giọng khinh bạc thì chủ yếu chỉ là để ném vào kẻ thù của dân tộc hay những
mặt tiêu cực của xã hội.
-Nguyễn Tuân cũng là một con người yêu thiên nhiên tha thiết. Ông có nhiều phát hiện hết sức
tinh tế và độc đáo về núi sông cây cỏ trên đất nước mình. Phong cách tự do phóng túng và ý thức
sâu sắc về cái tôi cá nhân đã khiến Nguyễn Tuân tìm đến thể tuỳ bút như một điều tất yếu.
Nguyễn Tuân còn có đóng góp không nhỏ cho sự phát triển của ngôn ngữ văn học Việt Nam.
Câu 20: Hình tượng sông Đà qua sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân:
Ngô Đức Đồng-Trường THPT Bắc Yên Thành, Nghệ An
-Con sông Đà hùng vĩ, dài trên năm trăm cây số, hiểm trở với hàng trăm thác ghềnh mang
những cái tên cổ sơ, xa lạ (Hát Loóng, thác Giăng, Hót Gió, Mó Tôm…). Ở ghềnh Hát Loóng

“nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè…!”. Âm thanh tiếng thác
nghe ghê rợn như tiếng rống của hàng ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu, tre nứa
bị cháy. Sông Đà có nhiều thạch trận, nhiều cửa tử ít cửa sinh, với những thần sông, thần đá trấn
giữ “nhổm cả dậy vồ lấy thuyền”, đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chổ hiểm chực
“đòi ăn chết cái thuyền”. Luồng nước vô sở bất chí, dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên
sông đầy thác ghềnh, thạch trận. Những ông tướng đá mặt xanh lè đáng sợ.
Nhịp điệu câu văn dồn dập. Từ tượng thanh, từ tượng hình, những ẩn dụ so sánh, tiếng nói đời
thường sông nước, ngôn từ nhà bình, thể thao thể dục, điện ảnh… được ông vận dụng để miêu tả
thác ghềnh, gây ấn tượng về sự dữ dội, hiểm trở, hùng vĩ của sông Đà.
-Sông Đà còn mang vẻ đẹp hoang sơ, thơ mộng “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu
tóc chân tóc, ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai”. “Mùa xuân
dòng xanh ngọc bích. Mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đỏ”. Nguyễn Tuân gọi sông Đà là một cố
nhân. Cảnh ven sông ở thượng nguồn lặng tờ. Có bầy hươu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương. Cá
dầm xanh quẫy vọt lên mặt sông bụng trắng như bạc rơi thoi. Có đoạn, có khúc sông: “Bờ sông
hoang dại như một bờ tiền sử - Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích ngày xưa”.
Một về cố thi, một câu đồng dao, một câu thơ Đường, một vài câu thơ của Tản Đà của Nguyễn
Quang Bích được Nguyễn Tuân lựa chọn đưa vào, cho thấy ông là một cây bút rất sành điệu, tài
hoa dẫn dắt người đọc chiếm lĩnh vẻ đẹp sông Đà với tình yêu sông núi, giang sơn.
Câu 21 : Hình tượng người lái đò sông Đà qua sáng tạo nghệ thuật độc đáo của Nguyễn
Tuân:
-Ông lão lái đò, đơn độc trên chiếc đò nhỏ, xông pha vào một trận đồ bát quái của sông Đà .
Những con sống dồn dập lao tới, xiết mạnh qua những tảng dá nửa nôỉ nửa chìm sôi réo lên ,
bắn tung bọt nước vào con đò nhỏ , nhưng con đò với người lái đò cùng những động tác nhanh
nhẹn , chính xác đến từng li từng tí đã khéo léo chèo chống luồn lách qua từng tảng đá ngầm ,
từng con nước xiết , từng cái hút mà nếu lỡ lọt vào là lập tức bị cuốn thẳng ngay vào lòng sông
rồi bị bao khối đá , bao luồng nước xâu xé để rồi lúc nổi nên phía hạ lưu chỉ còn những mảnh võ
cũng với một nỗi khiếp sợ bao trùm lên dòng sông .
-Đơn phương độc mã chiến đấu với thủy quái Đà Giang , ông lái đò không những không cảm
thấy mệt mỏi mà ông lại càng minh mẫn, càng hào hứng , thích thú và khoái chí mỗi khi kẻ thù
của mình bị rớt lại đằng sau Nhưng sông Đà vẫn chưa tung hết thủ đoạn , nó ra sức chảy xiết ,

cho nổi nên một trận điạ đá chìm nổi tiềm ẩn bao mưu đồ thâm độc .Nhưng ông lái đò vẫn bình
tĩnh , bằng những động tác thuần thục , với suy nghĩ quyết đoán, quả quyết , ông dần lấy thế chủ
động và từ từ tiến vào trận đồ bát quái ngũ hành _đá ngầm mà con sông Đà dã giắng sẵn chỉ
chừo ông vào là ra tay hạ thủ …
-Lúc này không thể dùng sức đấu tay đôi như trước nữa mà bây giờ nếu không có chiến thuật đối
phó kịp thời thì sẽ thua trận và sẽ bị con thủy quái Đà Giang nuốt chửng . Một lần nữa , ông lái
đò lại thể hiện cho con thủy quái kia thấy ông là người không dễ gì chịu khuất phục . Con sông
réo lên ùng ục , hiện lên ba cưả đá . Trong ba cửa thạch môn đó chỉ có duy nhất một của sinh, còn
lại hai cửa tử kia lỡ họa họa đi vào là sẽ vĩnh viên không còn lối ra .Thế nhưng thật kỳ là , ông lái
đò luồn lách một hồi rồi đi thẳng vào cửa sinh trước sự tức giận cảu thủy quái . Thủy quái càng
tức giận lồng lên khiến mặt sông đỏ ngầu sủi bọt , nố tiếp tục dâng đá tăng sóng . Không thể ẩn
Ngô Đức Đồng-Trường THPT Bắc Yên Thành, Nghệ An
nấp tấn công du kích như trước nữa , lần này nó hung hãn bao vậy thập diện rồi từ bốn phương
tám hướng ầm lên , tổng tiến công lao tới con đò như vũ bão . Không một chút run sợ , ông tiếp
tục né đỡ , dùng chính mái chèo trong tay mình để làm vũ khí chống lại và nhanh trí tấn công
mạnh vào yếu điểm của thủy quái , dần dần đánh bại mọi sự tấn công của nó. Thủy quái bị thất
thế vội lùi lại đằng sau nhường bước cho ông lái đò . Ông quả là thông minh mưu trí , và rất có
chiến lược .
-Con đò dần trôi qua thác, con thủy quái vẫn chưa chịu bỏ cuộc. Nó liền dùng biện pháp cuối
cùng , ra sức van vỉ để cầu xin lòng thương hại nhằm khiến ông laõ chủ quan, lúc thì lại rống lên
để mong cho ông lão lo lắng, sợ hãi, lúc lại ghào thét khiến ông căm tức mà hiếu chiến , bỏ quên
lí trí .Chỉ cần ông sa vào một trong ba điều trên là thủy quái lập sẽ đánh úp ông ngay lập tức, và
ông sẽ thua trận .Nhưng kài, ông vẫn vượt qua được.Thục sự ông có một tinh thần rất vững vàng ,
một tinh thần thép Lúc đó ông ẵhng còn vừua chèo vừa nói chuyện cá tôm , như chẳng để ý gì
đến con thủy quái cả .Kết quả trận chiến , con thủy quái bại trận lầm lũi nhìn ông từ từ dạo đò đi
qua .
Nguyện Tuân thật tài tình . Không chỉ dùng biện pháp văn học, ông còn sử dụng cả những thủ
pháp nghệ thuật ở mọi lĩnh vức khác nhau khiến giá trị tạo hình cảu tác phẩm lại được nâng lên
vượt bậc , và đã đặc tả rất thành công hình tượng người lái đò sông Đà .
Dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân, ông lão lái đò không những chỉ là một vị tướng quân dũng

mãnh lao vào trận chiến ác lịêt cùng thủy quái sông Đà để chiến đấu và chiến thắng mà ông còn
là một nghệ sĩ , một nghệ nhân của nghề chèo đò .Những động tác chèo đò thuần thục , nhuần
nhuyễn của ông khiến ai cũng ngưỡng mộ. Mỗi lần ông chèo đờ vượt thác lại là một lần trình
diễn nghệ thuật trên sân khấu sông Đà .Ông đúng là hiện thân cho ước mơ, khát vọng chinh
phục thiên nhiên của con người . hình ảnh người lái đò sông Đà là bức chấn dung của người lao
động bình thường nhưng đó lại chính là vẻ đẹp của cuộc sống, và cũng là vẻ đẹp của con người
trong cuộc mưu sinh.
Câu 22: Vài nét về phong cách nghệ thuật của Hoàng Phủ Ngọc Tường:
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những nhà văn chuyên về bút kí. Nét đặc sắc trong sáng tác
của ông là ở sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và tính trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với
suy tư đa chiều được tổng hợp từ vốn kiến thức phong phú về triết học, văn hóa, lịch sử, địa lí,…
Tất cả được thể hiện qua lối hành văn hướng nội, súc tích, mê đắm và tài hoa.
Câu 23: Hình ảnh sông Hương qua cái nhìn đa chiều của Hoàng Phủ Ngọc Tường
1. Vẻ đẹp sông Hương qua cảnh sắc thiên nhiên :
Khác với nhiều con sông “sông Hương là thuộc về một thành phố duy nhất”. Nghĩa là sông
Hương gắn liền với Huế.Điểm nhìn nghệ thuật của bài thơ là sông Hương.
+ Sông Hương ở đầu nguồn (thượng nguồn):Tác giả miêu tả sông Hương ở đầu nguồn với sức
sống mãnh liệt, hoang dại nhưng cũng dịu dàng và say đắm > “Rừng già đã hun đúc cho nó một
bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do và trong sáng”. Dòng sông đã được thổi bằng ngọn gió tâm
hồn dào dạt nhạy cảm, liên tưởng tự do để càng mạnh mẽ hơn, đắm say hơn ở địa phận thượng
nguồn.
+ Sông Hương ở đồng bằng:
- Sông Hương được thay đổi về tính cách: “Sông như chế ngự được bản năng của người con gái”
để “mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ
Ngô Đức Đồng-Trường THPT Bắc Yên Thành, Nghệ An
sở”
- Sông Hương lại có vẻ đẹp trầm mặc chảy dưới chân những rừng thông u tịch với những lăng mộ
âm u mà kiêu hãnh của các vua chúa triều Nguyễn.
-> Đó là vẻ đẹp mang màu sắc triết lí, cổ thi khi đi trong âm hưởng ngân nga của tiếng chuông
chùa Thiên Mụ, có vẻ đẹp “vui tươi” khi đi qua những bãi bờ xanh biếc vùng ngoại ô Kim Long,

có vẻ đẹp “mơ màng trong sương khói” khi nó rời xa thành phố để đi qua những bờ tre, lũy trúc
và những hàng cau thôn Vĩ Dạ.
+ Đoạn tả sông Hương khi đi qua thành phố đã gây được nhiều ấn tượng:
-Đấy là hình ảnh chiếc cầu bắc qua dòng sông Hương: “Chiếc cầu trắng in ngấn trên nền trời, nhỏ
nhắn như những vành trăng non”
-Nhà văn như thổi linh hồn vào cảnh vật: “đường cong ấy làm cho dòng sông như mềm hẳn đi,
như một tiếng vâng không nói của tình yêu”, “Tôi nhớ sông Hương, quý điệu chảy lững lờ của nó
khi ngang qua thành phố”.
-Dường như sông Hương không muốn xa thành phố: “Rồi như sực nhớ lại một điều gì đó chưa
kịp nói. Nó đột ngột đổi dòng rẽ ngặt sang hướng Đông Tây để gặp lại thành phố ở góc Bao
Vinh…khúc quanh này thật bất ngờ…Đấy là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình
yêu”.
- Sông Hương trở lại “để nói một lời thề trước khi về biển cả”.Tác giả liên hệ “Lời thề ấy vang
vọngkhắp khu vực sông Hương thành giọng hò dân gian, ấy là tấm lòng người dân Châu Hóa xưa
mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở”.
2.Vẻ đẹp sông Hương được khám phá dưới góc độ văn hóa :
+ Tác giả cho có một dòng thi ca về sông Hương. Đó là dòng thơ không lặp lại mình
- Tác giả gắn sông Hương với âm nhạc cổ điển Huế: “Sông Hương đã trở thành một người tài nữ
đánh đàn lúc đêm khuya…Quả đúng vậy, toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được hình thành
trên mặt nước của dòng sông này”.
- Tác giả tưởng tượng: “trong một khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của những
mái chèo khuya”.Phải có độ nhạy cảm về thẩm âm, hiểu biết về âm nhạc của xứ Huế, tác giả mới
có sự liên tưởng này.
- Với ngòi bút tài hoa cộng với sự rung cảm mạnh mẽ, HPNT nhớ tới Nguyễn Du; “Nguyễn Du
đã bao năm lênh đênh trên quãng sông này với một phiến trăng sầu.Và từ đó, những bản đàn đã
đi suốt đời Kiều”.
+Vẻ đẹp sông Hương gắn liền với những sự kiện lịch sử:
- Tên của dòng sông Hương được ghi trong “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi; “Nó được ghi là linh
giang”
- Dòng sông ấy là điểm tựa, bảo vệ biên cương thời kì Đại Việt.

- Thế kỉ XVIII, nó vẻ vang soi bóng kinh thành Phú Xuân, gắn liền với tên tuổi của người anh
hùng Nguyễn Huệ.
- Nó đọng lại đến bầm da, tím máu “nó sống hết lịch sử bi tráng của thế kỉ XIX”.
- Nó đi vào thời đại của Cách mạng tháng Tám bằng những chiến công rung chuyển.
- Nó chứng kiến cuộc nổi dậy tổng tiến công tết Mậu Thân 1968. Sông Hương đã gắn liền với
lịch sử của Huế, của dân tộc.
=>Bài bút ký kết thúc bằng cách lí giải tên của dòng sông; sông Hương, sông thơm. Cách lí
giải bằng một huyền thoại:Người làng Thành Chung có nghề trồng rau thơm. Ở đây kể lại rằng vì
Ngô Đức Đồng-Trường THPT Bắc Yên Thành, Nghệ An
yêu quí con sông xinh đẹp, nhân dân hai bờ sông đã nấu nước của trăm loài hoa đổ xuống dòng
sông cho làn nước thơm tho mãi mãi.Huyền thoại ấy đã trả lời câu hỏi : ai đã đặt tên cho dòng
sông?
Câu 24: Số phận người nông dân miền núi trong tác phẩm “ Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài”.
Tác phẩm đã tái hiện bức tranh chân thực về cuộc sống đau khổ, bi thảm của người lao động
miền núi. Trong đó Mị và A phủ- 2 con người dưới ách áp bức bóc lột của bọn chúa đát phong
kiến, phải làm nô lệ, mang thân phạn phận tủi nhục chính là là những nạn nhân tiêu biểu cho chế
độ tàn bạo dã man nói trên.
- Bọn chúa đất, bọn thống lí cấu kết với giặc Pháp, được bọn Tây đồn cho muối về bán, ăn của
dân nhiều, giàu lắm, nhà có nhiều nương, nhiều bạc nhiều thuốc phiện nhất làng.
- Pá Tra cho vay nợ lãi, Mị trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lí. Tuổi xuân và hạnh phúc bị
cướp mất. Mị sống khổ nhục hơn con trâu, con ngựa.
- A Phủ vì tội đánh con quan mà bị làng xử kiện, bị đánh, bị phạt vạ, trở thành kẻ ở nợ cho Pá
Tra.
- Cảnh Mị bị A Sử trói đứng. Cảnh A Phủ bị trói cho đến chết vì tội để hổ bắt mất bò.
- Cảnh bọn Tây đồn Bản Pe càn quét khu du kích Phiềng Sa: cướp lợn, giết người, đốt phá vô
cùng tàn bạo.
Câu 24: Sức sống mãnh liệt của nhân vật Mị trong “vợ chồng A Phủ”
-“Vợ chồng A Phủ” là truyên thành công nhất trong tập “Truyện Tây Bắc” của Tô Hoài. Trong
truyện này, nhân vật Mỵ có hồn hơn cả. Mị có hai mặt tưởng như đối lập nhưng thực ra lại rất
thống nhất. Mặt thứ nhất là Mỵ bị chà đạp nặng nề đã sinh ra buồn rầu và dần dần sinh ra cam

chịu, mất cả sức sống. Mặt thứ hai là ngay trong tình trạng đó, Mỵ vẫn cựa quậy, vẫn tiềm tàng,
tiềm ẩn một sức sống để từ đó bước vươn dậy và cuối cùng phá cũi tháo lồng và tìm lại được lẽ
sống cho mình.
-Bị bắt làm con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá-Tra là tấn bi kịch đau đớn nhất trong cuộc đời nàng. A
Sử đối với nàng như đối với một người nô lệ. Nhưng vì nàng là ngươi con gái giàu tình thương,
có đức hi sinh nên nàng đành cam chịu để trừ nợ cho cha. Ở lâu trong cái khổ, Mỵ quen khổ rồi.
Bây giờ Mỵ tưởng mình cũng là con trâu con ngựa. “Con ngựa, con trâu làm còn có lúc, đêm nó
còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà này thì vùi vào công việc cả đêm cả
ngày ”. Quá đau khổ, nàng đã phản kháng bỏ nhà Pá Tra trở về. Nàng định lạy cha rồi ăn lá ngón
chết. Nhưng khi nghe cha nói: “Mày về lạy tao để mày đi chết đấy à? Mày chết nhưng nợ tao vẫn
còn, quan lại bắt tao trả nợ… Không được con ơi!”. Mị bưng mặt khóc, ném nắm lá ngón rồi trở
về nhà Pá Tra. Vì quá thương cha mà nàng đành cam chịu cuộc sống nô lệ ở nhà thống lí.
-Nhưng trong tâm trạng, trong bản chất cuộc sống của Mị tiềm ẩn một sức sống mãnh liệt. Trong
nỗi buồn, trong suy nghĩ, trong ý muốn tự tử của nàng đã biểu lộ tinh thần không muốn cam chịu,
không muốn chấp nhận cuộc sống lầm than, tủi cực hiện tại. Sức sống bị đè nén chỉ cần có cơ hội
là nó sẽ bộc phát. Những đêm tình mùa xuân đã tới, tâm hồn Mị bị xáo trộn. Nàng đã lắng nghe
tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi. Mị nghe tiếng sáo vọng lại, tha thiết bổi hổi. Mị ngồi nhẩm bài
hát của người đang thổi:
“Mày có con trai con gái rồi
Mày đi làm nương
Ta không có con trai con gái
Ta đi tìm người yêu”
Ngô Đức Đồng-Trường THPT Bắc Yên Thành, Nghệ An
Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ừng ực từng bát. Rồi say, Mị lịm mặt ngồi đấy hồi tưởng lại
ngày trước. Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Mùa xuân, Mị uống rượu
trên bếp và thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị hết núi này
sang núi khác. Sức sống lại dạt dào trong lòng nàng. “Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng độy
nhiên vui sướng như đêm tết ngày trước. Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ, Mị muốn đi chơi.” Tiếng sáo
còn rập rờn trong đầu Mị, Mị quấn lại tóc, Mị mặc váy hoa. Ai bảo cô Mị chỉ lùi lũi như con rùa
nuôi trong xó cửa? Dĩ nhiên tuổi xuân của nàng đã bị tàn phá. Sức sống của nàng đã bị đè nén. A

Sử trói Mị lại, quấn tóc lên cột. Đóng cửa buồng rồi bỏ đi. Thật là tàn bạo, Mị vẫn đứng im như
không biết mình đang bị trói. Hơi rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo
những cuộc chơi.
“Em không yêu, quả pao rơi rồi
Em yêu người nào, em bắt pao nào”
Mị vùng vằng bước đi nhưng toàn thân đau nhức không cựa được. Sức sống tiềm tàng
trong người Mị bộc phát thật là dữ dội.
-Sức sống tiềm ẩn của Mị bộc lộ tột đỉnh trong hành vi nổi loạn giải thoát cho A Phủ và cho
chính mình. A Phủ là người ở trừ nợ (vì đánh A Sử nên bị phạt vạ) trong nhà thống lí. A Phủ
chăn bò bị hổ ăn mất một con. A Phủ bị trói. Đêm đêm, Mị dậy sưởi lửa thấy mắt A Phủ trừng
trừng, biết A Phủ còn sống, Mị vẫn lạnh lùng vì đời Mị khổ quá, Mị chỉ còn ở với ngọn lửa. Có
đêm A Sử thấy Mị ở đây đã đập Mị ngã xuống cửa bếp nhưng trái tim của cô gái giàu yêu thương
ấy lại thổn thức. Đêm khuya Mị trở dậy thổi lửa, ngọn lửa bập bùng sáng lên. Cách miêu tả sức
sống tiềm tàng đang trỗi dậy trong lòng Mị bằng “ngọn lửa bập bùng sáng lên” thật là hay! Nàng
nhìn thấy A Phủ bị trói đứng, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai lõm má đã sạm đen lại.
Mị nhớ lại đêm A Sử trói Mị, nàng thốt lên trong lòng “Trời ơi! Nó bắt trói đứng người ta đến
chết! Nó đã trói chết một người đàn bà trong nhà ngày trước cũng ở chỗ này”. Nàng nghĩ đêm
mai là người kia chết. Người kia việc gì mà phải chết. Rồi nàng vận vào mình, biết đâu A Phủ
trốn thoát, bố con Pá Tra sẽ bảo là Mị cởi trói cho nó. Mị phải trói thay vào đó, Mị phải chết trên
cái cọc ấy, Mị không thấy sợ. Đấy chỉ là những tư tưởng “nổi loạn” trong lòng Mị và từ tư tưởng
“nổi loạn” đến hành động “nổi loạn” chỉ có một li. Mị đã rón rén bước lại gần A Phủ. Nàng rút
con dao nhỏ cắt lúa cắt nút dây mây trói A Phủ. Mị thì thào: “Đi ngay…!”. Mị cắt sợi dây trói A
Phủ cũng chính là nàng đã cắt sợi dây vô hình trói nàng vào gia đình thống lí Pá Tra. Nàng đã
chạy theo A Phủ, A Phủ nói: “Đi với tôi” và hai người lẳng lặng đỡ nhau chạy xuống dốc núi.
Hình ảnh đó nói lên sự can đảm liều lĩnh của Mị. Hành động táo bạo này có ý nghĩa quyết định
trong cuộc đời Mị. Mị và A Phủ đã nương tựa vào nhau và thành vợ chồng A Phủ để xây dựng
cuộc đời mới. Hành động giải thoát của Mị có xen lẫn ý thức tự phát và tự giác. Có lẽ ý thức tự
phát mạnh hơn. Đó chính là kết quả biểu lộ tất yếu của một sức sống vốn đã tiềm tàng, tiềm ẩn
của Mị trước đó. Hành động giải phóng và tự giải phóng này của Mị có nguồn gốc từ cái buồn
rười rượi, từ cái cách uống ừng ực từng bát rượu và ngay cả ý định muốn tự sát của Mị.

Nguồn gốc sâu xa của hành vi đó là ở tấm lòng giàu tình cảm, giàu lòng thương người của Mị,
còn nguyên do trực tiếp là tiếng sáo của những đêm tình mùa xuân đã thức dậy trong tâm hồn
nàng lòng yêu đời, niềm tha thiết với cuộc sống tự do.
-Có thể nói sức sống tiềm tàng của Mị là sức hấp dẫn của nhân vật này trong thời gian Mị ở Hồng
Ngài. Tô Hoài đã đặt Mị trong mối xung đột xã hội gay gắt, những thế lực tàn bạo của xã hội
phong kiến thống trị cũa người H-mông đã chà đạp lên số phận của nàng, tưởng như nàng không
Ngô Đức Đồng-Trường THPT Bắc Yên Thành, Nghệ An
còn con đường nào thoát khỏi sự huỷ diệt. Vậy mà chính sức sống tiềm ẩn của nàng đã tự cứu
nàng. Tô Hoài đã miêu tả một cách xuất sắc sự vận động nội tâm của nhân vật và dẫn đến hành
động phản kháng tháo cũi phá lồng giải thoát. Chính sức sống mãnh liệt của Mị khi gặp ánh sáng
cách mạng thì như hạt giống tốt gieo lên mảnh đất phù sa. Mị đã trở thành nhân tố tích cực trong
đội du kích Phiềng Sa của A Phủ sau này cũng là điều dễ hiểu.
Câu 26: Ý nghĩa nhan đề tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân
-Nhan đề Vợ nhặt có sức khêu gợi sự chú ý của người đọc.Vợ nhặt là vợ theo không, không cưới
xin, lễ nghĩa gì cả. Đây là nhan đề ít nhiều hàm chứa chất hài hước nhưng ngẫm kỹ lại nói lên
những điều thật sâu xa về thân phận bọt bèo, rẻ rúng của con người.
- Nó có ý nghĩa tố cáo xã hội đã gây ra nạn đói hủy diệt con người. Mặt khác, nhan đề ấy cũng
nói lên rằng, trong hoàn cảnh khắc nghiệt của cuộc sống, trên ranh giới mong manh giữa sự sống
và cái chết, con người vẫn hướng về sự sống, về hạnh phúc, tương lai. Tình yêu thương, khát
vọng hạnh phúc vẫn mạnh hơn cái chết.
Câu 27: Hoàn ảnh xã hội đã tác động đến số phận những người nông dân như thế nào :
-Truyện được đặt trong bối cảnh là vào nạn đói ở miền Bắc năm một chín bốn năm, một nạn đói
thảm khốc được hiện lên qua hàng loạt hình ảnh, đó là những đứa trẻ vốn chỉ biết vui chơi, nô
đùa nay ngồi ũ rũ nơi xó tường. Người lớn vốn khỏe mạnh nhanh nhẹn nay da dẻ xanh xám với
những bước đi dật dờ như những bóng ma. Nơi nơi người chết như ngả rạ nằm ngổn ngang giữa
lều chợ không kịp chôn. Cái đói, cái khắc nghiệt đã thấm vào cả cảnh vật , đó là con đường khẳng
khiu bé nhỏ, những ngôi nhà lúp xúp xiêu vẹo , rồi màu đen của màn đêm tăm tối, màu xanh xám
của của xác người chết và da người sống .Chốc chốc trong không khí lại vang lên những tiếng
khóc hờ người chết , tiếng luc quạ kêu thế thiết và cả mùi ẩm thối của rác rưởi , mùi gây của xác
người. Khung cảnh đó đã tái hiện chân thực một bức tranh ảm đạm thê lương của xóm ngụ cư

trong nạn đói
-Không chỉ dừng lại ở đó, nạn đói kia còn có thể khiến người con gái trong truyện vỗn dĩ hiền
hậu, rón rén, e thẹn trở nên ăn nói chua ngoa, chỏng lỏng , liều lĩnh. Quả thật trong nạn đói đó,
không ai tin là mình có thể sống sót qua được cả. Giữa lúc đó, Tràng lại nhận cô gái kia làm vợ ,
cưu mang cô rồi đưa cô về nhà. Người ta thường nói cái đói làm con người ta mất giá , một cô
gái phải theo không một người đàn ông không quen biết chỉ vì bốn cái bánh đúc. Nhưng đó chỉ là
bề ngoài, với tấm lòng nhân hậu, nhà văn nhìn thấy khát vọng được sống tha thiết của cô gái, và
ông cũng cảm thông niềm khát khao được có vợ của Tràng
Câu 28: Giá trị nhân đạo của tác phẩm “Vợ nhặt” Kim Lân
-“Vợ nhặt” đã thể hiện lòng yêu thương , đùm bọc lẫn nhau của những người nghèo đói , giúp họ
vượt qua cơn hoạn nạn khốn cùng . Với tình huống truyện đặc sắc , giọng văn mộc mạc giản dị ,
giàu sức gợi cảm . Qua tác phẩm “Vợ nhặt” , nhà văn Kim Lân đã bộc lộ được giá trị nhân đạo
của tác phẩm và nêu bật được bản chất của cuộc sống: Sự sống sẽ chiến thắng cái chết, cái tàn
bạo . Trong cái chết sự sống vẫn này mầm , trong nghèo đói hạnh phúc vẫn vươn lên , trong bế
tắc tương lai vẫn mở hướng .
-Biểu hiện chính :
*Tác phẩm bộc lộ niềm xót xa thương cảm đối với cuộc sống bi đát của người dân nghèo trong
nạn đói, qua đó tố cáo tội ác tày trời của bọn thực dân phát xít đối với nhân dân ta
*Tác phẩm đi sâu khám phá và nâng niu trân trọng khát vọng hạnh phúc, khát vọng sống của
con người
Ngô Đức Đồng-Trường THPT Bắc Yên Thành, Nghệ An
- Những khao khát hạnh phúc của Tràng.
- Ý thức bám lấy sự sống mãnh liệt ở nhân vật Thị
-Ý thức vun đắp cuộc sống ở các nhân vật
- Niềm hy vọng về cuộc đổi đời của các nhân vật
*Tác phẩm thể hiện lòng tin sâu sắc vào phẩm giá, vào lòng nhân hậu của con người
-Cái đẹp tiềm ẩn của Tràng: sự thông cảm, lòng thương người, sự hào phóng, chu đáo
-Sự biến đổi của người vợ nhặt sau khi theo Tràng về nhà : vẻ chao chát chong lỏn biến mất, thay
van đó là sự hiền hậu, đúng mực mau mắn trong làm việc, ý tứ trong cư xử…
-Tấm lòng nhân hậu của bà cụ Tứ: thương con rất mực, cảm thông với tình cảnh của nàng dâu,

trăn trở về bổn phận làm mẹ, có tạo niềm vui trong gia đình giữa cảnh sống thê thảm…
Câu 29 : Ý nghĩa nhan đề tác phẩm “Rừng xà nu”
- Ý nghĩa tả thực: chỉ cả một rừng xà nu ở Tây Nguyên với các cây lớn nhỏ, bị thương rồi sau đó
quanh đó vô số những cây con đang mọc lên. Có những cây mới nhú khỏi mặt đất, nhọn hoắt như
những mũi lê.
- Ý nghĩa tượng trưng:
+ Rừng xà nu là hình ảnh gắn bó máu thịt giữa tác giả và những kỷ niệm sâu sắc trong cuộc đời
chiến đấu và viết văn tại chiến trường Tây Nguyên
+ Rừng xà nu còn là một biểu tượng cho con người Tây Nguyên anh hùng, mà cụ thể trong tác
phẩm là nhân dân làng Xô Man với những con người ưu tú: cụ Mết, Tnú, Dít
+ Bức tranh thiên nhiên rừng xà nu thật hùng vĩ với sức sống mãnh liệt, sinh sôi nảy nở không
ngừng, bất chấp đại bác tàn phá mỗi ngày. Qua bức tranh thiên nhiên, tác giả muốn khẳng định
con người Tây Nguyên vượt qua đau thương, quật khởi theo Đảng làm cách mạng
+ Nhan đề Rừng xà nu còn gợi lên chủ đề tác phẩm cũng như cảm hứng sử thị, bi tráng của thiên
truyện ngắn đặc sắc này.
Câu 30:Phân tích hình tượng “Rừng xà nu”- Nguyên Ngọc:
A.Giới thiệu chung
-Nguyễn Trung Thành là một nhà văn quân đội gắn bó với Tây Nguyên suốt hai cuộc kháng
chiến, có nhiều tác phẩm thành công về mảnh đất và con người nơi đây.
-Truyện ngắn Rừng xà nu ra đời năm 1965, khi đế quốc Mỹ bắt đầu đổ quân ào ạt vào miền Nam,
là câu chuyện về cuộc nổi dậy của dân làng Xô man.
-Một trong những thành công nổi bật của tác phẩm là xây dựng hình tượng nghệ thuật độc đáo:
hình tượng cây xà nu
B.Phân tích hình tượng cây xà nu
1. Cây xà nu được miêu tả cụ thể, gắn bó với con người Tây Nguyên
- Cây xà nu hiện lên trong tác phẩm trước hết như một loài cây đặc thù, tiêu biểu của miền đất
Tây Nguyên. Mở đầu và kết thúc tác phẩm cũng bằng hình ảnh của cây xà nu  Cây xà nu, rừng
xà nu như chính dân làng Xôman, như người dân Tây Nguyên trên núi rừng trùng điệp
- Cây xà nu gắn bó thân thiết với cuộc sống người dân Tây Nguyên trong sinh hoạt hàng ngày,
trong đấu tranh chống giặc, thấm vào nếp nghĩ và cảm xúc. Là lá chắn để bảo vệ làng Xô man

trước đạn pháo giặc.
2. Cây xà nu tượng trưng cho phẩm chất và số phận con người Tây Nguyên trong kháng
chiến chống Mỹ. - Thương tích mà rừng xà nu phải gánh chịu do đại bác của kẻ thù gợi nghĩ đến
những mất mát đau thương mà đồng bào ta đã phải trải qua trong thời kì cách mạng miền Nam bị
Ngô Đức Đồng-Trường THPT Bắc Yên Thành, Nghệ An
khủng bố khốc liệt. - Trong bom đạn chiến tranh, thương tích đầy mình cây xà nu vẫn hiên ngang
vươn lên mạnh mẽ như người dânTây Nguyên kiên cường bất khuất, không khuất phục trước kẻ
thù.
- Cây xà nu rắn rỏi, ham ánh nắng mặt trời tựa như người Xô man chân thật, mộc mạc, phóng
khoáng yêu cuộc sống tự do.
- Cây xà nu - rừng xà nu tầng tầng lớp lớp, kế tiếp nhau lớn lên trong bom đạn với một sức sống
mãnh liệt không gì ngăn cản nổi gợi nghĩ đến sự tiếp nối của nhiều thế hệ người Tây Nguyên
đứng lên đấu tranh giữ gìn xứ sở và truyền thống cha ông.
- Rừng xà nu tạo thành một bức tường vững chắc hiên ngang truớc bom đạn cũng là biểu trưng
cho sức mạnh đoàn kết của người dân Tây Nguyên khiến kẻ thù phải kiếp sợ.
C. Kết luận : Hình tượng cây xà nu là một sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Trung Thành, tiêu
biểu cho vẻ đẹp hào hùng, đầy sức sống của thiên nhiên và con người Tây Nguyên. Với hình
tượng này tác giả đã tạo nên chất sử thi, vẻ đẹp lãng mạn của tác phẩm.
Câu 31: Phân tích hình tượng nhân vật Tnú- Trong Rừng Xà nu của Nguyên Ngọc:
-Trước khi cầm vũ khí, ngày từ khi còn nhỏ Tnú đã là cậu bé gan góc, dũng cảm biểu lộ một tính
cách táo bạo mạnh mẽ.Tnú thay người già làm liên lạc, nuôi giấu cán bộ, nhanh nhẹn luồn rừng
đưa thư, vượt qua suối lũ một cách dũng cảm.Cậu thật sáng dạ khi biết rằng bọn Mĩ nguỵ ít khi
phục kích ở chỗ nước chảy xiết. Nguời đọc cảm thấy một cái gì thật đáng yêu ở sự quan tâm học
chữ không chịu thua kém ai của Tnú.Cậu bé này dám “cầm đá tự đập vào đầu máu chảy ròng
ròng khi học cái chữ không thuộc” bằng Mai.Và đặc biệt sự gan dạ dũng cảm của Tnú khi bị giặc
bắt, chú bé nhỏ tuổi này đã chỉ vào bụng mình và nói: “Cộng sản ở đây này”.Mặc cho những vết
dao chém dọc ngang trên tấm lưng bé nhỏ, Tnú vẫn không khai báo, vẫn gan dạ kiên
cường.Trước những trận đòn roi tra tấn dã man của kẻ thù, Tnú thật may mắn khi được học cái
chữ và được giác ngộ cách mạng từ rất sớm. Đây là nét hơn hẳn mà nhân vật A Phủ trong “ Vợ
chồng A Phủ” của Tô Hoài chưa có.

-Khi thoát ngục Kon tum trở về, Tnú đã là một chàng trai cường tráng, hiểu biết được tôi luyện
qua nhiều thử thách.Giờ đây Tnú giống như một cây xà nu trưởng thành, vạm vỡ, căng đầy nhựa
sống và ham ánh sáng.Theo lời dạy của anh Quyết ngày nào, Tnú thay anh làm cán bộ và một lần
nữa anh đã đi ba ngày đường lên núi Ngọc Linh nhưng không phải là lấy đá để làm phấn mà là để
mài giáo mác chuẩn bị cho cuộc nổi dậy.
-Không chỉ nhìn thấy rõ con đường để đi theo cách mạng, Tnú còn có một cuộc sống hạnh phúc
với tình yêu của Mai, với đứa con mới chào đời.Nhưng quãng thời gian hạnh phúc ấy thật ngắn
ngủi, giặc đã cầm súng kéo về, buôn làng còn chưa kịp cầm vũ khí. Tnú và thanh niên trong làng
phải trốn vào rừng để rồi một mình Tnú lại xông ra mong che chở cho mẹ con Mai trước đòn roi
của kẻ thù, nhưng cả hai đều không sống được.Cảnh tượng về cái chết đau thương trong đêm ấy
cứ trở đi trở lại trong lời kể của già làng và dòng hồi ức đau đớn của anh.Không những không
cứu được vợ con, Tnú còn bị kẻ thù đốt cháy mười đầu ngón tay “Mỗi ngón chỉ còn hai
đốt….không mọc lại được”.Nỗi đau thương này là minh chứng hùng hồn cho câu nói vừa giản dị
vừa sâu sắc của cụ Mết: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”.
- Đặc biệt là hình ảnh của Tnú sau khi cầm vũ khí chiến đấu thật đẹp và lớn lao biết bao.Hình ảnh
Tnú hiện lên như những anh hùnh thời nào trong các khan, trong các trường ca Tây Nguyên.Khi
đốt cháy hai bàn tay của Tnú, kẻ thù muốn dập tắt ý chí phản kháng, muốn tiêu diệt khát vọng
chiến đấu của người dân Xô Man.Chúng muốn người dân nơi đây mãi mãi xuôi tay trong kiếp nô
Ngô Đức Đồng-Trường THPT Bắc Yên Thành, Nghệ An
lệ thấp hèn dưới nòng súng tàn bạo của chúng.Nhưng Tnú và người dân làng Xô Man không cam
chịu khuất phục, mà ngược lại họ đã phản kháng quyết liệt.Họ đã biết vượt lên đau thương để
vùng lên cầm vũ khí tự giải phóng mình .Lửa đã thiêu cháy mười đầu ngón tay Tnú, lửa bùng
cháy trên mười đầu ngón tay tẩm dầu xà nu.Nhưng Tnú không thấy đau đớn, anh chỉ thấy lửa
cháy ở trong lòng- ngọn lửa chiến đấu sẽ thiêu cháy kẻ thù.Và một tiếng hét căm hờn, phẫn uất đã
vang vọng khắp núi rừng Xô man, tiếng hét ấy như khơi dậy cao độ lòng căm thù giặc của cả
buôn làng.Xác mười tên giặc đã chết nằm ngổn ngang trên mặt đất. Đêm ấy lửa cháy suốt trong
bếp lửa nhà ưng.Nhà văn Nguyễn Trung Thành đã miêu tả cái đêm nổi dậy ấy thật hào hùng, sôi
động : “Tiếng chiêng nổi lên, đứng trên đồi xà nu gần con nước lớn suốt đêm nghe cả rừng
Xôman âo ào rung động và lửa cháy khắp rừng”.Cái đêm nổi dậy ấy đâu chỉ là của dân làng
Xôman mà là sự lớn dậy phi thường của cả một cộng đồng, dân tộc.Dường như trong đêm ấy

đang sống lại cái không khí linh thiêng hào hùng của những thiên sử thi Tây Nguyên”.
-Một điều không thể thiếu khi nhắc tới cuộc đời của Tnú đó chính là hình ảnh hai bàn tay của
anh. Đôi bàn tay bị đốt cháy của Tnú đã nhóm lên ngọn lửa căm thù giặc sâu sắ của dân làng
Xôman, nó còn soi sáng cuộc đời anh.Anh đã thay mặt người dân làng Xôman lên đường theo
kháng chiến đi tìm những thằng Dục khác.Bởi lẽ không phải ngẫu nhiên tác giả lại để cho Tnú kể
với dân làng mình sự đối đầu của anh với kẻ thù sau này: “Tôi nói: này tao có súng đây, tao có cả
dao găm đây nhưng tao không giết mày súng, tao không đâm mày bằng dao nghe chưa Dục.Tao
giết mày bằng mười ngón tay cụt này thôi, tao bóp cổ mày thôi”.Nhà văn đã cố tình tô đậm hình
ảnh đôi bàn tay Tnú- đôi bàn tay có cả một lịch sử, một số phận.
-Lúc còn nhỏ, đôi bàn tay ấy kiên trì học từng nét chữ của anh Quyết, cần cù làm nương phát
rẫy. Đôi bàn tay dám lấy đá đập vào đầu mình vì học cái chứ không thuộc.Và đôi bàn tay ấy dám
chỉ vào bụng mình mà nói với quân giặc “Cộng sản ở đây này” khẳng định lòng trung thành với
cách mạng.Lớn lên đôi bàn tay xúc động nắm lấy bàn tay người con gái anh yêu thương và cũng
đôi bàn tay ấy xé tấm dồ làm địu cho đứa con thơ dại, bàn tay bíu chặt gốc cây vả khi chứng kiến
vợ con bị giặc đáng đập bằng roi sắt, hai cánh tay rộng lớn ôm choàng lấy vợ con che chở, yêu
thương…Lửa đốt cháy mười đầu ngón tay để rồi mãi mãi chỉ còn hai đốt không bao giờ mọc lại
được… cho nên Tnú muốn dung đôi bàn tay ấy để giết chết kẻ thù.Bao uất hận căm hờn đã dồn
lên đôi bàn tay kia, nó đã trở thành biểu tượng cho ý chí bất khuất , cho sức sống mãnh liệt của
Tnú và người dân làng Xôman.Kẻ thù tàn ác có thể đốt cháy đôi bàn tay nhưng không thể tiêu
diệt được sức mạnh phi thường, tiềm ẩn trong con người họ. Đó là ý chí chiến đấu và khát vọng
chiến thắng. Đó là một dân tộc kiên cường dũng cảm như những khu rừng xà nu hàng vạn cây
không có cây nào bị thương mà vẫn xanh tươi bát ngát trải xa tít tắp tận chân trời.
-Xây dựng thành công nhân vật Tnú, nhà văn đã khắc hoạ được hình ảnh tiêu biểu của con
người mang đậm dòng máu, tính cách của núi rừng Tây Nguyên.Và qua hình tượng Tnú, Nguyễn
Trung Thành còn gợi ra được số phận và phẩm chất của cả cộng đồng trong cuộc chiến đấu bảo
vệ buôn làng thân yêu. Đó là tình cảm gắn bó thiết tha sâu nặng với quê hương đất nước, với núi
rừng Tây Nguyên, căm thù giặc sâu sắc, một lòng một dạ đi theo cách mạng, không ngại khó
khăn, gian khổ, hi sinh, tin tưởng tuyệt đối vào sự thắng lợi của cách mạng.Có thể nói qua thiên
truyện ngắn xuất sắc này của Nguyễn Trung Thành, người đọc càng thêm hiểu và thêm trân trọng
con người Tây Nguyên với biết bao phẩm chất thật đẹp, thật cao quý. Họ cũng chính là hình ảnh

đẹp đẽ, tiêu biểu cho con người Việt Nam thời chống Mĩ.
Câu 32 : Tính sử thi của tác phẩm Rừng xà nu (Nguyễn Trung Thành)
Ngô Đức Đồng-Trường THPT Bắc Yên Thành, Nghệ An
-Để dẫn ra một tác phẩm tiêu biểu có thể minh hoạ cho sự tồn tại của "nền văn học sử thi" trong
văn học Việt Nam 1945 - 1975, tưởng không có tác phẩm nào tiêu biểu hơn Rừng xà nu của
Nguyễn Trung Thành. Quả đây là một truyện ngắn mang đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn
(thực ra, với các tác phẩm thuộc loại này, chỉ nói đến tính sử thi là đủ, bởi cảm hứng lãng mạn đã
trở thành một phần tất yếu của nó).
-Tính sử thi của Rừng xà nu được biểu lộ trước hết ở những sự kiện có tính chất toàn dân được
nhắc tới. Những chuyện xảy ra với làng Xô man hoàn toàn không có ý nghĩa cá biệt. Chúng là
chuyện chung của cả Tây Nguyên, cả miền Nam, cả nước trong những ngày chiến đấu chống đế
quốc Mĩ. Tính thế bị o ép của làng Xô Man trước ngày đồng khởi là bức tranh sinh động về cuộc
sống đau thương của đồng bào miền Nam trong những ngày Mĩ - Diệm thi hành luật 10-59,
khủng bố dữ dội những người yêu nước, những người kháng chiến cũ. Khi làng Xô Man đứng
dậy thì gương mặt của làng lúc này lại chính là gương mặt của cả nước trong những ngày quyết
tâm đánh Mĩ và thắng Mĩ - một gương mặt rạng rỡ, tự tin, điềm tĩnh đón nhận những thử thách
mới.
-Biểu hiện thứ hai của tính sử thi trong Rừng xà nu là truyện ngắn đã xây dựng thành công hình
tượng một tập thể anh hùng. Những anh hùng được kể tới trong đó đều có tính đại diện cao,
mang trong mình hình ảnh của cả một dân tộc. Tập thể anh hùng trong Rừng xà nu là tập thể đa
dạng về lứa tuổi và giới tính. Mỗi gương mặt anh hùng đều có những nét riêng, thể hiện một số
phận riêng trong cuộc đời chung. Tất cả họ đều giống nhau ở những phẩm chất cơ bản : gan dạ,
trung thực, một lòng một dạ đi theo cách mạng. Chiến công của mỗi người tuy đa dạng mà thống
nhất. Cuốn sử vẻ vang của làng Xô Man, của Tây Nguyên không phải do riêng một người mà do
tất cả mọi người viết ra. Bản trường ca của núi rừng không chỉ trỗi lên một giọng mà là sự tổng
hoà của nhiều giọng. Anh Quyết, cụ Mết, anh Tnú, chị Mai, cô Dít, bé Heng là những nhân vật
tiêu biểu, nhưng bên cạnh họ, đằng sau họ còn có bao người khác nữa cũng không chịu sống mờ
nhạt, vô danh. Tất cả họ đều thi đua lập công, đều muốn góp phần mình vào sự nghiệp vĩ đại của
dân tộc. Dĩ nhiên, hình tượng văn học nào cũng là sự thống nhất giữa cái cá biệt và cái phổ quát,
nhưng ở Rừng xà nu, cảm hứng hướng về cái chung đã mang tính chất chi phối.

-Biểu hiện thứ ba của tính sử thi ở truyện ngắn Rừng xà nu là nó đã miêu tả các sự kiện, các nhân
vật anh hùng từ một cái nhìn chiêm ngưỡng, khâm phục. Các chi tiết đời thường ít được nhắc tới.
Nhà văn chỉ tâm đắc với những chi tiết nào có khả năng làm phát lộ được phẩm chất anh hùng
của nhân vật. Tả cụ Mết, nhà văn chú ý tới giọng nói "ồ ồ dội vang trong lồng ngực" của cụ.
Tưởng như trong tiếng cụ nói có âm vang của tiếng cồng, tiếng chiêng, tiếng của núi rừng, của
lịch sử. Và quả thật, cụ là hình ảnh tượng trưng của truyền thống vững bền. Mỗi lời cụ thốt ra kết
tinh trải nghiệm của cả một dân tộc. Nó cô đúc, sâu sắc, vang vọng như những chân lí. Chả thế
mà cả làng Xô Man nghe như uống từng lời cụ nói và cả rừng xà nu cũng "ào ào rung động" như
một sự hoà điệu, một sự tạo nền. Ngay cuộc đời của Tnú, một cuộc đời trải ra trong chính thời
hiện tại cũng đã được lịch sử hoá và nhuốm màu huyền thoại. Đêm đêm bên bếp lửa nhà ưng, cụ
Mết đã kể chuyện anh cho lũ làng, cho thế hệ con cháu nghe. Anh đã trở thành niềm tự hào của
làng, là một biểu tượng sống động của người anh hùng được tất cả ngưỡng vọng, học tập.
-Tính sử thi của Rừng xà nu còn thể hiện ở giọng văn tha thiết, trang trọng mà tác giả đã sử dụng
khi kể về sự tích của làng Xô Man. Giọng văn ấy cũng thấm đượm trong việc miêu tả thiên nhiên,
khiến cho hình ảnh rừng xà nu bỗng thổi tới trong lòng người đọc một cảm giác say sưa. Ta bị
cuốn theo câu chuyện không gì cưỡng nổi, tưởng mình đang được tắm trên một dòng sông mênh
Ngô Đức Đồng-Trường THPT Bắc Yên Thành, Nghệ An
mang, tràn trề sinh lực, hoặc tưởng mình đang bị thôi miên bởi một bản nhạc giao hưởng hùng
tráng.
Câu 33 : Nội dung chính tác phẩm : “những đứa con trong gia đình” của Nguyễn Thi
-Truyện viết về những đứa con của một gia đình có truyền thống yêu nước ,CM, là h/ả thu nhỏ
của cả miền Nam đau thương, anh dũng trong thời chống Mĩ , gánh chịu tang tóc do ĐQ Mĩ gây
ra, đồng thời cũng lập được chiến tích lẫy lừng .
- Là H/ả thu nhỏ của cả dân tộc VN ,muôn người là một , đoàn kết chiến đấu giải phóng quê
hương ,xây dựng đất nước
-Qua nhân vật Việt và Chiến nổi bật lên tình yêu đối với quê hương ,đất nước . Thù nhà , nợ nước
là động lực tinh thần
Câu 34 : Nhân vật Việt gợi cho em những suy nghĩ gì về hình ảnh người lính trong kháng
chiến chống Mĩ :
-Xuyên suốt mạch truyện là dòng hồi ức của Việt, nhân vật trung tâm của tác phẩm. Người chiến

sĩ ấy vốn là đứa trẻ gan dạ từng chứng kiến cảnh kẻ thù quăng đầu cha mà xông tới nhằm thằng
liệng đầu mà đá. Được dìu dắt từ ấu thơ, Việt cũng đã biết làm cảnh giới, chiếc ná cao su thành
vật báo hiệu khi có động. Bản tính hồn nhiên của một cậu bé mới lớn thể hiện ra ở sự hiếu thắng,
lúc nào cũng giành phần hơn, nhưng từ sâu thẳm là tình cảm yêu thương những người ruột thịt, tự
hào với truyền thống quê hương. Những lần ngất đi tỉnh lại của Việt giữa bãi chiến trường ngổn
ngang xác giặc đã giúp anh có thêm sức mạnh tình thương vượt lên cái chết để trở về đội ngũ.
Nguyễn Thi đã thành công khi không miêu tả vào những chiến công của anh chiến sĩ mà đã chỉ ra
cho người đọc vẻ đẹp nhân văn trong tâm hồn người cầm súng. Vẻ đẹp ấy là hội tụ của ý chí,
quyết tâm và trên hết là tình thương yêu sự gắn gó với người thân và sau này là tình cảm chan
hoà thân ái giữa cậu Tư với đồng chí đồng đội như trong một nhà.
Câu 35: “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu thể hiện phong cách tự sự triết lý
về cuộc đời như thế nào:
-Chiếc - thuyền - ngoài - xa mang lại vẻ đẹp hoàn mỹ cho một tấm ảnh, còn chiếc - thuyền - khi -
đến - gần lại làm vỡ ra một hiện thực nghiệt ngã đến xót xa của số phận con người. Vậy nên, có
thể nói hình tượng "Chiếc thuyền ngoài xa" đích thực là một ẩn dụ nghệ thuật hoàn toàn có dụng
ý của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Giải mã hình tượng ản dụ đó, người đọc sẽ nhận ra một thông
điệp mà nhà văn truyền đi, rằng : “cuộc đời vốn dĩ là nơi sản sinh ra cái đẹp của nghệ thuật
nhưng không phải bao giờ cuộc đời cũng là nghệ thật, và rằng con người ta cần có một khoảng
cách để chiêm ngưỡng vẻ đẹp của nghệ thuật nhưng nếu muốn khám phá những bí ẩn bên trong
thân phận con người và cuộc đời thì phải tiếp cận với cuộc đời, đi vào bên trong cuộc đời và sống
cùng cuộc đời”. (Lê Ngọc Chương- Chiếc thuyền ngoài xa, một ẩn dụ nghệ thuật của Nguyễn
Minh Châu) Cuộc sống vốn vậy, vẫn đẹp tươi, vẫn êm ả, nhưng nếu không có tấm lòng để nhận
ra những uẩn khúc số phận thì những vẻ đẹp như màu hồng hồng của ánh sương mai kia cũng trở
nên vô nghĩa, người nghệ sĩ phải nhận ra sự thật ẩn khuất sau màn sương huyền ảo kia, phải tiếp
cận sự thật để nhận ra ý nghĩa đích thực của cuộc sống và con người.
Câu 36 : Hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa được cảm nhận qua con mắt người nghệ sĩ như thế
nào:
-Hình ảnh "Chiếc thuyền ngoài xa" được nhà văn khắc hoạ rất ấn tượng: Mũi thuyền in một nét
mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời
chiếu vào. Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum

Ngô Đức Đồng-Trường THPT Bắc Yên Thành, Nghệ An
khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới
nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi, toàn bộ khung
cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích khiến
đứng trước nó tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào? Chẳng biết ai đó lần
đầu đã phát hiện ra bản thân cái đẹp chính là đạo đức? Trong giây phút bối rối, tôi tưởng chính
mình vừa khám phá thấy cái chân lý của sự toàn thiện, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong gần
tâm hồn.
Câu 37 : Sự thay đổi cách nhìn người nghệ sĩ khi chứng kiến nghịch cảch:
-Sau khoảnh khắc trời cho ấy, Phùng rơi vào một khoảnh khắc, một tình huống “hiện thực cuộc
sống” ban cho.Người đàn ông xuất hiện cùng với người đàn bà trong khung cảnh nên thơ đã
nhanh chóng phá vỡ đi cảm giác thăng hoa nghệ thuật bằng trận đòn dây lưng quật thẳng tay vào
người vợ không thương xót. Có lẽ khó ai hình dung cảnh tượng ấy lại diễn ra trong bối cảnh cuộc
sống mới, nó hoàn toàn đối lập với điều chúng ta hằng xây dựng cho cuộc sống này “người yêu
người, sống để yêu nhau” (Tố Hữu). Điều bất công diễn ra nhức nhối trước mắt người lính từng
chiến đấu cho sự nghiệp giải phóng đất nước, giải phóng con người đã làm nên một cơn giận
bùng phát. Bản thân anh nghĩ về người đàn ông kia như “gã đàn ông “độc ác và tàn nhẫn nhất
thế gian”, còn người phụ nữ xấu xí mặt rỗ kia đích thị là nạn nhân đáng thương nhất của nạn bạo
hành trong gia đình. Hành động tấn công gã đàn ông khiến cho anh ngộ nhận mình là anh hùng:
“Tôi nện hắn bằng tay không, nhưng cú nào ra cú ấy, không phải bằng bàn tay một anh thợ chụp
ảnh mà bằng bàn tay rắn sắt của một người lính giải phóng đã từng mười năm cầm súng. Tôi đã
chiến đấu trong mấy ngày cuối cùng chiến tranh trên mảnh đất này. Bất luận trong hoàn cảnh
nào tôi cũng không cho phép hắn đánh một người đàn bà, cho dù đó là vợ và tự nguyện rúc vào
trong xó bãi xe tăng kín đáo cho hắn đánh”. Nhưng phản ứng của người đàn bà trước ông chánh
án đã khiến anh choáng váng: “Quí tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt
con bỏ nó ”. Hoá ra, người cần được thông cảm lại là những quan toà cách mạng có lòng tốt
nhưng “các chú đâu có phải là người làm ăn cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của
các người làm ăn lam lũ, khó nhọc”. Người đàn bà khốn khổ ấy đã không chối bỏ người đàn ông
đích thực của mình, dù trong lòng đau đớn khi hàng ngày phải chịu những trận đòn, phải chứng
kiến cảnh hai cha con đối xử với nhau như kẻ thù, phải chấp nhận cuộc sống đương đầu nơi gió

bão.
-Có người đã nhận định: Chiếc thuyền ngoài xa là hình tượng có ý nghĩa biểu tượng, như vẻ đẹp
của một bức tranh toàn bích, nhưng đàng sau hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp là cuộc sống đầy khắc
nghiệt, dữ dội và những số phận con người vật vã trong cuộc mưu sinh. Hoá ra hành trình tìm
kiếm hạnh phúc không hề đơn giản : người đàn ông kia dù cục súc nhưng trên chiếc thuyền phải
có lúc có đàn ông, hạnh phúc đơn giản khi cả nhà quây quần trong bữa ăn trên chiếc thuyền khiến
người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng tất cả. Hành trình của gia đình kỳ lạ kia vẫn tiềm ẩn những
nguy cơ: đứa con yêu mẹ sẵn sàng đánh nhau với bố, thủ dao găm tìm dịp trả thù, những trận đòn
tàn khốc có thể làm cho người đàn bà kia gục ngã bất cứ lúc nào…Thế nhưng trong cuộc sống
nghèo khổ, chật vật và ngày ngày phải nuôi đủ cho mười miệng ăn trên chiếc thuyền ọp ẹp, người
đàn bà ấy là hiện thân của một sự hy sinh vô bờ bến.Tình yêu chồng con được nhìn nhận từ cuộc
đời trăm đắng ngàn cay có vẻ đẹp riêng khiến cho “một cái gì mới vừa vỡ ra trong đầu vị Bao
Công của cái phố huyện vùng biển”. Sự vỡ lẽ ấy chính là sự phá vỡ những quan niệm giản đơn
về tình yêu, hạnh phúc, về lòng nhân ái, sự khoan dung…mang giá trị nhân bản sâu sắc. Những
Ngô Đức Đồng-Trường THPT Bắc Yên Thành, Nghệ An

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×