BỎNG TRẺ EM
(Kỳ 2)
Xử trí chung cho bỏng ở trẻ em
1. Tại nơi tai nạn: Làm lạnh vùng bỏng bằng nước lạnh vô trùng trong
vòng 20 -30 giây sẽ có tác dụng làm giảm đau, giảm chảy máu và có thể giảm độ
sâu tổn thương do việc hạn chế tác dụng của nhiệt. Chúng tôi không khuyến cáo
dùng đá lạnh vì có thể gây hạ thân nhiệt và tổn thương do đông cứng. trẻ nhỏ nên
được phủ bằng một tấm vải sạch hoặc chăn ấm.
2. Tại phòng cấp cứu/ đơn vị bỏng: nên theo hướng dẫn phân loại bỏng
của Hội bỏng hoa kỳ đối với bỏng mức độ nặng
Bỏng trung bì > 10% diện tích cơ thể
Bỏng vùng mặt, bàn tay, bàn chân, sinh dục, tầng sinh môn,
hoặc khớp lớn
Bỏng sâu toàn bộ lớp da ở bất kỳ tuổi nào
Bỏng do điện bao gồm cat tia lửa điện
Bỏng hóa chất
Bỏng hô hấp
Bỏng ở bệnh nhân có các bệnh mạn tính từ trước có thể gây
khó khăn cho điều trị, biến chứng hoặc tử vong
Bệnh nhân bỏng có các chấn thương kết hợp mà trong đó
bỏng là nguy cơ lớn nhất
Bỏng ở bệnh nhân đòi hỏi phải có các tư vấn mang tính chất
xã hội, tâm lý hoặc phải phục hồi chức năng lâu.
Tái đánh giá diện bỏng, vị trí, độ sâu và các dấu hiệu sinh tồn là vô cùng
quan trọng
Bỏng độ I: nên được rửa lại bằng các dung dịch vô trùng hoặc nước muối
sinh lý, băng lại và điều trị ngoại trú, tái khám sau 2- 3 ngày.
Bỏng độ II: cần rửa lại bằng dung dịch vô trùng hoặc nước muối sinh lý, có
thể loại bỏ các tổ chức chết, các vòm phỏng ở mu bàn tay, gan bàn tay, lòng bàn
chân cần được giữ nguyên vẹn. Bệnh nhân bỏng trên 10% diện tích cơ thể nên đưa
vào điều trị tại đơn vị điều trị bỏng. Vết bỏng hở nên được băng và che phủ bằng
da lợn sau đó băng các lớp gạc phía ngoài. Vết thương nên được kiểm tra sau mỗi
2 ngày, nếu da lợn bám chắc vào nền vết bỏng thì để nguyên, nếu không dính thì
nên cho giảm đau trước khi thay băng sau đó nhẹ nhàng rửa sạch trong bồn tắm,
dùng thuốc tại chỗ (silver sulfate), gạc băng, vật lý trị liệu (chủ động và thụ động)
nên bắt đầu sớm.
Bỏng vùng sinh dục cần được rửa sạch bằng gạc cotton sau đó băng lại
bằng gạc mỏng.
Bỏng độ III và IV cần phải nhập viện. Chăm sóc vết bỏng tại giường bệnh
cũng như bỏng độ hai. Hồi sức và duy trì dịch thể là rất cần thiết. Cần theo dõi các
dấu hiệu sinh tồn, theo dõi nước tiểu bằng sonde Foley. Đặt sonde dạ dày qua mũi
để giảm áp dạ dày và dự phòng nôn, đặc biệt trong 24 giờ đầu sau bỏng ở các
trường hợp bỏng nặng. Theo dõi chặt chẽ tình trạng đường thở, đặc biệt chú ý khi
bỏng đường hô hấp dưới. Theo dõi chặt chẽ đường máu. Theo dõi hematocrit để
đánh giá nhu cầu dịch thể và chỉ định truyền máu khi mất máu có thể xảy ra.
Tổn thương do hít và chăm sóc đường thở:
Đường hô hấp trên thường bị tổn thương trực tiếp do hơi nóng gây nên tình
trạng phù nề vùng thanh môn và hầu họng dẫn đến bít tắc đường thở. Sự tắc nghẽn
thường có các dấu hiệu báo trước như tăng tần số thở, thở cố, đột nhiên tăng tiết,
hoặc nói khàn tăng dần. Trẻ cần được theo dõi sát để có thể đặt ống nội khí quản
kịp thời.
Sự phá huỷ đường hô hấp dưới hoặc nhu mô do hít phải khí nóng hoặc khói
sau 24h. Trẻ có thể bị suy hô hấp do ngừng thở, các rale, thở khò khè. Cần theo
dõi và chăm sóc cẩn thận bằng rửa sạch đường thở là biện pháp chủ yếu trong thời
kỳ đầu. Dịch tiết khí quản thường nhầy rất dính và chứa các mảnh carbon và mảng
niêm mạc, cần hút rửa nhẹ nhàng qua ống nội khí quản loại to.
Tổn thương do điện:
Có thể tổn thương trực tiếp do dòng điện hoặc do lửa. Tổn thương nặng tổ
chức ngay tại vùng tiếp xúc, tuy nhiên tổn thương hoại tử còn gặp ở nơi xa điểm
tiếp xúc. Tất các các trường hơp bỏng điện cao thế cần theo dõi sát tình trạng tim
mạch có thể phải dùng đến biện pháp CPR khi ngừng tim, theo dõi tình trạng loạn
nhịp tim trong phòng cấp cứu. Hồi sức cần bắt đầu với ringerlactat để duy trì huyết
áp và đảm bảo bài niệu 1ml/kg/h càng sớm càng tốt ngay sau bỏng. Sắc tố cơ
(myoglobin niệu) là mọt chỉ số đánh giá bỏng sâu và cần được điều trị một lượng
dịch lớn để dự phòng suy thận.
Bỏng do lạm dụng:
Lạm dụng trẻ em nên cân nhắc khi điều trị. Phần lớn xảy ra ở trẻ nhỏ tuổi.
Phần bỏng cần được xem xét cẩn thận vì thường là bỏng nhiều chỗ, nhiều lần.
Thường có tiền sử trẻ bị bỏ rơi hoặc ngược đãi.
Tóm tắt và kết luận:
Tại Thái Lan, các bệnh nhiễm trùng ngày càng ít dần, ví dụ như Diptheria
và ….Thấp khớp cấp, và thấp tim trước đây chiếm 50% hoặc hơn và thời điểm 30
năm trước đây.
Bỏng là một trong những nguyên nhân gây tử vong lớn cho trẻ cho dù có
thể dự phòng được. Gây đau đớn và để lại sẹo khi bỏng sâu và các vấn đề khác khi
trẻ lớn lên đặc biệt là bỏng các vùng hở như mặt, cổ. Đau rất quan trọng đối với trẻ
bị bỏng do vậy cần cho thuốc giảm đau mỗi khi thay băng, lau rửa vết bỏng.
Khi bỏng nặng, trẻ thường bị sốc nhanh chóng do thoát dịch ra khỏi lòng
mạch do vậy hồi sức dịch thể là rất quan trọng. Sốc bỏng kéo dài có thể gây suy đa
phủ tạng gây khó khăn cho điều trị về sau. Một đơn vị điều trị bỏng vô trùng với
đầy đủ các trang thiết bị là rất quan trọng trong dự phòng và xử lý nhiễm
trùng……duy trì cân bằng huyết động và hỗ trợ tinh thần và dũng khí.