Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

Truyền thông trong quản trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.86 KB, 41 trang )

TRUYỀN THÔNG TRONG QUẢN TRỊ CÔNG TÁC XÃ HỘI
NHÓM 6
1. Vũ Thị Phúc ( trưởng nhóm)
2. Phạm Văn Đồng
3. Nguyễn Thị Tuyết Nhung
4. Nguyễn Thị Thu Nguyệt
1
PHẦN MỞ ĐẦU
Ngày nay, xã hôi loài người không ngừng có những bước đột
phá mạnh mẽ về nhiều mặt ( kinh tế, văn hoá, khoa học kĩ
thuật ). Mức sống của người dân không ngừng được nâng cao.
Nhu cầu thông tin giải trí ngày một nhiều của con người đòi hỏi
vai trò lớn hơn nữa của truyền thông trong việc cung cấp thông
tin, và truyền thông cũng đưa loài người sang một chương mới,
nền văn minh mới: văn minh thông tin. Truyền thông trong bối
cảnh đó cuộc đấu tranh công tác tư tưởng ngày càng phức tạp, và
kinh tế thị trường ngày càng phát triển. Các thế lực chính trị, kinh
tế càng ý thức rõ hơn trong việc nắm giữ, sử dụng và chi phối các
phương tiện truyền thông. Có thể nói truyền thông ngày càng có
vai trò, ý nghĩa to lớn trong xã hội, ảnh hưởng nhiều mặt tới đời
sống của con người nói chung và trong công tác quản trị xã hội
nói riêng.
2
NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận của truyền thông trong quản trị
1. Các khái niệm
1.1. Truyền thông là gì?
Cho dù hình thức tổ chức là gì đi chăng nữa thì truyền thông
vẫn là yếu tố then chốt. Truyền thông đối với tổ chức như là huyết
mạch đối với con người. Tuy vậy, Có nhiều quan điểm khác nhau
khi định nghĩa về truyền thông, dưới đây là một số quan điểm.Vậy


truyền thông là gì?
 Khi đặt truyền thông vào trong quá trình truyền đạt thông tin giữa
bên cho và bên nhận, khái niệm truyền thông đã được xem xét ở
ý nghĩa rất rộng của nó.
Khái niệm “truyền thông’, tương ứng với thuật ngữ
‘‘communication’’ trong tiếng Anh hoặc tiếng Pháp, là “một dạng
hoạt động căn bản của bất cứ một xã hội nào mang tính xã hội”.
Hiểu theo nghĩa chung và trừu tượng thì “truyền thông”
(communication) là quá trình “truyền dữ liệu giữa các đơn vị chức
năng”. Truyền thông thường được xem xét như một quá trình
truyền đạt thông tin được thực hiện qua ngôn ngữ hoặc các cử
chỉ, điệu bộ hoặc các hành vi biểu lộ cảm xúc, vì thế mà một số
nhà nghiên cứu đã phân biệt truyền thông với hai loại hình là
truyền thông bằng ngôn từ) và truyền thông không bằng ngôn từ.
Khái niệm truyền thông có thể được định nghĩa như sau: truyền
thông là một quá trình truyền đạt, tiếp nhận và trao đổi thông tin
nhằm thiết lập các mối liên hệ giữa con người với con người.
Như vậy truyền thông được xem xét như một quá trình và để
thiết lập được các mối liên hệ giữa con người với con người cần
đặt nó vào bối cảnh của không gian và thời gian. Nếu truyền
thông giữa người ở nơi này với người ở nơi khác, tổ chức này với tổ
chức khác được xem như bối cảnh không gian thì truyền đạt thông
tin từ thời điểm này đến thời điểm khác trong chiều dài lịch sử nhờ
vào các phương tiện lưu trữ văn bản, hình ảnh, âm thanh… được
xem như là bối cảnh thời gian. Thông tin được chuyển đạt nhanh
nhất đến cộng đồng cư dân.
 Truyền thông là một giai đoạn trong tiến trình quản trị nhằm
chuyển tải những ý kiến từ người này sang người khác để thực
hiện các chức năng quản trị. Truyền thông hai chiều hướng tới tất
cả nhân viên và/hoặc các thành viên ban điều hành để chuyển tải

những ý kiến, kế hoạch, mệnh lệnh, báo cáo và đề xuất liên quan
tới nhiệm vụ, mục đích và mục tiêu của cơ sở cần đạt được.Vì vậy,
truyền thông là sự nối kết quan trọng để hợp nhất các nhà quản
3
trị, các thành viên ban điều hành, nhân viên và thân chủ của một
cơ sở hay một chương trình và thiết lập mối liên lạc giữa cơ sở, đại
diện chính quyền và những thành viên có liên quan trong cộng
đồng
1
 Truyền thông là việc chuyển đổi thông tin và nhận thức được ý
nghĩa của những biểu tượng được truyền từ người này sang người
khác. Đó là tiến trình gởi, nhận và chia sẻ các ý tưởng, quan
điểm, ý kiến và các sự kiện. Truyền thông cần đến người gởi
(người bắt đầu tiến trình) và người nhận (người cuối cùng trong
việc truyền thông). Khi người nhận phản hồi thông tin đã nhận
như mong đợi thì chu trình truyền thông hoàn tất. Trong các tổ
chức, các nhà quản trị sử dụng tiến trình truyền thông để thực
hiện các chức năng của họ.
2
 Những thành tố cơ bản của tiến trình truyền thông
- Người gửi
Người gửi là người khởi xướng tiến trình truyền thông.
Người gửi tìm cách lựa chọn thông điệp và kênh truyền thông
hiệu quả nhất.
Người gửi mã hoá thông điệp, tức là chuyển dịch tư duy hoặc
cảm giác sang phương tiện - được viết, được nhìn thấy hoặc được
nói nhằm chuyển tải ý nghĩa định hướng.
+ Nhằm mã hoá chính xác, nên áp dụng 5 nguyên tắc truyền
thông:
Một là - Sự thích đáng: Tạo cho thông điệp có ý nghĩa, lựa

chọn cẩn thận từ ngữ, biểu tượng hoặc cử chỉ sử dụng.
Hai là - Dễ dàng, giản dị: Sử dụng những thuộc ngữ đơn giản
nhất trong thông điệp, giản lược số lượng từ.
Ba là - Cơ cấu: Sắp xếp, bố trí thông điệp theo một trình tự
nhằm tạo điều kiện cho việc hiểu thông điệp dễ dàng.
Bốn là - Lặp lại: Trình bày lại những điểm chính ít nhất hai
lần. Lặp lại là đặc biệt quan trọng trong truyền thông nói bởi vì
các từ ngữ có thể không được nghe rõ hoặc hiểu đầy đủ vào thời
điểm đầu tiên.
Năm là - Trọng tâm: Tập trung vào những khía cạnh nền tảng
hoặc các điểm chính của thông điệp. Trong truyền thông nói cần
nhấn mạnh những điểm quan trọng bằng cách thay đổi giọng nói.
1 Bellows, Roger. (1960). “Communication and Conformity” Personnel Administration, pp. 21-
28, from Cordero, et. al
2 />4
Trong truyền thông viết thì in nghiêng hoặc gạch dưới những câu,
cụm từ hoặc từ chính.
- Người nhận
Người nhận là người tiếp nhận và giải mã (hoặc biên dịch)
thông điệp của người gửi. Giải mã là chuyển dịch thông điệp sang
một hình thức có ý nghĩa.
Một trong số các yêu cầu chính của người nhận là khả năng
lắng nghe. Lắng nghe liên quan đến việc chú tâm vào thông điệp,
không chỉ đơn thuần là nghe. Khoảng hơn 75% thời gian nhà quản
trị dành cho truyền thông và một nửa trong số đó dùng để lắng
nghe người khác. Trở thành người nghe tốt là cách thức quan
trọng để cải thiện kĩ năng truyền thông.
+ Mười hướng dẫn lắng nghe hiệu quả:
1. Nên nhớ rằng lắng nghe không chỉ là nhận thông tin –
cách thức lắng nghe như thế nào cũng gởi thông điệp đến người

gởi.
2. Dừng nói. Bạn không thể lắng nghe nếu bạn đang nói.
3. Thể hiện cho người nói rằng bạn muốn nghe. Diễn giải
những điều được nói để chứng tỏ rằng bạn hiểu.
4. Loại bỏ các bối rối.
5. Tránh đánh giá trước những điều một người nghĩ hoặc
đánh giá. Lắng nghe trước sau đó đánh giá sau.
6. Cố gắng nhìn nhận, nhận ra quan điểm của người khác.
7. Lắng nghe nghĩa tổng thể. Điều này bao gồm nội dung của
ngôn từ và cảm giác hoặc hàm ý.
8. Chú tâm vào cả hàm ý bằng lời hoặc phi lời.
9. Tranh luận và chỉ trích nhẹ nhàng, tránh đặt người khác
vào trạng thái bị động và có thể khiến cho họ im lặng hoặc trở
nên giận dữ.
10. Trước khi đi, xác nhận những điều đã nói.
- Thông điệp
Thông điệp bao gồm những biểu tượng bằng lời (nói và viết)
và các hàm ý không bằng lời đại diện cho thông tin mà người gởi
muốn chuyển tải đến cho người nhận.
+ Thông điệp không bằng lời:
Tất cả thông điệp không được nói hoặc viết tạo thành những
thông điệp không lời. Các thông điệp không lời liên quan đến việc
5
sử dụng những diễn tả của khuôn mặt, giao tiếp bằng mắt, cử
động cơ thể, các cử chỉ và ngôn ngữ cơ thể để truyền tải ý tưởng.
Khi con người giao tiếp, khoảng 60% nội dung của các thông
điệp được truyền tải thông qua các biểu hiện ở khuôn mặt và các
phương pháp truyền thông không lời khác.
+ Thông điệp bằng lời:
Con người giao tiếp bằng lời thường xuyên hơn so với bất kì

cách nào khác. Truyền thông nói xảy ra mặt đối mặt, qua điện
thoại hoặc qua thiết bị điện từ khác. Đa số mọi người thích giao
tiếp mặt đối mặt hơn bởi vì các thông điệp không bằng lời là một
phần quan trọng.
Để giao tiếp bằng lời hiệu quả đòi hỏi người gởi phải:
Mã hoá thông điệp theo ngôn từ lựa chọn để chuyển tải một
cách chính xác ý nghĩa đến người nhận.
Truyền đạt thông điệp theo phương thức tổ chức chặt chẽ.
Cố gắng loại bỏ sự sao nhãng, bối rối
+ Thông điệp viết:
Các tổ chức sử dụng thông điệp viết phục vụ cho công tác
lưu trữ hoặc phân phát cho nhiều người.
Những nội dung sau đây được trình bày trong thông điệp
viết:
Thông điệp nên dễ hiểu.
Suy nghĩ cẩn thận về nội dung.
Thông điệp nên ngắn gọn nếu có thể, không sử dụng các
thuật ngữ hoặc ý tưởng xa lạ hoặc không liên quan đến vấn đề đề
cập.
Thông điệp nên được kết cấu, tổ chức cẩn thận.
- Kênh truyền thông
Kênh truyền thông là đường truyền tải thông điệp từ người
gởi đến người nhận. Sự phong phú thông tin là khả năng truyền
tải thông tin của kênh.
Kênh truyền thông bao gồm:
+ Kênh từ trên xuống:
Kênh từ trên hướng xuống liên quan đến tất cả cách thức gởi
thông điệp từ giới quản trị xuống nhân viên.
Các nhà quản trị thường sử dụng truyền thông hướng xuống
một cách hiệu quả nhưng nó có thể là kênh bị lạm dụng nhiều

nhất, bởi vì nó ít tạo cơ hội cho nhân viên tương tác lại.
6
+ Kênh từ dưới lên:
Kênh hướng lên trên là kênh mà tất cả nhân viên sử dụng để
gởi thông điệp đến giới quản trị.
Giao tiếp hay truyền thông hướng lên bao gồm việc cung cấp
thông tin phản hồi mức độ am hiểu thông điệp mà nhân viên nhận
được thông qua kênh từ trên xuống.
+ Kênh ngang:
Kênh ngang là tất cả phương tiện được sử dụng để gởi và
nhận thông tin giữa các phòng ban trong tổ chức với nhà cung
cấp hoặc khách hàng.
Các thông điệp được truyền thông theo chiều ngang thường
liên quan đến phối hợp các hoạt động, chia sẽ thông tin và giải
quyết vấn đề.
Các kênh ngang là cực kì quan trọng trong tổ chức trên nền
tảng nhóm hiện nay, nơi mà nhân viên phải thường xuyên giao
tiếp để giải quyết vấn đề của khách hàng hoặc các vấn đề về quy
trình sản xuất.
- Thông tin phản hồi
Phản hồi là sự phản ứng của người nhận đối với thông điệp
của người gởi. Đây là cách tốt nhất để thể hiện rằng thông điệp
đã được tiếp nhận và nó cũng chỉ ra mức độ thấu hiểu của thông
điệp.
Phản ứng của người nhận cũng báo hiệu cho người gởi biết
mức độ đạt được mục tiêu hoặc hoàn thành công việc.
Thông tin phản hồi có những đặc tính sau:
Thông tin phản hồi phải hữu ích.
Thông điệp nên mang tính mô tả hơn là đánh giá.
Phản hồi nên cụ thể hơn là tổng quát.

Phản hồi nên đúng lúc, kịp thời.
Không nên phản hồi dồn dập, quá nhiều.
- Nhận thức
Nhận thức là ý nghĩa mà thông điệp muốn truyền tải bởi
người gởi hay người nhận. Khả năng nhận thức của mỗi con người
là khác nhau.
Trong truyền thông có thể phân thành hai vấn đề nhận thức:
Nhận thức chọn lọc là tiến trình rà soát thông tin mà một
người muốn hoặc cần tránh.
7
Nhận thức rập khuôn là quá trình đặt ra các giả định về các
cá nhân chỉ dựa trên cơ sở về giới tính, độ tuổi, chủng tộc và loại
khác. Sự rập khuôn bóp méo sự thật do gợi ý rằng tất cả mọi
người trong một loại có đặc điểm giống nhau nhưng thực tế không
phải như vậy.
1.2. Khái niệm thông tin quản trị
Để quản lý một tổ chức cần rất nhiều thông tin, ví như trong
doanh nghiệp nhà quản trị cần đến các thông tin về đặc tính của
nguyên vật liệu, những tính cách và khả năng của nhõn viờn; về
các tổ đội lao động và cách thức hoạt động của các tổ chức như
công đoàn, thanh niên cùng lợi ích của các tổ chức này; về tình
trạng thiết bị, tình hình cung ứng nguyên vật liệu cũng như tình
hình sử dụng nguồn vốn và lao động; thông tin dự bảo về giá cả,
sức tiêu thụ sản phẩm và những kế hoạch sản xuất và tiêu thụ
của doanh nghiệp; thông tin về chủ trương chính sách của Nhà
nước và các cơ hội liên doanh hợp tác đang hàng ngày, hàng giờ
họ mở cho mọi doanh nghiệp.
Như vậy, Thông tin là những dữ liệu, số liệu, tin tức thu thập
được đã qua xử lý, sắp xếp, diễn giải theo cấu trúc thích hợp để
phục vụ cho mục tiêu nào đó. Nói cách khác, thông tin là tất cả

những gì có thể mang lại cho con người sự hiểu biết về đối tượng
mà họ quan tâm tới (vì những nguyên nhân và mục tiêu nào đó).
Thông tin là sự phản ánh của sự vật, hiện tượng của tự nhiên, xã
hội, con người. Thông tin là quá trình phản ánh và tiếp nhận phản
ánh đó, biến phản ánh thành hiểu biết và tri thức nhằm mục đích
phục vụ việc ra quyết định của nhà quản trị.
Bản thân thông tin không phải là thực thể vật chất, nghĩa là
mang lại năng lượng nội tại, nhưng khi được tham gia các quá
trình hoạt động của con người, nó lại thể hiện khả năng vật chất
của mình, tức là góp phần làm gia tăng năng lượng, mà vì sự hỗ
trợ của công nghệ thông tin và kỹ thuật truyền thông hiện đại, độ
gia tăng đó ngày càng trở nên đáng kể, thậm chí nhiều khi còn
vượt xa dự kiến của con người.
Mỗi loại thông tin có những tính chất riêng. Có những thông
tin nội dung chậm thay đổi theo thời gian như thông tin về số
lượng trang thiết bị, về nhà xưởng; lại có những thông tin có nội
dung thay đổi hàng ngày như số lượng sản phẩm đã sản xuất
hoặc tiêu thụ
Thông tin đóng vai trò quan trọng trong bất kỳ hoạt động
nào của con người. Đối với hoạt động quản trị, thông tin là đối
tượng lao động của cán bộ quản trị, là công cụ của quản trị, nó
trực tiếp tác động đến các khâu của quá trình quản trị. Thông tin
quản trị là tất cả những tin tức nảy sinh trong quá trình cũng như
8
trong môi trường quản trị và cần thiết cho việc ra quyết định hoặc
để giải quyết một vấn đề nào đó trong hoạt động quản trị của một
tổ chức.
 Thông tin có đặc điểm cơ bản là:
 Thông tin là những tin tức cho nên nó không thể sản
xuất để dùng dần được

 Thông tin phải được thu thập và xử lý mới có giá trị
 Thông tin càng cần thiết càng quý giá
 Thông tin càng chính xác, càng đầy đủ, càng kịp thời thì
càng tốt
 Đặc trưng cơ bản của thông tin
 Thông tin gắn liền với quá trình điều khiển: Bản thân thông
tin không có mục đích tự thân. Nó chỉ tồn tại và có ýnghĩa
trong một hệ thống điều khiển nào đó. Dù thông tin ở bất kỳ
hình thức nào: bảng biểu, ký hiệu, mã hiệu, biểu đồ, xung
điện v.v đều có thể dễ dàng thấy rằng nó là yếu tố cơ bản
của một quá trình thành lập, lựa chọn và phát ra quyết định
để điều khiển một hệ thống nào đó, hệ thống này có thể là
trong tự nhiê, trong xã hội hoặc trong tư duy.
 Thông tin có tính tương đối: Phương pháp phân tích hệ thống
để khẳng định tính bất định của một quá trình điều khiển
phức tạp. Tính bất định đó chính là tình trạng không có đầy
đủ thông tin. Điều này cũng có nghĩa là mỗi thông tin chỉ là
một sự phản ánh chưa đầy đủ về hiện tượng vào sự vật được
phản ánh, đồng thời nó cũng phụ thuộc vào trình độ và khả
năng của nơi phản ánh. Tính tương đối của thông tin thể hiện
rất rõ nét đối với các hệ thống kinh tế xã hội, vì đây là các hệ
thống động, hệ thống mờ, đối với nhiều mặt còn có thể coi là
một hệ thống hộp đen.
 Tính định hướng của thông tin: Thông tin phản ánh mối quan
hệ giữa đối tượng được phản ánh và nơi nhận phản ánh. Đây
là một quan hệ hai ngôi.
Từ đối tượng được phản ánh tới chủ thể nhận phản ánh được
coi là hướng của thông tin, thiếu một trong hai ngôi thông tin
không có hướng và thực tế không còn ý nghĩa của thông tin
nữa.Trong thực tế, thường được hiểu hướng của thông tin là từ nơi

phát đến nơi nhận.
Mỗi thông tin đều có vật mang tin và lượng tin
Hình thức vật lý cụ thể của thông tin là vật mang tin. Có thể so
sánh thông tin là linh hồn còn vật mang tin là cái vỏ vật chất. Để
rõ nét khi nói về vật mang tin người ta sử dụng khái niệm nội
9
dung tin và vật mang tin. Nội dung tin bao giờ cũng phải có một
vật mang tin nào đó. Trên một vật mang tin có thể có nhiều nội
dung tin và thông tin thường thay đổi vật mang tin trong quá trình
lưu chuyển của mình.
 Yêu cầu của thông tin
 Về nội dung : Thông tin cần chính xác và trung thực: Phản
ánh trung thực, khách quan về đối tượng quản trị và môi
trường xung quanh có liên quan đến vấn đề cần tìm hiểu.
Thông tin cần đầy đủ(phản ánh đầy đủ mọi khía cạnh của
tình huống), súc tích(không có những dữ liệu thừa) và phù
hợp với nhu cầu của người sử dụng.
 Về thời gian: Thông tin cần được cung cấp kịp thời khi cần,
có tính cập nhật và có liên quan tới khoảng thời gian thích
hợp (quá khứ, hiện tại, tương lai)
 Về hình thức: Thông tin phải rõ ràng, đủ chi tiết, được sắp
xếp trình bày khoa học hệ thống và lôgíc (kết hợp từ ngữ,
hình ảnh, bảng biểu, số liệu ) và nằm trên vật mang tin phù
hợp với nhu cầu sử dụng.
 Vai trò của thông tin trong quản trị
 Trong quá trình điều hành, các quản trị viên trong tổ chức
phải trao đổi thông tin với cấp trên, cấp duới và các quản trị
viên khác. Họ không thể ra quyết định mà không có thông
tin. Hơn nữa, để hoạt động có hiệu quả thì các nhà quản trị
còn đòi hỏi phải có thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời

nhằm thực hiện tốt các chức năng và hoạt động quản trị của
mình.
 Trong tổ chức việc trao đổi thông tin là hoạt động cơ bản của
các nhà quản trị. Họ phải báo cáo cho cấp trên, chỉ thị cho
cấp dưới và trao đổi thông tin với các nhà quản trị khác,
hoặc chia sẽ thông tin, tình cảm hay ý tưởng với những người
trong tổ chức và bên ngoài doanh nghiệp. Thông tin là
phương tiện để cung cấp các yếu tố đầu vào của tổ chức, là
phương tiện để liên hệ với nhau trong tổ chức nhằm đạt mục
tiêu chung. Đó chính là vai trò cơ bản của thông tin. Thật
vậy, không có hoạt động nào của tổ chức mà không có thông
tin, bởi không có thông tin sẽ không thực hiện được bất cứ sự
điều phối và thay đổi nào cả.
Thông tin rất cần thiết cho việc thực hiện các chức năng của
quản trị như hoạch định, tổ chức, lãnh đạo, điều hành và kiểm
soát. Thông tin là cơ sở để đề ra các quyết định quản trị, đặc biệt
nó rất cần cho việc xây dựng và phổ biến mục tiêu hoạt động của
10
tổ chức, lập kế hoạch kinh doanh, tổ chức và quản trị nhân sự;
kiểm tra việc thực hiện chiến lược,
Có thể nói thông tin không chỉ tạo điều kiện cho các chức năng
của quản trị thực hiện tốt mà nó còn gắn hoạt động của tổ chức
với môi trường bên ngoài. Chính qua việc trao đổi thông tin mà
các nhà quản trị có thể hiểu rõ hơn nhu cầu khách hàng, khả năng
sẵn sàng của người cung cấp và các vấn đề nảy sinh.
Chính qua thông tin mà bất cứ một tổ chức nào cũng trở thành
một hệ thống mở tác động tương hỗ với môi trường của nó. Thông
tin còn là phương tiện đặc trưng của hoạt động quản trị, bởi vì tác
động của hệ thống quản trị đều được chuyển tới người chấp hành
thông qua thông tin. Trong tổng thể tác nghiệp quản trị, các hoạt

động thu nhận, truyền đạt, xử lý và lưu trữ thông tin chiếm một tỷ
trọng lớn. Mặt khác, các phương tiện kỹ thuật được sử dụng trong
bộ máy quản trị mà trong đó đa số có liên quan đến hệ thống
thông tin cũng là phương tiện trong quá trình quản lý. Hai loại
phương tiện này hỗ trợ bổ sung cho nhau và đều gắn liền với hoạt
động trí tuệ của các quản trị viên trong bộ máy quản trị. Ngay cả
các hoạt động trí tuệ và suy luận của con người cũng được coi là
các hoạt động xử lý thông tin cao cấp đặc biệt.
Tóm lại, vai trò của thông tin trong quản trị là ở chỗ nó làm tiền
đề, làm cơ sở và là công cụ của quản trị, quá trình quản trị đồng
thời cũng là quá trình thông tin trong quản trị. Thông tin vừa là
yếu tố đầu vào không thể thiếu được của bất kỳ tổ chức nào, vừa
là nguồn dự trữ tiềm năng đối với tổ chức đó. Thông tin đã trở
thành một trong những nhân tố có ý nghĩa to lớn đối với vận
mệnh kinh tế, chính trị và xã hội của nhiều quốc gia.
 Phân loại thông tin trong quản trị kinh doanh
 Xét theo mối quan hệ giữa bên trong doanh nghiệp và bên
ngoài môi trường:
+ Thông tin bên trong: Là những thông tin phát sinh trong nội
bộ của doanh nghiệp, bao gồm các số liệu về đội ngũ cán bộ,
nhân lực, tài sản thiết bị, nguyên nhiên vật liệu v.v
+ Thông tin bên ngoài bao gồm các thông tin trên thị trường
như giá cả, chất lượng, chủng loại sản phẩm, sự biến động của
tiền tệ, dân cư v.v
 Xét theo chức năng của thông tin.
+ Thông tin chỉ đạo:Mang các mệnh lệnh, chỉ thị, chủ trương,
nhiệm vụ mục tiêu kinh tế đã định. và có các tác động quy định
đến phương hướng hoạt động của đối tượng quản trị.
11
+ Thông tin thực hiện: Phản ánh toàn diện kết quả thực hiện

mục tiêu của tổ chức
 Xét theo cách truyền tin
+ Thông tin có hệ thống: Truyền đi theo nội dung về thủ tục đã
định trước theo định kỳ và trong thời hạn nhất định. Người thu
thập thông tin đã biết trước. Gồm :
 Các báo cáo thống kê được duyệt.
Thông tin về tình hình hoạt động hàng ngày hoặc hàng tháng,
hàng quý.
+ Thông tin không có hệ thống là những thông tin được
truyền đi khi có sự kiện đột xuất nảy sinh trong quá trình sản xuất
kinh doanh hoặc xảy ra trên thị trường, mang tính chất ngẫu
nhiên, tạm thời.
 Xét theo hướng chuyển của thông tin
+ Thông tin chiều ngang: Là thông tin giữa các chức năng
quản trị của một cấp.
+ Thông tin chiều dọc: Là thông tin giữa các chức năng ở các
cấp khác nhau trong cơ cấu quản trị.
2. Vai trò của truyền thông trong quản trị
* Truyền thông trong quản trị CTXH là vô cùng quan trọng vì:
Tính kết quả; Tính hiệu quả ; Tinh thần làm việc
 Tính kết quả
Để cung ứng dịch vụ của cơ sở có hiệu quả, bắt buộc cá
nhân viên phải có khả năng giao tiếp với người khác. Làm sao
những chính sách đúng đắn có thể được hình thành nếu sự truyền
thong giữa nhân viên không xảy ra?
Làm sao mà ra những quyết định có ý nghĩa nếu nhân viên
không thể biệu lộ ý tưởng, ý kiến và cảm nghĩ của mình?
Truyền thông hai chiều là bộ phận cả tiến trình dân chủ và
cần thiết để ra những quyết định đúng đắn và xác định những
chính sách có kết quả.

 Tính kết quả
Tính kết quả được tăng cường khi nhân viên giao tiếp cởi mở
với người khác về các thủ tục, các phương pháp, các ca (trường
hợp) thân chủ, các chính sách, mục tiêu và ngay cả nguyện vọng.
Một nhân viên đã học được một kỹ thuật hữu hiệu để xúc tiến hay
cải tiến các dịch vụ xã hội thì có tăng cường cho cơ sở bằng cách
bày tỏ nó ra. Nhân viên phát hiện những thủ tục nào đó vụng về
12
không hiệu quả thì có thể giúp đỡ cho cơ sở bằng cách báo cho
người khác biết những phát hiện của mình.
 Tinh thần làm việc
Yếu tố thứ ba của truyền thong hiệu quả là tinh thần làm
việc, có ý nghĩa đặc biệt trong hoạt động của cơ sở. Nếu nhà lãnh
đạo và các thành viên của nhóm cảm thây có quan hệ kết thân thì
họ ủng hộ hỗ trợ lẫn nhau để đạt được mục tiêu của cơ sở. Tinh
than làm việc tùy thuộc ít nhất vào việc các nhà lãnh đạo và nhân
viên nói cho nhau những gì họ nghĩ và tại sao lại như vậy. Điều
này không có nghĩa là họ sẽ nhất trí về mọi việc hay không có
nghĩa là các thành viên của nhóm sẽ tìm cách riêng cyar họ mà
nó ngụ ý là họ có hiểu biết cách người khác cảm nhận. Tinh thần
làm việc của cơ quan được xây dựng trên sự am hiểu của các nhà
quản trị và những nhân viên khác, họ là những người giao tiếp và
giúp đỡ lẫn nhau trong việc cung ứng các dịch vụ xã hội.
 Carlisles đưa ra 4 lý do chính vì sao truyền thong được xem là
trung tâm của toàn bộ tiến trình quản lý:
- Truyền thong là một trong hai tiến trình lien kết nhau của
quản lý. Nó là cơ sở cho sự tương tác xã hội, là nền tảng cho mọi
hoạt động nhân sự trong một tổ chức cũng như tế bào hình thành
cơ thể con người.
- Truyền thông là phương tiện chủ yếu đẻ con người thu nhận

và trao đổi thông tin. Việc ra quyết định và thực hiện chức năng
nhà quản lý là tùy thuộc vào chất lượng và số lượng thong tin
nhận được.
- Truyền thông là hoạt động tiêu tốn phần lớn thời gian của
nhà quản trị; một nhà quản trị trung bình sử dụng khoảng 70 đến
90% thời gian của mình trong giao tiếp. Một cuộc nghiên cứu của
John Hinrichs cho thấy các giám sát viên cơ sở sử dụng 74% thời
gian trong giao tiếp, giám sát viên cấp giữa dung 81% thời gian
và nhà quản trị cấp cao dung 87%.
- Thông tin và truyền thông “tượng trưng cho quyền lực trong
tổ chức… Những ai có thông tin có liên quan đến mục tiêu, kế
hoạch và hoạt động của công ty thì họ trở thành những trung tâm
quyền lực trong tổ chức”.
 Trecker, một nhà giáo dục quản trị tiên phong, đưa ra 6 tiêu chuẩn
truyền thông hiệu quả cho nhà quản trị công tác xã hội:
- Mục đích của truyền thông phải rõ rang và phải được người
thưc hiện và người nhận hiểu rõ.
- Cả tài liệu nói và viết phải càng rõ ràng càng tốt và chỉ có
một và một nghĩa diễn giải. Nếu có không được chính xác thì phải
13
cố gắng giảm bớt các ngoại lệ hoặc các chọn lựa để ngỏ khi diễn
giải.
- Truyền thông hiệu quả là một loạt các hành động thích hợp.
Nói cách khác, truyền thông xảy ra sau có liên quan mật thiết với
truyền thông trước đó và tránh nguy cơ bị vô hiệu hóa.
- Truyền thông đúng là thích hợp để hoàn thành mục đích,
không nhiều quá hay ít quá; nó có một trọng tâm rõ ràng và có
nội dung chọn lọc.
- Truyền thông đúng là kịp thời, đúng lúc, và có sự sẵn sang về
phía người nhận.

- Khi truyền thông đúng, tư tưởng được đưa vào các kênh
truyền thông được sử dụng và phân phối đi, nhờ thế người đáng
nhận sẽ nhận được đúng tài liệu. Việc này thường thường cần một
hệ thống không những truyền thông theo hướng đi xuống và đi
lên mà còn truyền thông theo chiều ngang.
Ngoài ra, khi nói đến vai trò của truyền thông ta có thế nói
đến vai trò của nó ảnh hưởng đến chính trị, kinh tế, xã hội và văn
hoá….Truyền thông có ảnh hưởng tới nhiều lĩnh vực của cuộc sống
nhưng quan trọng nhất phải kể tới là những tác động tới chính trị
và kinh tế.
1. Truyền thông đổi với chính trị
Truyền thông có vai trò hết sức quan trọng đối với mỗi chế độ
chính trị.
Hệ thống các phương tiện truyền thông đại chúng có sức mạnh và
những khả năng to lớn để giải quyết các nhiệm vụ công tác tư
tưởng chính trị trên phạm vi toàn xã hội. Nó có tác động trực tiếp
tới tình hình chính trị của mỗi quốc gia.
2. Truyền thông đổi với kinh tế
Không những có vai trò và ảnh hưởng quan trọng đối với chính trị
mà truyền thông còn có ý nghĩa lớn với sự phát triển kinh tế. Hiện
nay, trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu hoá ngày một gia tăng,
các nước đâỷ mạnh phát triển công nghiệp, công nghệ thông tin
ngày càng được ứng dụng nhiều hơn trong các lĩnh vực kinh tế.
Các phương tiện truyền thông được sử dụng một cách rộng rãi và
linh hoạt hơn trong các hoạt động kinh tế. Đối với mỗi công ty thì
đều có những nhân viên làm công tác truyền thông, quảng cáo,
pr
3. Truyền thông ảnh hưởng tới các lĩnh vực khác
Không chỉ tác động tới chính trị và sự phát triển kinh tế mà truyền
thông còn ảnh hưởng tới nhiều lĩnh vực khác của cuộc sống. Các

14
phương tiện truyền thông đại chúng có một số chức năng cần
phải kể tới như là :
- Chức năng tư tưởng
Hệ thống các phương tiện truyền thông đại chúng có sức mạnh và
khả năng to lớn để giải quyết các nhiệm vụ công tác tư tưởng trên
phạm vi toàn xã hội. Sức mạnh và khả năng to lớn đấy được thể
hiện ở chỗ các phương tiện truyền thông đại chúng là công cụ duy
nhất có thể tác động đồng thời, nhanh chóng tới từng thành viên
trong xã hội, liên kết truyền tải các giá trị văn hoá tích cực.
Truyền thông đại chúng vừa đóng vai trò là một môi trường sư
phạm, người thầy, vừa có khả năng trở thành một người bạn, hay
một môi trương văn hoá đối với mỗi người dân.
- Chức năng văn hoá
Hoạt động truyền thông đại chúng là môt phần đời sống văn hoá
của xã hội hiện đại. Bản thân nó có vai trò quan trọng trong việc
xây dựng và phát triển nền văn hoá xã hội.
- Chức năng khác như giải trí, dịch vụ.
Mạng internet và một số phương tiện truyền thông khác như
truyền hình có va trò giải trí đồi với con người như chơi game,
xem phim nghe nhạc .và rát nhiều tiện ích khác
3. Các kiểu truyền thông
Có hai kiểu truyền thông: Truyền thông chính thức và truyền
thông không chính thức.
 Truyền thông chính thức – hệ thống các phương thức và kênh
luồng hợp lý, được hoạch định nhờ đó dòng thông tin đi từ các cấp
quản trị như có thể thấy trong sơ đồ tổ chức. Nó không chỉ đi từ
trên xuống mà còn từ dưới lên và theo chiều ngang.
 Truyền thông không chính thức – truyền thông không theo các
kênh luồngcủa nhà quản trị mà thay vào đó là thông qua các giao

tiếp xã hội giữa con người trong cơ sở. Nó thường được biết dưới
cái tên là “tin vịt” được truyền đi nhanh hơn truyền thông chính
thức nhưng không chính xác trong việc giữ nguyên tính chân thật
của các dữ kiện ban đầu.
4. Các loại truyền thông
Truyền thông là tiến trình chuyển những ý tưởng và cảm nghĩ
đến người khác hay những người khác. Đó là một tiến trình hai
chiều. Cả hai truyền thông có lời và không lời đều quan trọng.
Truyền thông có lời chỉ lời nói- những gì một người nói và người
khác nghe. Trong các cơ sở dịch vụ xã hội, truyền thông có lời
15
diễn ra trong các cuộc họp nhân viên, các buổi họp ủy ban các
cuộc vấn đàm và hội nghĩ giữa hai hay nhiều người. Nó cũng diễn
ra ở phòng ăn, trong giờ giảo lao…. Truyền thông có lời trong cơ
sở gồm những tín hiệu được tạo ra qua cuộc nói chuyện với một
cá nhân hay một nhóm. Tuy nhiên, có nhiều hạn chế đối với tiến
trình này, chúng phải được xem xét:
- Truyền thông có lời nhấn mạnh chủ yếu vào ý tưởng và sự
kiện và không cho được một hình ảnh chính xác của cảm nghĩ
- Những gì mà người ta chọn lựa dể nói chỉ có thể là phòng
chừng gần đúng với toàn bộ tình huống, dễ làm người nghe lạc
hướng.
- Đôi khi khó mà bắt mọi người ngồi lại với nhau để bàn về tất
cả những gì cần phải nói.
Truyền thông không lời, thường bị các tác giả không chú ý
tới, thì đặc biệt có ý nghĩa nhất là trong công tác xã hội. Nó là một
phần quan trọng cả tiến trình trị liệu, cũng như sự tương tác giữa
nhân viên với nhau. Thường thường những cảm nghĩ và ý tưởng
được chuyên chở thông qua hành động không lời hiệu quả hơn là
thong qua sự diễn đạt thành lời. Truyền thông không lời bao hàm

hành động của cơ thể như mắt, dáng điệu, dáng đi, tốc độ nói
năng, độ cao của giọng nói, sự căng của môi, độ ửng hồng của đôi
má, và những giọt nước mắt. Một giám sát viên nói với một ngườ
làm công: “Điều này không có nghĩa lý gì với tôi cả”, trong khi
dáng điệu và trạng thái lại khẳng định điều ngược lại.
Nhân viên cần “lắng nghe” với đôi mắt của họ nếu họ thực sự
muốn hiểu những gì người khác đang nói. Quan sát kỹ lưỡng một
người khi giao tiếp sẽ giúp chuyển và nhận các ý tưởng, ý nghĩa
và cảm nghĩ. Nhân viên cũng cần lắng nghe với đôi tai chứ không
chỉ nghe cái được nói ra. Có nghĩa là không được phân tâm khi
nghe một người nói
5. Những vấn đề cơ bản về truyền thông.
Một phần lớn cuộc sống của chúng ta dành để truyền thông
với người khác. Chia sẻ những suy nghĩ và hiểu cảm xúc của
người khác là một kĩ năng quan trọng để hoạt động trong bất kì
xã hội nào trên thế giới. Ta không ngạc nhiên khi khó khăn trong
truyền thông là vấn đề số một khiến con người đến những cặp vợ
chồng đi làm tham vấn, và là cốt lõi của nhiều thứ khác mà chúng
ta đang vật lộn.
Sau đây là một mẫu truyền thông đơn giản có thể giúp làm
sáng tỏ cách truyền thông với những người khác hoạt động như
thế nào, tất cả đều có thể trở nên không ổn và những việc chúng
ta có thể làm để trở nên tốt hơn. Bức tranh phía dưới là một bản
16
đồ đơn giản về cách mà bất kì kiểu truyền thông nào hoạt động
như thế nào. Những mẩu cần thiết đó là một người gửi, một người
nhận, và một thông điệp. Đối với truyền thông của con người thì
mỗi người có thêm một bước nữa, hoặc là mã hóa, hoặc là giải mã
một thông điệp. Hai cách cơ bản của việc mã hóa thông điệp là
đặt nó trong 1 số kiểu ngôn ngữ (nói hoặc viết) và/hoặc truyền

thông không lời về nó (ngôn ngữ cơ thể, giọng nói ) Sau đó người
nhận diễn giải
(mã hóa) những câu, từ ngữ và những tín hiệu không lời, hy vọng
đi đến sự hiểu biết về những gì người gửi thực sự muốn nói.
Ví dụ, một người A thấy cô ấy đang đói, do đó cô đặt tay lên
bụng và nói "wow, tôi đóiiiiiii." Người B nhìn và nghe thấy điều
này, và diễn giải nó có nghĩa là người A đang đói.
 Những vấn đề trong truyền thông
Cách chúng ta mã hoá và giải mã những thông điệp dựa vào
việc chúng ta học truyền thông như thế nào trong những năm đầu
đời. Tất cả những từ ngữ thực sự chỉ là những biểu tượng đại diện
cho những thứ nào đó, và mỗi người có một cách hiểu hơi khác
nhau ngay cả ở mức độ từ ngữ mang tính cá nhân. Thêm nữa, số
lượng từ chúng ta biết và tính phức tạp của ngôn ngữ thay đổi với
nhiều kinh nghiệm, và những cách chúng ta mã hóa và giải mã
các thông điệp được quyết định bởi nền văn hóa, kiểu gia đình và
những kinh nghiệm khác của chúng ta. Những vấn đề trong
truyền thông khi đó có thể xuất hiện ở mọi bước của kiểu trên vì
không có hai người nào có kinh nghiệm sống chính xác giống
nhau đã hình thành nên những kiểu truyền thông.
Vấn đề của người gửi: Vấn đề phổ biến nhất là thông điệp
của người gửi mã hoá suy nghĩ, cảm xúc hoặc nhu cầu theo cách
làm người nhận khó hiểu. Hãy xem xét cách bạn có thể mã hoá
thông điệp đói bụng khác biệt với một đứa bé 3 tuổi, một người
không nói cùng ngôn ngữ với bạn và người bạn thân của bạn.
Chúng nên trông khác biệt hoàn toàn. Vì vậy, chọn cách tốt nhất
để mã hoá một thông điệp là quan trọng để đảm bảo người nhận
hiểu rõ.
Vấn đề phổ biến khác đó là đôi lúc những suy nghĩ, cảm xúc hoặc
ý tưởng của chúng ta cực kì phức tạp, và chúng ta thậm chí có thể

không hiểu rõ chúng. Do đó, gửi đi những thông điệp về những
điều mà chúng ta không hiểu rõ trong bản thân chúng ta thì
chúng ít có khả năng được người nhận hiểu.
Những vấn đề của người nhận: Vấn đề lớn nhất xảy đến khi
chúng ta nhận được thông điệp là giải mã chúng không đúng, điều
này có thể bị gây ra bởi 1) không thực sự chú tâm đến người gửi,
17
2) không có những kĩ năng cần thiết để giải mã thông điệp, hoặc
3) thêm ý nghĩa của riêng bạn vào thông điệp mà điều đó không
phải là ý định của người gửi. Đối với điều đầu tiên, nếu bạn không
thực sự chú ý hoàn toàn đến thông điệp (bao gồm những khía
cạnh không lời), bạn có thể bỏ qua những yếu tố quan trọng của
nó, và sau đó là hiểu sai. Đối với điều thứ hai, nếu bạn không hiểu
những từ nào đó hoặc thông điệp quá phức tạp thì khi đó bạn có ít
cơ hội để thực sự hiểu được nó.
Đối với điều thứ ba, chúng ta có thể tự động thêm vào thông
điệp những điều làm chúng ta bỏ qua ý định thực sự của thông
điệp. Từ ví dụ trên, giả sử người A thực sự chỉ đang đói bụng,
nhưng người B đã làm bữa tối trễ và giải mã thông điệp đó như là
lời chỉ trích và cảm thấy bị xúc phạm. Có khả năng sẽ có một cuộc
xung đột xảy ra sau đó, và nó là do một sự diễn giải sai từ người
nhận (và cũng là một sự hiểu kém về bối cảnh từ người gửi). Hãy
nghĩ về việc này xảy ra nhiều như thế nào trong tin nhắn và
email.
Vấn đề hai người: Nếu không có ngoại lệ, thì tất cả những
vấn đề trong truyền thông là những vấn đề của hai người. Bất kì
khi nào có một sự hiểu lầm thì nó là lỗi của cả hai người, người gửi
và người nhận thông điệp. Quay lại ví dụ trước. Người A có thể
nghĩ trước và nhớ rằng người B nổi giận khi anh ấy làm bữa tối
trễ, và người A sau đó có thể nói điều gì đó kiểu như “Wow, mùi vị

thật tuyệt! Tôi không thể đợi được nữa, tôi đang rất đói!” Người B
có thể giải mã thông điệp tốt hơn và biết rằng người A thực sự
không có ác ý mà chỉ đang nói lên sự thật là cô ấy đói và không
có ý gì khác, và do đó sẽ không cảm thấy bị xúc phạm. Vấn đề là
không có người nào phạm lỗi 100% cho bất kì vấn đề trong truyền
thông nào.
Làm thế nào để truyền thông tốt hơn
1. Nhận ra những lỗi truyền thông của bạn. Tất cả chúng ta đều dễ
gửi đi những thông điệp gây nhầm lẫn và bỏ qua những điểm
quan trọng mà người khác đang cố nói với chúng ta. Khi chúng ta
nhận ra rằng tất cả chúng ta đều có thể mắc phải những lỗi
truyền thông trong bài này thì chúng ta có thể điều chỉnh cách
mình gửi và nhận thông điệp.
2. Chọn lựa từ ngữ (và hành động) của bạn một cách khôn ngoan
dựa vào việc người nhận là ai. Dù chúng ta thích đối tác, bố mẹ,
và nhân viên của chúng ta tự động có thể biết được những nhu
cầu và cảm xúc của chúng ta là gì, hoặc diễn giải tất cả những
câu hỏi và những bình luận của chúng một cách hoàn toàn chính
xác, thì thực tế là họ không thể làm được điều đó. Chúng ta có thể
18
trở thành những người gửi thông điệp tốt hơn bằng cách nghĩ về
một người nào đó ở thời điểm cụ thể này sẽ nhận được một thông
điệp như thế nào, và sau đó gửi thông điệp đó theo hình thức đó.
3. Hỏi lại người gửi khi bạn đang giải mã những thông điệp để đảm
bảo rằng bạn hiểu đúng. Sau khi nghe một điều gì đó, đặc biệt
nếu nó khiến bạn thấy lạ, thì hãy hỏi người gửi xem liệu bạn có
nghe thông điệp đó chính xác không thay vì tin tưởng hoàn toàn
vào sự diễn giải của bạn.
6. Lựa chọn kênh truyền thông có hiệu quả.
3

Hiện nay, quảng cáo trên mạng xã hội là một công cụ không
thể thiếu của hoạt động Marketing, với sự phát triển không ngừng
của nó, chúng ta phải luôn cố gắng trau dồi và cập nhật những
tình hình mới nhất. Năm 2013 được xem là năm có nhiều bước
tiến vượt bậc của quảng cáo trên mạng xã hội, và sự tăng trưởng
đó vẫn chưa có dấu hiệu chậm lại mà lại còn phát triển mạnh mẽ
hơn vào năm 2014
Quảng cáo trên Twitter: Twitter đã có một năm thành công
trong 2013. Đã có nhiều thay đổi phù hợp trên giao diện người
dùng trên máy tính và các thiết bị điện tử. Các hoạt động truyền
thông đã có những bước nhảy vọt. Và có lẽ quan trọng nhất là
việc Twitter đã chính thức có mặt và cực kỳ thành công trên thị
trường chứng khoán.
Quảng cáo bằng Video trên Facebook: Quảng cáo trên TV
vẫn là một thách thức lớn đối với quảng cáo hiện đại. Các TVC đã
chứng tỏ được tác động mạnh mẽ đến việc phát triển thương hiệu
và quyết định mua hàng của khách hàng.
Hiện nay, đã có nhiều thay đổi trong thói quen xem truyền hình
của mọi người, điều này có nghĩa là những quảng cáo cũng phải
đổi mình cho phù hợp với nó. Dù có xuất hiện trên các thiết bị
khác nhau, cuối cùng thì điều có thể thu hút khách hàng vẫn là
những quảng cáo hay và hấp dẫn.
Youtube đã thực sự thống lĩnh điều này với những hoạt động
của họ. Quảng cáo Instream đang có những tiềm năng lớn để phát
triển, Vậy những điều này có liên quan gì đến Facebook? Video là
một tính năng nổi bật trên Facebook. Sau khi thử nghiệm
“autoplay” video, người ta hy vọng có thể phát triển tính năng
này.trở thành một công cụ để quảng cáo.
Quảng cáo trên Google+: Năm 2013 được xem là năm có
nhiều bước tiến vượt bậc của quảng cáo trên mạng xã hội, và sự

3 />%C3%B4ng-x%C3%A3-h%E1%BB%99i-h%E1%BB%A3p-l%C3%BD-h%C6%A1n
19
tăng trưởng đó vẫn chưa có dấu hiệu chậm lại mà lại còn phát
triển mạnh mẽ hơn vào năm 2014 và tiến xa hơn nữa.
Đã nhiều năm trôi qua kể từ khi Google+ được hình thành, nhưng
nó vẫn hoàn toàn nói không với các hoạt động quảng cáo. Một số
người khá thoải mái với điều này, trong khi đó những mà người
khác đang chờ đợi đến ngày mà họ có thể đặt những quảng cáo
trên mạng xã hội đầy tiềm năng này
Nhiều mạng xã hội hơn: Ngày càng có nhiều mạng xã hội
mới xuất hiện. Phần lớn là không đủ sức để phát triển, một số ít
mạng xã hội có thể trụ vững và bắt đầu phát triển. Pinterest,
SnapChat, Instagram là một số ít ví dụ điển hình cho điều này
(Thực ra Instargram là con của Facebook).
Pinterest và Instagram đang chập chững tham gia vào quảng cáo.
Trong khi đó, Reddit, Foursquare, Tumblr và một số khác đã tiến
hành cung cấp những hoạt động tự quảng cáo cho các thương
hiệu.
Sang 2014, cuộc đua quảng cáo trên các mạng xã hội sẽ đem đến
những thử thách thú vị cho các nhà quảng cáo. Bạn có quá nhiều
nơi để kể câu chuyện của bạn, và khi có quá nhiều như vậy: bạn
sẽ nói với tất cả các mạng hay chỉ tập trung vào một số mạng xã
hội nhất định? Để có thể làm việc với những mạng xã hội, bạn sẽ
đối mặt với nhiều vấn đề (độ lớn, chính sách biên tập quảng cáo,
…) và cả việc các quảng cáo bị chi phối bởi những quy định khác
nhau.
Ngoài ra, để truyền thông đạt hiệu quả ngoài các kênh mạng xã
hội thì việc truyền thông thông qua truyền miệng ( giao tiếp hàng
ngày, nói trên loa truyền thanh…) cũng là một trong những kênh
đạt hiệu quả cao và đặc biệt nó mang tính tin cậy cao hơn.

Thông qua đóng kịch, thơ văn… cũng là một trong những
kênh truyền thông hiệu quả và ngày càng được áp dụng rộng rãi
hơn: như những buổi biểu diễn văn nghệ, diễn kịch… nhằm quyên
góp từ thiện cũng đã và đang mang lại hiệu quả thiết thực.
Tặng quà tri ân cũng là một những phương thức trong chiến
lược truyền thông đem lại hiệu quả cao trong kinh doanh.
Tuy nhiên, Bên cạnh những mặt tích cực của các kênh truyền
thông thì còn không ít những hạn chế mà nó đưa lại: như việc
truyền thông truyền miệng độ phổ rộng không cao, hay việc
thông qua đóng kịch, thơ văn… tốn nhiều chi phí mà nó cũng
chưa phổ rộng được đến đông đảo người dân, một số những người
dân trình độ nhận thức kém hơn sẽ chưa hiểu được sâu sắc nội
dung mà nhà quản trị muốn truyền đạt đến họ
20
Cũng như việc truyền thông thông qua mạng xã hội cũng là con
dao hai lưỡi nếu như nhà quản trị không khéo léo, thông minh và
đủ tỉnh táo.
7. Vấn đề sử dụng các phương tiện truyền thông.
Do có vai trò quan trọng trong nhiều lĩnh vực nhất là trong
bối cảnh cuộc công tác tư tưởng ngày càng phức tạp và kinh tế thị
trường càng phát triển thì các thế lực chính trị kinh tế càng ý thức
rõ hơn trong việc nắm giữ, sử dụng và chi phối các phương tiện
truyền thông ( theo PGS. TS Nguyễn Văn Dũng, 2006, Truyền
thông lý thuyết và kỹ năng cơ bản. )
7.1. Các thế lực chính trị
Các thế lực chính trị luôn luôn tìm mọi cách nắm giữ và chi phối
các công ty truyền thông, nhất là các toà soạn báo. Bởi đó là thứ
vũ khí lợi hại có tầm ảnh hưởng lớn tới công chúng dư luân.
- Chúng ta hẳn chưa quên thắng lợi của ông Obama trong
cuộc bầu cử tổng thống Mỹ vừa qua. Tài năng của ông ta là không

phải chối cãi, đương kim tổng Mỹ đã khôn khéo dùng các phương
tiện truyền thông nhất là internet để vân động tranh cử. Cùng với
nhưng cuộc vân động ngoài trời thì internet được sử dụng cực kì
hiệu quả góp phần quan trọng tới thắng lợi của tổng thống này.
Cuộc chạy đua vào Nhà Trắng thường rất gay cấn, kéo dài và hao
tiền tốn của. Kể từ lúc bắt đầu tiến hành thăm dò dư luân để
quyết định ứng cử cho đến khi trở thành tổng thống là cả một quá
trình phức tạp, trải qua nhiều giai đoạn bỏ phiếu.
7.2. Các thế lực kinh tế
- Các tâp đoàn kinh tế ra sức sử dụng nắm giữ và chi phối các
phương tiện truyền thông trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu hóa
và truyền thông như là một phần không thể thiếu đối với mỗi tâp
đoàn, doanh nghiệp.
- Các công ty đều nắm giữ các phương tiện truyền thông và
coi đây là mắt xích quan trọng trong quá trình kinh doanh và tăng
cường hợp tác phát triển. Mỗi tâp đoàn, doanh nghiệp đều có
phòng truyền thông riêng nham tiến hành các chiến dịch quảng
cáo, tiếp thị sản phẩm, thiết lâp các mối quan hệ với khách hàng.
- Có nhiều công ty truyền thông làm mục đích kinh doanh và
mang lại lợi nhuân cao, có thể kể tới vtc, fpt.
- Do có vai trò và vị trí đặc biệt quan trọng nên các phương
tiện truyền thông luôn được sử dụng và chi phối một cách có hệ
thống.
Vây liệu việc chi phối, nắm giữ và sử dụng các phương tiện truyền
thông như hiện nay liệu có phải là giải pháp tốt?
21
Tất nhiên việc các công ty và giới chính trị chi phối các phương
tiện truyền thông là điều không sai, nhưng việc lạm phát quyền
lợi này thì chưa hẳn đã tốt. Ý mà tôi muốn nói tới ở đây đó là sử
dụng các phương tiện truyền thông sao cho đúng mục đích và

mang lại hiệu quả tốt nhất. Điều này thì còn tùy thuộc vào ý thức
của mỗi doanh nghiệp và mỗi chế độ chính trị khác nhau. Nhiều
người đã lợi dụng tính lan truyền thông tin nhanh của các phương
tiện truyền thông nham tuyên truyền lừa đảo.
Truyền thông rất có lợi, nhưng khi bị sử dung vào mục đích xấu thì
tác hại mà nó mang lại thi không thể lường hết được.
II. Tiến trình truyền thông
1. Các bước trong tiến trình truyền thông
 Tiến trình truyền thông gồm các bước:
 Chia sẻ thông tin – tiến trình gửi tin và nhận tin;
 Hiểu thông tin – những gì được nói ra và những gì nghe được
cơ bản là giống nhau; và
 Làm rõ thông tin – để hiểu những gì người ta đã nói.
+ Chia sẻ- tiến trình gửi đi và nhận về, có thể diễn ra theo
nhiều cách khác nhau, hoặc bằng lời, không lời hoặc bằng văn
bản. Nó có thể và phải đi lên và xuống thang bậc nhân sự cũng
như đi theo chiều ngang.
+ Nắm bắt được ý, yếu tố thứ hai của truyền thông, có nghĩa là
cái được nói ra và cái được nghe căn bản là giống nhau. Nếu một
nhân viên nói một đàng và người nghe nghe một nẻo thì truyền
thông không diễn ra. Việc này diễn ra thường xuyên. Chúng ta
thường nghe điều không được nói ra hoặc ta diễn giải sai. Hiểu
được ý, năm bắt được ý đòi hỏi cố gắng lắng nghe một cách thực
tế đến điều được nói ra, để thong điệp của ngưởi gửi và thông
điệp nhận được phù hợp.
+ Bước thứ ba trong tiến trình là làm rõ, có nghĩa đặc biệt
trong việc đem lại truyền thông hiệu quả. Nếu hai người đang nói
chuyện bà một người không chắc về điều đã làm sáng tỏ vấn đề.
Mục đích của việc làm sáng tỏ không phải là để chứng minh điều
ấy đúng hay sai mà để hiểu được rõ điều được nói ra. Không ai

thắng một trận chiến khi mà các bất đồng không giải quyết.
Ví dụ: một tiến trình truyền thông được áp dụng cho quản trị khu
vực nhà nước
Người gửi thông tin (người nói, người gửi, phát hành)
Truyền (nói, gửi, phát hành)
Các thông điệp (mệnh lệnh, báo cáo, đề nghị)
22
Người nhận thông tin (người nhận, người trả lời, người nghe)
Phản hồi ( trả lời, phản ứng)
 Tiến trình truyền thông gồm 6 thành tố:
 Người gửi (người mã hoá)
 Người nhận (người giải mã)
 Thông điệp
 Kênh truyền thông
 Phản hồi
 Bối cảnh
+ Người gửi: Là nguyền thông tin và là người khởi xướng
tiền trình truyền thông
Người gửi lựa chọn loại thông điệp và kênh truyền thông hiệu
quả nhất
Người gửi mã hoá thông điệp, tức là chuyển dịch tư duy hoặc
cảm giác sang phương tiện - viết, nhìn, nói nhằm chuyển tải
ý nghĩa định hướng
Nhằm mã hoá chính xác, nên áp dụng 5 nguyên tắc truyền
thông vào hình thức truyền thông người gửi đang sử dụng:
;Sự thích đáng; Dễ dàng, giản dị; Cơ cấu; Lặp lại; Trọng tâm
• Sự thích đáng: tạo cho thông điệp có ý nghĩa, lựa chọn cẩn
thận các từ ngữ, biểu tượng hoặc cử chỉ
• Dễ dàng, dễ hiểu: Sử dụng những thuật ngữ đơn giản nhất có
thể trong thông điệp, giản lược số lượng từ, biểu tượng hoặc

cử chỉ sử dụng để truyền thông suy nghĩ và cảm giác định
hướng của người gửi
• Cơ cấu: sắp xếp, bố trí thông điệp theo một trình tự nhằm
tạo điều kiện cho việc hiểu thông điệp dễ dàng.
• Lặp lại: Trình bày lại các điểm chính ít nhất 2 lần bởi các từ
ngữ có thể không được nghe rõ hoặc không đầy đủ
• Trọng tâm: nhấn mạnh những điểm quan trọng bằng cách
thay đổi giọng nói, cử chỉ hoặc sử dụng biểu tượng trên
gương mặt
+ Người nhận: là người tiếp nhận và giải mã thông điệp của
người gửi
• Giải mã là chuyển dịch thông điệp sang một hình thức có ý
nghĩa cho người nhận
23
• Cả việc mã hoá và giải mã đều bị ảnh hưởng bởi các nhân tố
cá nhân như trình độ giáo dục, tính cách, kinh tế xã hội, gia
đình, quá trình làm việc, văn hoá và giới tính
• Một trong số các yêu cầu chính của người nhận là khả năng
lắng nghe, chú tâm đến thông điệp
• Trở thành người nghe tốt là cách thức quan trọng để cải thiện
kỹ năng truyền thông
+

Thông điệp: bao gồm những biểu tượng bằng lời (nói và
viết) và các hàm ý không bằng lời thể hiện thông tin mà
người gửi muốn chuyển tải đến cho người nhận
• Các loại thông điệp thường được sử dụng: Thông điệp phi lời;
Thông điệp bằng lời; Thông điệp viết
- Thông điệp phi lời
• Tất cả thông điệp không được nói hoặc viết tạo thành thông

điệp phi lời. Các thông điệp phi lời liên quan đến việc sử
dụng những diễn tả khuôn mặt, giao tiếp bằng mắt, cử động
cơ thể, các cử chỉ và ngôn ngữ cơ thể để truyền tải ý tưởng.
• Khi giao tiếp, khoảng 60% nội dung của các thông điệp được
truyền tải thông qua các biểu hiện ở khuôn mặt và hình thức
phi lời khác
- Thông điệp bằng lời
Giao tiếp bằng lời hiệu quả đòi hỏi người gửi phải:
• Mã hoá thông điệp theo ngôn từ lựa chọn để chuyển tải một
cách chính xác ý nghĩa đến cho người nhận
• Truyền đạt thông điệp theo phương thức được tổ chức chặt
chẽ
• Cố gắng loại bỏ sự sao nhãng, bối rối
- Thông điệp viết
• Các thông điệp viết thường được sử dụng như: bản báo cáo,
ghi nhớ, thư tín, thư điện tử và bản tin
• Những thông điệp viết thích hợp khi thông tin phải được thu
thập và phân phát cho nhiều người ở các vị trí khác nhau và
việc lưu trữ những thông tin được gửi là cần thiết
+ Kênh truyền thông:
• Kênh là đường truyền tải thông điệp từ người gửi đến người
nhận.
• Sự phong phú thông tin là khả năng truyền tải thông tin của
kênh
24
• Không phải tất cả các kênh có thể truyền tải lượng thông tin
như nhau
• Các hướng truyền tải thông tin theo: kênh từ trên xuống,
kênh từ dưới lên, kênh ngang, kênh phi chính thức, mạng
lưới bên ngoài

• Kênh từ trên xuống liên quan đến tất cả cách thức gửi thông
điệp từ nhà quản trị tới nhân viên.
• Các nhà quản trị thường sử dụng truyền thông xuống một
cách hiệu quả như một kênh, nhưng nó có thể là kênh bị lạm
dụng nhiều nhất bởi vì nó ít tạo cơ hội cho nhân viên tương
tác lại hoặc phản hồi thông tin
• Kênh từ dưới lên là tất cả phương tiện mà nhân viên sử dụng
để gửi thông điệp đến cho nhà quản trị.
• Giao tiếp hay truyền thông hướng lên trên bao gồm việc
cung cấp thông tin phản hồi mức độ am hiểu thông điệp mà
nhân viên nhận được thông qua kênh từ trên xuống hoặc đó
là sự bày tỏ quan điểm ý kiến
• Kênh ngang là tất cả phương tiện được sử dụng để gửi và
nhận thông tin giữa các phòng ban trong tổ chức với nhà
cung cấp hoặc với khách hàng.
• Các thông điệp được truyền thông theo chiều ngang thường
liên quan đến việc phối hợp các hoạt động, chia sẻ thông tin
và giải quyết vấn đề.
• Các kênh ngang là vô cùng quan trọng cho các tổ chức trên
nền tảng nhóm hiện nay, nơi nhân viên phải thường xuyên
giao tiếp để giải quyết vấn đề của khách hàng
• Kênh phi chính thức là tất cả các phương thức phi chính thức
cho người gửi và người nhận để truyền thông từ trên xuống,
từ dưới lên và theo chiều ngang.
• Hệ thống thông tin mật là một hệ thống truyền thông phi
chính thức của tổ chức, thông tin có thể di chuyển theo bất
kỳ hướng nào.
• Trong các tổ chức, đường truyền đạt thông điệp trong hệ
thống thông tin mật là dựa trên các tương tác, quan hệ xã
hội chứ không phải là cơ cấu tổ chức

• Mạng lưới bên ngoài: Nhà quản trị và nhân viên cũng dành
nhiều thời gian để gặp gỡ đồng nghiệp và những người khác
bên ngoài tổ chức.
+ Thông tin phản hồi:
25

×