địa lí địa phơng
Địa lí tỉnh phú thọ
( Từ tiết 47 49 )
Loại Tỉnh
Địa chỉ hiện nay Phú Thọ
Vùng Đông Bắc
Bí th Ngô Đức Vợng
Chủ tịch HĐND Ngô Đức Vợng
Chủ tịch UBND Nguyễn Doãn Khánh
Diện tích 3.528,4 km
2
(2007)
Dân số 1.348.800 ngời (2007)
Mật độ 382 ngời/km
2
(2007)
Dân tộc Kinh, Mờng, Dao, Sán Chay
Mã điện thoại 24
Mã số xe 19
website
I- Vị trí địa lí và tài nguyên thiên nhiên
1- Vị trí địa lí
Phú Thọ có tọa độ địa lý 20O55 - 21O43 vĩ độ Bắc, 104O48 - 105O27 kinh độ Đông,
Bắc giáp Tuyên Quang, Nam giáp Hòa Bình, Đông giáp Vĩnh Phúc và Hà Tây, Tây giáp Sơn
La và Yên Bái. ở vị trí tiếp giáp giữa Đông Bắc, đồng bằng sông Hồng, và Tây Bắc, là trung
tâm tiểu vùng Tây - Đông Bắc. Diện tích chiếm 1,2% diện tích cả nớc và chiếm 5,4% diện
tích vùng miền núi phía Bắc.
Với vị trí ngã ba sông, cửa ngõ phía Tây của thủ đô Hà Nội, cầu nối các tỉnh đồng bằng
Bắc Bộ với các tỉnh miền núi Đông Bắc. Thành phố Việt Trì là thủ phủ của tỉnh, đợc xác
định là trung tâm kinh tế chính trị- kinh tế- xã hội của vùng trung du Bắc Bộ, cách Thủ đô
Hà Nội khoảng 80 km tính theo đờng ô tô và cách các tỉnh xung quanh từ 100km - 300km.
Các hệ thống đờng bộ, đờng sắt, đờng sông từ các tỉnh phía Tây Đông Bắc đều qui tụ về
Phú Thọ rồi mới đi Hà Nội, Hải Phòng và các tỉnh, thành phố khác trong cả nớc, nh: quốc
lộ số 2 chạy từ Hà Nội qua Việt Trì đi Tuyên Quang - Hà Giang sang Vân Nam - Trung
Quốc (đây là tuyến nằm trong hành lang kinh tế Côn Minh - Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng
- Quảng Ninh); quốc lộ 70 xuất phát từ thị trấn Đoan Hùng đi Yên Bái - Lào Cai và cũng
sang Vân Nam - Trung Quốc, tuyến này đang đợc nâng cấp để trở thành con đờng chiến lợc
Hà Nội - Hải Phòng - Côn Minh (Trung Quốc); quốc lộ 32A nối Hà Nội - Trung Hà - Sơn
La, quốc lộ 32B Phú Thọ - Yên Bái với cầu Ngọc Tháp qua sông Hồng tại thị xã Phú Thọ là
một phần của đờng Hồ Chí Minh, nhánh 32C thuộc hữu ngạn sông Hồng đi thành phố Yên
Bái, là những yếu tố thuận lợi để Phú Thọ giao lu kinh tế với bên ngoài.
Tỉnh Phu Thọ
2- Địa hình
Phú Thọ là tỉnh thuộc vùng Đông Bắc, nằm sát với đỉnh của vùng Đồng bằng sông Hồng.
Phía Bắc giáp tỉnh Tuyên Quang và Yên Bái, phía Đông giáp Vĩnh Phúc ,phía Đông Nam
giáp thành phố Hà Nội, phía Tây giáp Sơn la, phía Nam giáp Hoà Bình, Thành phố Việt Trì
là trung tâm tỉnh , cách Hà Nội 80 km và sân bay quốc tế Nội Bài 50 km về phía Tây Bắc.
Phú Thọ nằm ở vị trí tiếp giáp giữa Đồng bằng sông Hồng với Miền núi và trung du phía
Bắc, trong vùng ảnh hởng của tam giác tăng trởng kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng
Ninh. Đây là những điều kiện thuận lợi cho việc thông thơng và phát triển kinh tế của tỉnh.
3- Khí hậu
Phú Thọ nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa. Tuy tỉnh thuộc vùng Đông Bắc nhng do
độ cao không lớn nên ngay trong mùa đông thì khí hậu cũng không lạnh lắm. Nhiệt độ
trung bình hàng năm là 23
0
C. Số giờ nắng trong năm khá cao (1300 - 1400 giờ/ năm). Lợng
ma trung bình khoảng 1500mm/năm, tập trung vào các tháng 5 - 6 - 7- 8 - 9. Độ ẩm trung
bình là 85%. Nhìn chung, chế độ nhiệt và ẩm của Phú Thọ cho phép tỉnh có điều kiện đa
dạng hoá nông nghiệp và tăng hệ số sử dụng đất.
4- Sông ngòi
Có ba sông lớn chảy qua tỉnh Phú Thọ là Sông Thao, Sông Lô, Sông Đà, hay còn gọi là
vùng Tam Giang với tổng chiều dài 200km. Chi lu sông Hồng phía hữu ngạn gồm sông Bứa
từ xứ Mờng qua Đồn Vang đến Tứ Mỹ, sông Ngòi Gianh từ núi Đại Thân chảy về Tăng Xá,
sông Ngòi Lao chạy từ Nghĩa Lộ đến Bằng Dã. Các dòng sông lớn tụ hội ở Việt Trì, tạo nên
"thành phố ngã ba sông" với nhiều thuận lợi để trở thành một thành phố công nghiệp.
Ngoài ra, Phú Thọ còn có một lợng nớc ngầm với chất lợng khá tốt, lu lợng trung bình 40 -
50m
3
/h ở vùng đồi núi.
5- Tài nguyên thiên nhiên
a- Đất
Tổng diện tích tự nhiên của Phú Thọ là 3.519,56 km
2
, đất đai của Phú Thọ đợc chia theo các
nhóm sau: đất feralít đỏ vàng phát triển trên phiến thạch sét, diện tích 116.266,27 ha chiếm
tới 66,79%. Đất thờng có độ cao trên 100m, độ dốc lớn, tầng đất khá dày, thành phần cơ
giới nặng đợc dùng để trồng rừng. Đất đai ở đây có thể trồng cây nguyên liệu phục vụ cho
một số ngành công nghiệp chế biến.
Thành phố Việt Trì, thị xã Phú Thọ và các thị trấn nhỏ ven sông đều nằm trên các bậc thềm
sông. Các đồi ở đây có đất phù sa cổ, phần lớn đợc sử dụng để trồng cây công nghiệp.
Đất cha sử dụng ở Phú Thọ còn chiếm diện tích khá lớn với hơn 40% diện tích tự nhiên.
b- Rừng
Phú Thọ là tỉnh có độ che phủ rừng lớn với diện tích rừng hiện có là 144.256 ha, trong đó
có 69.547 ha rừng tự nhiên, 74.704 ha rừng trồng, cung cấp hàng vạn tấn gỗ cho công
nghiệp chế biến hàng năm. Các loại cây chủ yếu nh bạch đàn, mỡ, keo, bồ đề và một số loài
cây bản địa đang trong giai đoạn phát triển.
Diện tích che phủ rừng của Phú Thọ tăng nhanh trong những năm gần đây. Tuy nhiên, rừng
tự nhiên của Phú Thọ chủ yếu là rừng trung bình và rừng nghèo kiệt, trữ lợng gỗ không cao.
Trong rừng còn có nhiều loài động vật quý hiếm.
c- Khoáng sản
Khoáng sản của Phú Thọ không nhiều và trữ lợng cũng không lớn, chủ yếu còn ở dạng tiềm
ẩn, cha đợc khai thác. Tuy nhiên, một số loại có giá trị kinh tế cao nh đá xây dựng, cao
lanh, fenspat, nớc khoáng, quactit, đá vôi, pirit, tantalcum Đây là một số lợi thế giúp Phú
Thọ phát triển các ngành công nghiệp nh xi măng, đá xây dựng, các loại vật liệu xây dựng.
d-Du lịch
Phú Thọ là tỉnh có tiềm năng du lịch nhân văn rất lớn với các hoạt động văn hoá dân gian,
các lễ hội, di tích. Tuy nhiên, hoạt động du lịch của tỉnh cha khởi sắc, số khách du lịch
ngoại tỉnh và khách nớc ngoài cha nhiều (trừ dịp lễ hội Đền Hùng).
Tỉnh có các di tích nh Khu di tích Đền Hùng , đền Âu Cơ, chùa Xuân Lũng, chùa Phúc
Thánh, Đầm Ao Châu, rừng và hang Xuân Sơn, Giếng Trời,
Khu di tích Đền Hùng nằm cách thành phố Việt Trì khoảng 10km và cách Hà Nội khoảng
95km. Khu di tích này chủ yếu gồm các di tích ở núi Hy Cơng (còn có các tên gọi khác là
Nghĩa Cơng, Hùng Lĩnh, Hùng Sơn) thuộc xã Hy Cơng, huyện Lâm Thao, gắn liền với
truyền thuyết về 18 đời vua Hùng. Khu di tích gồm có Đền Giếng, lăng vua Hùng, Đền Th-
ợng. Hàng năm, lễ hội Đền Hùng vào mồng 10 tháng 3 AL thu hút hàng vạn lợt ngời tới
tham quan và hành hơng về giỗ Tổ.
*- Đặc sản
Thịt chó Việt Trì
Bánh tai Phú Thọ
Bởi Đoan Hùng
Hồng hạc
Trà (Chè)
Cá lăng
*- Hành chính và các đơn vị trực thuộc
Tỉnh lị của tỉnh là thành phố Việt Trì
Các đơn vị hành chính của tỉnh bao gồm , thị xã Phú Thọ và 11 huyện khác là Thành phố
Việt Trì, thị xã Phú thọ và 11 huyện khác là : Tam Nông, Thanh Thuỷ, Cẩm Khê, hạ Hoà,
Phù Ninh, Thanh Ba, Đoan Hùng, Yên Lập, Tân Sơn , Lâm Thao , Thanh Sơn
*- Lịch sử hình thành và phát triển
Phú Thọ là vùng đất tổ cội nguồn của dân tộc Việt Nam. Nơi đây các vua Hùng đã dựng n-
ớc Văn Lang - quốc gia đầu tiên của Việt Nam , thủ đô là Phong Châu
Tỉnh Phú Thọ nguyên là tỉnh Hng Hóa, sau tách dần đất để lập thêm các tỉnh Lào Cai, Lai
Châu, sơn la, Yên Bái
Tỉnh thành lập ngày 8/9/1891, gồm 2 huyện Tam nông, Thanh Thuỷ của tỉnh Hng Hóa cũ,
3 huyện Sơn Vi, Thanh Ba, Phù Ninh của phủ Lâm Thao, tỉnh Sơn Tây.
Ngày 5 tháng 5 năm 1903, tỉnh lỵ tỉnh Hng Hóa chuyển từ làng Hng Hóa lên làng Phú Thọ
để gần đờng xe lửa hơn. Do đó, tỉnh Hng Hóa cũng đổi tên thành tỉnh Phú Thọ. Khi đó tỉnh
Phú Thọ gồm có 2 phủ (Đoan Hùng, Lâm Thao ), 8 huyện (Tam Nông, Thanh Thủy, Sơn Vi,
Thanh Ba, Phù Ninh, Cẩm Khê, Hạ Hòa, Hạc Trì) và 2 châu (Thanh Sơn, Yên Lập).
Cho đến 1945, địa giới tỉnh có một số sự thay đổi. Tháng 3/1968, sáp nhập với Tỉnh Vĩnh
Phúc thành tỉnh Vĩnh Phú, thành phố Việt Trì trở thành tỉnh lỵ của tỉnh Vĩnh phú. Cuối
năm 1996, tách tỉnh Vĩnh Phú, tái lập tỉnh Phú Thọ.
Đây là địa bàn hoạt động chống Pháp cuối thế kỷ XIX - XX của Lãnh Tanh, Đốc Khoát,
Tán Rật, Lãnh Đa, Lãnh Tùng, Đốc Tòng, Đốc Thực
II- Kinh tế
1- Nông nghiệp
Đây là ngành kinh tế trọng yếu của tỉnh. Tỉnh hớng dẫn nông dân phát triển kinh tế nông
nghiệp, nông thôn và đã có nhiều chuyển biến tích cực, khai thác đợc lợi thế của từng vùng,
kinh tế hộ gia đình, kinh tế đồi rừng, kinh tế trang trại. Diện tích, sản lợng nông nghiệp
tăng dần qua các năm. Tuy nhiên, sản xuất nông nghiệp của tỉnh còn nhiều hạn chế. Cơ chế
nông nghiệp chậm thay đổi, ngành nông nghiệp vẫn chiếm tỉ trọng cao so với chăn nuôi.
Việc vận dụng các thiết bị khoa học kĩ thuật vào sản xuất nông nghiệp còn chậm và cha
đồng đều. Tiềm năng đất đai và lao động cha đợc khai thác hết.
Các cây lợng thực chính là lúa, ngô, sắn, khoai lang. Ngoài sản xuất lúa, gạo, tỉnh còn trồng
các cây công nghiệp đặc sản nh chè, cọ, dứa, sơn trong đó cây chè chiếm hơn 90% diện tích
trồng cây công nghiệp lâu năm và là cây kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Sơn là cây công nghiệp
truyền thống của tỉnh.
2- Công nghiệp
Phú Thọ là tỉnh có nhiều điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội thuận lợi để phát triển nhiều
ngành công nghiệp nh chế biến nông, lâm sản, thực phẩm; khai khoáng, hóa chất, phân
bón; sản xuất vật liệu xây dựng và công nghiệp sản xuất hàng may mặc, hàng tiêu dùng. So
với các tỉnh vùng Đông Bắc thì Phú Thọ có nền công nghiệp phát triển tơng đối sớm, từ
những năm 1960. Tỉnh có nhiều nhà máy lớn, nhiều khu công nghiệp tập trung. Các nhà
máy chè đen ở Cẩm Khê, super phốt phát ở Lâm Thao , nhà máy giấy Bãi Bằng. Trong thời
gian tới, tỉnh sẽ phát triển xây dựng các nhà máy chế biến nhiều hơn nữa để phục vụ nhu
cầu xuất khẩu.
3- Dịch vụ
Năm 2000, ngành dịch vụ của tỉnh Phú Thọ chiếm 34% tổng GDP của tỉnh. Nhìn chung, tỉ
trọng của ngành dịch vụ tăng chậm, một số ngành dịch vụ cha đáp ứng đợc nhu cầu phát
triển kinh tế xã hội của tỉnh, nhất là khu vực nông thôn.
Ngành giao thông vận tải gần đây đã có nhiều chuyển biến nh làm mới và nâng cấp một số
tuyến đờng phục vụ nhu cầu giao thơng và đi lại của ngời dân. 100% số xã có đờng ô tô đến
trung tâm. Số phơng tiện vận tải tăng nhanh.
Ngành thông tin liên lạc cũng phát triển với số thuê bao điện thoại ngày càng tăng. Hiện
mật độ máy điện thoại đã đạt hơn 5 máy/ 100 dân.
III- Điều kiện dân c xã hội
1- Dân số
Phú Thọ có dân số trung bình năm 2003 là 1.302,7 triệu ngời, tốc độ tăng dân số tự nhiên,
1,01% và tăng cơ học là 0,1%, với 21 dân tộc trong đó đông nhất là ngời Kinh, ngời Mờng.
Cơ cấu dân số phân theo giới tính năm 2003 là nam (49%), nữ (51%). Mật độ dân số
khoảng 370 ngời/km2, trong đó thành thị (15,1%), nông thôn (84,9%).
Dự báo dân số có nhịp độ tăng bình quân giai đoạn 2006- 2010 là 0,84, giai đoạn 2010-
2020 là 0,66 để đến năm 2020 dân số trung bình đạt 1.479,0 ngàn ngời, trong đó thành thị
(42%), nông thôn (58%).
2- Trình độ học vấn
Trình độ học vấn hiện nay của dân c Phú Thọ vào loại khá so với cả nớc, số ngời cha biết
chữ chỉ chiếm 0,5% so với tổng số dân toàn tỉnh, trong khi cả nớc còn tới 3,5% số ngời cha
biết chữ so với tổng số dân cả nớc. Tỉnh có 1 trờng Đại học, 1 trờng Cao đẳng, 4 trờng
Trung học chuyên nghiệp, 27 trờng, trung tâm và cơ sở dạy nghề, 600 trờng phổ thông và
gần 20 Viện, trung tâm nghiên cứu khoa học của Trung ơng và của tỉnh đóng góp trên địa
bàn. Tổng số học sinh, sinh viên theo học các cấp là đại học, cao đẳng (6.600), trung học
chuyên nghiệp (4.700), học nghề (9.800) và học sinh phổ thông (307.000), bình quân 2.310
học sinh/vạn dân. Số ngời có trình độ Đại học 12. 469 ngời, thạc sỹ 142 ngời, tiến sỹ 43 ng-
ời.
3- Nguồn nhân lực
Tổng nguồn lao động xã hội năm 1997 có khoảng 680 nghìn lao động, chiếm 52,8%, năm
2000 có khoảng 727,5 nghìn lao động, chiếm 57,1%, năm 2002 có khoảng 730 nghìn lao
động, chiếm 56,3% và 2003 có khoảng 750,6 nghìn lao động, chiếm 57,6% dân số toàn
tỉnh. Số lao động đã qua đào tạo năm 2003 đạt 26%, trong đó có 17% là công nhân kỹ
thuật.
Dự báo năm 2005 (???) có khoảng 777 nghìn lao động, năm 2010 có khoảng 845 nghìn lao
động và năm 2020 có khoảng 976 nghìn lao động, trong đó lao động qua đào tạo đạt 60 -
65%
4- Văn hóa
Phú Thọ có nền văn hóa rực rỡ từ lâu đời. Những di chỉ khảo cổ văn hóa ,Sơn Vi, Đồng Đậu
, Làng Cả và nhiều đình, chùa, lăng, tẩm còn lại quanh vùng núi Nghĩa Lĩnh cho thấy đất
Phong Châu là một trung tâm văn hóa của dân tộc. Di tích lịch sử quan trọng là đền quốc
mẫu Âu Cơ, khu di tích Đền Hùng. Đặc biệt, Phú Thọ còn là kinh đô của các vua Hùng, nổi
tiếng cả nớc về di tích đền Hùng và nhiều di chỉ khảo cổ học thời đại Hùng Vơng. Đây là
quê hơng các vua Hùng và nhiều danh nhân nh Quản áo, Hà Chơng, Hà Đặc, Vũ Duệ,
Nguyễn Mẫn Đốc, Nguyễn Hàng, Đề Kiều, Đặng Minh Khiêm, Đinh Công Mộc, Nguyễn
Thuyên, Nguyễn Thiệu Trị, Đỗ Duy Trung.
Phú Thọ là trung tâm của nhiều lễ hội. Các lễ hội chính có Hội đền Hùng, Gia Thanh, Hội
Đào Xá, Hội đền Mẹ Âu Cơ, Hội đình Cả, Hội chọi trâu Phù Ninh, Hội Chu Hóa, Hội mở
cửa rừng, Hội đánh cá, Lễ Cầu tháng Giêng, Hội phết Hiền Quan, Hội Xoan
Bên cạnh đó, đồng bào dân tộc ít ngời cũng có những đặc trng văn hóa riêng của mình nh
ngời Mờng có nhiều truyện thơ, ca dao, tục ngữ, hát sắc bùa, hát ví, hát đúm. Ngời Việt có
hát xoan, hát ghẹo
5- Giao thông
Tổng chiều dài đờng bộ của tỉnh khoảng 4650 km, trong đó có 263 km đờng quốc lộ. Thế
nhng, chất lợng đờng cha cao. Trong tổng số chiều dài đờng bộ thì chỉ có 240 km đờng
nhựa và bê tông, còn lại là các đờng đá, gạch, hay đờng cấp phối, đờng đất (3840 km đờng
đất).
Tuyến đờng sắt Hà Nội Lào Cai chạy dọc theo chiều dài của tỉnh, có ý nghĩa lớn đối với
việc phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Đờng sông có 302km. Tỉnh có 3 sông lớn lSông Hồng, sông Thao, sông Lô, sông Đà giao l-
u rất tiện lợi, trong đó sông Thao có ý nghĩa về mặt giao thông hơn cả.
Khái lợc lịch sử hình thành tỉnh Phú Thọ
Hàng nghìn năm qua, từ khi vua Hùng dựng nớc Văn Lang cho đến ngày nay, địa bàn Phú
Thọ đã trải qua nhiều đổi thay về địa danh và địa giới hành chính.
Thời Hùng Vơng, địa bàn Phú Thọ nằm trong bộ Văn Lang, trung tâm của nớc Văn Lang.
Thời An Dơng Vơng với Nhà nớc Âu Lạc, Phú Thọ nằm trong huyện Mê Linh.
Dới thời Bắc thuộc (từ năm 111 trớc công nguyên đến thế kỷ X), Phú Thọ nằm trong địa bàn
quận Mê Linh, Tân Xơng, Phong Châu.
Thời kỳ phong kiến độc lập, đơn vị hành chính nớc ta có sự thay đổi, chế độ quận, huyện
thời Bắc thuộc đợc thay thế bằng các đạo (lộ, trấn, xứ, tỉnh), dới đạo là các phủ, châu,
huyện. Phú Thọ thuộc lộ Tam Giang. Đầu triều Nguyễn, Phú Thọ nằm trong hai tỉnh Hng
Hoá và Sơn Tây.
Năm Minh Mạng thứ 12 (1831), nhà vua đã tiến hành cải cách hành chính, đổi tất cả các
trấn trong nớc là tỉnh, điều chuyển một số huyện từ tỉnh nọ sang tỉnh kia, chia tách một số
huyện lớn ở phạm vi hai tỉnh Hng Hoá và Sơn Tây, chuyển huyện Tam Nông thuộc tỉnh
Sơn Tây về Hng Hoá; năm 1833, tách huyện Thanh Xuyên phủ Gia Hng của tỉnh Hng Hoá
thành hai huyện Thanh Sơn và Thanh Thuỷ.
Sau khi đánh chiếm Bắc Kỳ, hoàn thành việc xâm lợc toàn bộ Việt Nam, thực dân Pháp thi
hành chính sách chia để trị, lập ra các tỉnh mới địa bàn nhỏ hơn trớc để dễ dàng và chủ
động đàn áp các phong trào kháng chiến của nhân dân ta. Chúng còn lập ra các quân khu,
đạo quan binh, các tiểu quân khu. Một số huyện của tỉnh Sơn Tây và Hng Hoá nằm trong
tiểu quân khu Yên Bái.
Đối với tỉnh Hng Hoá, sau khi cắt đi 16 châu, 4 phủ và hai huyện Trấn Yên, Văn Chấn để
thành lập các tỉnh mới Lào Cai, Yên Bái, Sơn La, Lai Châu, chính quyền thực dân điều
chỉnh một số huyện của tỉnh Sơn Tây sang, cộng với một số huyện còn lại để thành lập tỉnh
Hng Hoá mới.
Địa phận tỉnh Hng Hoá đợc thành lập theo Điều I của Nghị định toàn quyền Đông Dơng
ngày 8 tháng 9 năm 1891 (là tiền thân của tỉnh Phú Thọ sau này) gồm có:
1. Các huyện Tam Nông, Thanh Thuỷ, huyện Thanh Thuỷ bỏ tổng Cự Thắng nhng tăng
thêm tổng Tinh Nhuệ của huyện Thanh Sơn.
2. Các huyện Sơn Vi, Thanh Ba và Phù Ninh của phủ Lâm Thao tỉnh Sơn Tây.
Nh vậy tỉnh Hng Hoá mới thành lập có 5 huyện.
Ngày 9 tháng 12 năm 1892 toàn quyền Đông Dơng ra Nghị định chuyển huyện Cẩm Khê
nằm trong địa bàn tiểu quân khu Yên Bái về tỉnh Hng Hoá.
Ngày 5 tháng 6 năm 1893 huyện Hạ Hoà tách khỏi tiểu quân khu Yên Bái nhập vào tỉnh H-
ng Hoá.
Tiếp đó ngày 17 tháng 7 năm 1895, hai châu Thanh Sơn và Yên Lập thuộc khu quân sự Đồn
Vàng chuyển về tỉnh Hng Hoá. Ngày 24 tháng 8 năm 1895 hai huyện Hùng Quan và Ngọc
Quan của phủ Đoan Hùng thuộc tiểu quân khu Tuyên Quang thuộc đạo quan binh 3 Yên
Bái nhập vào tỉnh Hng Hoá. Năm 1900 thành lập thêm huyện Hạc Trì.
Ngày 5 tháng 5 năm 1903, Toàn quyền Đông Dơng ký Nghị định chuyển tỉnh lỵ của tỉnh H-
ng Hoá (từ làng Phúc Trê huyện Tam Nông) lên làng Phú Thọ thuộc tổng Yên Phú, huyện
Sơn Vi và từ đây tỉnh Hng Hoá đổi tên thành tỉnh Phú Thọ với 10 huyện: Tam Nông, Thanh
Thuỷ, Sơn Vi, Thanh Ba, Phù Ninh, Cẩm Khê, Hạ Hoà, Hạc Trì, Hùng Quan, Ngọc Quan và
hai châu là Thanh Sơn, Yên Lập.
Từ năm 1903 (năm tỉnh có tên là Phú Thọ) đến Cách mạng tháng Tám năm 1945, về cơ bản
là đơn vị hành chính trong tỉnh không có những thay đổi lớn, chỉ có thay đổi tên gọi một số
huyện và thành lập một số làng xã mới.
Ngày 22 tháng 10 năm 1907 thành lập thị xã Phú Thọ và thị xã Việt Trì.
Năm 1919 bỏ tên huyện Sơn Vi đổi gọi là phủ Lâm Thao. Cũng chính năm này hai huyện
Hùng Quan và Ngọc Quan hợp nhất thành phủ Đoan Hùng.
Năm 1939, phủ Đoan Hùng chuyển gọi là châu Đoan Hùng. Cũng năm này huyện Thanh
Ba đa lên thành phủ Thanh Ba.
Đến năm 1940, tỉnh Phú Thọ bao gồm hai phủ: Lâm Thao, Thanh Ba; sáu huyện: Hạ Hoà,
Cẩm Khê, Hạc Trì, Thanh Thuỷ, Tam Nông, Phù Ninh; ba châu: Thanh Sơn, Yên Lập, Đoan
Hùng; hai thị xã: Phú Thọ, Việt Trì và một thị trấn Hng Hoá. Toàn tỉnh có 66 tổng, 467 làng
xã, 22 phố.
Cách mạng tháng Tám thành công, về mặt hành chính Nhà nớc ta thống nhất gọi là các phủ,
châu, huyện là huyện. bỏ cấp tổng và tiến hành hợp nhất các làng nhỏ thành xã. Năm 1946,
tỉnh Phú Thọ từ 467 làng cũ hợp nhất thành 106 xã mới. Do có xã quá lớn nên giữa năm
1947 Chính phủ lại chia tách một số xã, đa số xã từ 106 lên 150 xã.
Cũng năm 1947, 5 huyện hữu ngạn sông Thao là Cẩm Khê, Tam Nông, Thanh Thuỷ, Thanh
Sơn và Yên Lập sát nhập vào khu 14 không thuộc tỉnh Phú Thọ. Đến tháng 2 năm 1948 khu
14 hợp nhất với khu 10 thành liên khu 10.5 huyện hữu ngạn sông Thao lại trở về tỉnh Phú
Thọ.
Thời kỳ cải cách ruộng đất và khôi phục kinh tế sau hoà bình (1955 - 1957) lại có sự điều
chỉnh, chia tách các xã, nên số xã từ 150 xã lên 271 xã. Từ năm 1957 trở đi đơn vị xã cơ
bản ổn định cho đến ngày nay, chỉ có thay đổi tên gọi một số xã vào cuối năm 1964.
Trong thời kỳ thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965), Bộ Nội vụ ra quyết
định thành lập ba thị trấn là thị trấn nông trờng Vân Hùng thuộc huyện Đoan Hùng, thị trấn
nông trờng Vân Lĩnh thuộc huyện Thanh Ba và thị trấn nông trờng Phú Sơn thuộc huyện
Thanh Sơn. Ngày 4 tháng 6 năm 1962, Hội đồng Chính phủ ra quyết định số 65 thành lập
thành phố Việt Trì.
Ngày 26 tháng 1 năm 1968, Uỷ banh Thờng vụ Quốc hội ra Nghị quyết 504, quyết định
hợp nhất hai tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ thành tỉnh Vĩnh Phú. Thành phố Việt Trì là tỉnh lỵ
của tỉnh Vĩnh Phú.
Ngày 5 tháng 7 năm 1977, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 178 về việc hợp nhất các
huyện trong tỉnh. ở địa bàn Phú Thọ, chỉ có huyện Thanh Sơn là giữ nguyên, còn các huyện
khác đều hợp nhất: Tam Nông hợp nhất với Thanh Thuỷ thành huyện Tam Thanh; Lâm
Thao hợp nhất với Phù Ninh thành huyện Phong Châu; Cẩm Khê, Yên Lập và 10 xã hữu
ngạn sông Thao của Hạ Hoà hợp nhất thành huyện Sông Thao; Thanh Ba, Đoan Hùng và
các xã còn lại của Hạ Hoà cùng với 7 xã của Phù Ninh hợp nhất thành huyện Sông Lô. Do
địa bàn huyện khá rộng, gây nhiều khó khăn cho công tác chỉ đạo, lãnh đạo, ngày 22 tháng
2 năm 1980, Hội đồng chính phủ ra Quyết định số 377 về sửa đổi một số đơn vị hành chính
cấp huyện thuộc tỉnh Vĩnh Phú. Theo quyết định, Sông Thao tách thành Sông Thao và Yên
Lập, Sông Lô chia thành Thanh Hoà và Đoan Hùng.
Năm 1979, Hội đồng Chính phủ ra quyết định thành lập thị trấn Phong Châu. Tháng 10
năm 1995, hai huyện Thanh Ba và Hạ Hoà tái lập; một tháng sau ( 11 - 1995), Chính phủ ra
Nghị định thành lập thị trấn Thanh Ba và thị trấn Đoan Hùng là huyện lỵ của hai huyện
trên.
Ngày 6 tháng 11 năm 1996, Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 10 đã thông qua Nghị quyết về
việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh, trong đó có việc tái lập tỉnh Vĩnh
Phúc và Phú Thọ. Tỉnh Phú Thọ chính thức đợc tái lập và đi vào hoạt động ngày 1 tháng 1
năm 1997.
Đến ngày 28 tháng 5 năm 1997, Chính phủ ra Nghị định số 55 về việc thành lập 6 thị trấn:
thị trấn Yên Lập; thị trấn Hạ Hoà; thị trấn Hng Hoá; thị trấn Lâm Thao; thị trấn Phú Hộ và
thị trấn Thanh Sơn.
Tiếp đến ngày 24 tháng 7 năm 1999, Chính phủ ra Nghị định số 59 chia tách hai huyện cuối
cùng của tỉnh Phú Thọ là Phong Châu và Tam Thanh để tái lập các huyện cũ là Lâm Thao,
Phù Ninh, Tam Nông và Thanh Thuỷ.
Phú Thọ có sông Lô là giới hạn tự nhiên với tỉnh Tuyên Quang và Vĩnh Phúc, sông Đà là
giới hạn tự nhiên với tỉnh Hà Tây. Phía bắc giáp tỉnh Tuyên Quang và Yên Bái; phía Nam
giáp tỉnh Hoà Bình; phía Đông giáp tỉnh Hà Tây và Vĩnh Phúc; phía Tây giáp tỉnh Sơn La.
Tỉnh Phú Thọ tái lập (1997) và đợc công nhận là tỉnh miền núi năm 1998 có diện tích tự
nhiên 3.496 km vuông. Theo điều ra dân số năm 1999 có 1.261.900 ngời, mật độ dân số
trung bình 373 ngời / km vuông, gồm 21 dân tộc anh em sinh sống, trong đó ngời Kinh
chiếm đa số (1.2 triệu ngời), ngời Mờng hơn 10 vạn, ngời Dao hơn 6.000 ngời, Cao Lan hơn
2.000 ngời Đến nay toàn tỉnh có 12 huyện, thành, thị đó là 10 huyện: Thanh Sơn, Yên
Lập, Sông Thao, Tam Nông, Thanh Thuỷ, Hạ Hoà, Thanh Ba, Đoan Hùng, Lâm Thao, Phù
Ninh, thành phố Việt Trì và thị xã Phú Thọ với 270 xã, phờng, thị trấn, trong đó có 214 xã
miền núi.
Tỉnh Phú Thọ:
1. Thành phố Việt Trì
- Diện tích: 63 km vuông
- Dân số: 132.700 ngời
- 16 xã phờng
2. Thị xã Phú Thọ
- Diện tích: 29 km vuông
- Dân số: 39.800 ngời
- 7 xã phờng
3. Huyện Lâm Thao
- Diện tích: 130 km vuông
- Dân số: 122.000 ngời
- 17 xã, thị trấn ( + thị trấn Hùng Sơn nữa là 18 ^^)
4. Huyện Phù Ninh
- Diện tích: 173 km vuông
- Dân số: 120.800 ngời
- 21 xã, thị trấn
5. Huyện Tam Nông
- Diện tích: 155 km vuông
- Dân số: 79.000 ngời
- 19 xã, thị trấn
6. Huyện Thanh Thuỷ
- Diện tích: 112 km vuông
- Dân số: 73.500 ngời
- 16 xã, thị trấn
7. Huyện Thanh Sơn
- Diện tích: 1337 km vuông
- Dân số: 183.900 ngời
- 40 xã, thị trấn
8. Huyện Yên Lập
- Diện tích: 443 km vuông
- Dân số: 76.600 ngời
- 17 xã, thị trấn
9. Huyện Sông Thao
- Diện tích: 234 km vuông
- Dân số: 129.600 ngời
- 31 xã, thị trấn
10. Huyện Đoan Hùng
- Diện tích: 304 km vuông
- Dân số: 101.600 ngời
- 27 xã, thị trấn
11. Huyện Thanh Ba
- Diện tích: 183 km vuông
- Dân số: 121.200 ngời
- 26 xã, thị trấn
12. Huyện Hạ Hoà
- Diện tích: 339 km vuông
- Dân số: 113.900 ngời
- 33 xã, thị trấn
THắNG CảNH DU LịCH
1-Đền Hùng
Núi Hùng (còn gọi là Nghĩa Lĩnh, Nghĩa Cơng, Bảo Thiếu Lĩnh, cao 175m so với mặt biển)
thuộc thôn Cổ Tích, xã Hy Cơng, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ.
Ngời xa nói, núi Hùng là chiếc đầu rồng hớng về phía nam, mình uốn khúc thành dãy núi
Trọc, núi Vặn, núi Pheo ở phía sau.
Với 150 di tích lịch sử, văn hóa, nghệ thuật đợc xếp hạng, trong đó có những di tích nổi bật
nh : Đền Hùng, Đầm Ao Châu, khu Ao Trời - Suối Tiên, khu mỏ nớc khoáng nóng La Phù -
Thanh Thuỷ Các chiến khu Hiền Lơng, Minh Hoà, chiến thắng Sông Lô, Tu Vũ, di tích
khảo cổ Sơn Vi, gò Mun, rừng quốc gia Xuân Sơn cùng các lễ hội Đền Hùng, Bạch Hạc,
Chu Hoá, đánh cá, mở của rừng, các di tích nghệ thuật: đình Hy Cơng; đình Hùng Lô; đền
Mẫu Âu Cơ, đền Hiền Quan; đình Bảo Đà; đình Lâu Thợng; đình Đào Xá với 21 dân tộc
anh em, mỗi dân tộc có sắc tộc, có sắc thái văn hoá riêng, nên rất độc đáo và phong phú.
2-Đền Trung:
Nơi này trên 2.300 năm trớc dựng quán nghỉ ngơi ngắm cảnh của vua Hùng, đôi khi họp
bàn việc nớc cơ mật với Lạc hầu, Lạc tớng. Tơng truyền còn là nơi hoàng tử Lang Liêu
dâng bánh dày bánh trng.
Sau thời Hùng Vơng, nhân dân lập miếu thờ các vua Hùng "Hùng Vơng tổ miếu".
3-Đền Hạ và chùa:
Theo truyền thuyết, bãi bằng lng chừng núi này là nơi tổ mẫu Âu Cơ chuyển dạ sinh ra bọc
trăm trứng nở thành trăm con trai. Do sự tích này mà nhân dân lập ra đền Hạ để thờ các vua
Hùng. Bên phải là chùa Sơn Cảnh Thừa Long Tự (còn gọi Thiên Quang Thiền Tự). Phía trớc
chùa là tháp s và gác chuông. Phía trớc đền là nhà bia công đức.
4-Đền Giếng:
Có giếng Ngọc của hai công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa, con vua Hùng 18. Tơng truyền
giếng này hai nàng dùng rửa mặt chải tóc, chít khăn. Đền thờ hai công chúa làm trùm lên
giếng.
Ngọc phả Đền Hùng viết sớm nhất là triều Tiền Lê (vào năm Thiên Phúc nguyênniên, tức
980 tây lịch). Viết lại và sao thì triều nào cũng làm, nhng phong sắc thì không triều nào
dám phong, vì là Tổ tiên.
Bản Ngọc phả soạn thời Trần (thế kỷ 13), năm Hồng Đắc thứ nhất Hậu Lê (1470) san nhuận
lại viết " Từ nhà Đinh, nhà Lê, nhà Lý, nhà Trần đến triều đại ta bây giờ Hồng Đức Hậu
Lê vẫn cùng hơng khói trong ngôi đền ở làng Trung Nghĩa (Đền Hùng). Những ruộng đất s-
u thuế từ xa để lại dùng vào việc cúng tế vẫn không thay đổi. ở đây nhân dân toàn quốc đều
đến lễ báo để tởng nhớ công ơn gây dựng nớc nhà của các đấng thành tổ ngày xa "
Sản phẩm du lịch của đền Hùng rất độc đáo. Đó là du lịch văn hoá lễ hội có ý nghĩa vùng
và quốc gia. Lễ hội đền Hùng đợc tổ chức trọng thể vào 10 tháng 3 âm lịch hàng năm và
thu hút hàng chục vạn khách tới dự.
5-Lễ hội truyền thống
Lễ hội truyền thống là một hình thức sinh hoạt văn hoá đặc sắc phản ánh đời sống tâm linh
của mỗi dân tộc, một hình thức sinh hoạt tập thể của ngời dân sau những ngày lao động vất
vả, là dịp để mọi ngời hớng về những sự kiện trọng đại hoặc liên quan đến những sinh hoạt
tín ngỡng hay vui chơi giải trí. Vì vậy lễ hội có tính hấp dẫn cao với du khách và là một
trong những tài nguyên du lịch nhân văn có giá trị.
Ngoài những lễ hội có tính chất chung của cả nớc, của vùng Bắc Bộ, Phú Thọ còn có những
lễ hội riêng, đặc sắc. Thông qua các lễ hội này, du khách có thể hiểu đợc về văn hoá Việt
Nam, văn minh lúa nớc.
6-Hội Đền Hùng:
Là lễ hội lớn của dân tộc Việt Nam. Lễ hội là dịp Giỗ Tổ thiêng liêng, đợc tổ chức vào ngày
10 tháng 3 âm lịch. Hội Đền Hùng là ngày hội quần tụ, ca ngợi sự hngthịnh của nòi giống,
là biểu tợng của tinh thần cộng đồng, nhắc nhở ngời dân Việt Nam cùng chung sức xây
dựng đất nớc ngày thêm phồn vinh. Lễ hội năm nào cũng nhộn nhịp, thu hút hàng chục vạn
du khách từ khắp mọi miền đất nớc.
7-Hội Bạch Hạc:
Diễn ra từ ngày 3 đến 5 tháng Giêng hàng năm tại đền thờ Thổ Lệnh Đại Vơng xã Bạch
Hạc, thành phố Việt Trì. Trong lễ hội có trò thi tung còn ở Đền Cả, lễ tiến còn, ngâm thơ
còn và cúng cơm còn. Ngày cuối lễ hội có lễ hạ còn và cớp còn cầu may.
8-Hội Chu Hoá:
Lễ hội diễn ra tại xã Chu Hoá, huyện Lâm Thao vào ngày 5 tháng Giêng hàng năm nhằm t-
ởng nhớ 3 anh em Cả Đông, Nhị Đông và Tam Đông, là các tớnggiỏi của vua Hùng thứ 18.
Trong lễ hội có diễn trò chạy kem diễn lại sự tích thần làng.
9-Hội mở cửa rừng:
Lễ hội diễn ra tại huyện Thanh Sơn từ ngày 6 đến 15 tháng Giêng hàng năm. Mở đầu là lễ
cúng cung tên để mở hội săn bắn, sau đó từng đôi nam nữ múa theo điệu "gà phủ" thực hiện
tín ngỡng phồn thịnh.
10-Hội đánh cá:
Đợc tổ chức ở vùng đồng bào Mờng thuộc xã Thạch Kiệt, huyện Thanh Sơn. Đây là lễ hội
mừng xuân tại khu vực ở sát bản. Trong lễ hội ngời ta dùng các giọ bắt cá (dùng nhiều đồ
dùng khuấy nớc lên cho cá chui vào giọ) để tế lễ và chia cho các gia đình.
Ngoài ra còn nhiều lễ hội khác nữa nh hội cầu tháng Giêng, hội Phết Hiền Quan, hội hát
Xoan, hát Ghẹo, hát trống quân, hát ví cùng nhiều trò chơi tổ chức trong lễ hội nh đánh
trống đồng, đâm đuống, múa mời, múa cồng, vật, bơi chải, kéo co, đánh thó, đánh phết, bắn
nỏ