Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

Đề tài vật lý - Bài 55 ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (575.75 KB, 56 trang )




SỞ GIÁO DỤC-ĐÀO TẠO TỈNH QUẢNG NINH
PHÒNG GIÁO DỤC-ĐÀO TẠO T.P HẠ LONG






DẠY MỘT GIỜ LÝ THUYẾT VẬT LÝ
ĐẠT HIỆU QUẢ CAO
NHỜ ỨNG DỤNG CỦA TIN HỌC
(TIẾT 61-BÀI 55- VẬT LÝ LỚP 9)










MỤC LỤC CỦA BÀI VIẾT
Chương 1 : Lời nói đầu
Chương II : Kế hoạch nghiên cứu
Chương III: Nội dung
A- Điều tra thực tế
B-Những biện pháp cơ bản để dạy một tiết lí thuyết vật lí đạt hiệu quả cao.


I-Phấn đấu làm đầy đủ ,có chất lượng các thí nghiệm trên lớp.
II-Chuẩn bị kĩ hệ thống câu hỏi giúp tổ chức tốt cho học sinh tích cực làm
việc.
III- Coi trọng tính thực tế,gắn với đời sống của kiến thức cần truyền đạtt.
C- Giáo án minh họa
I-Giáo án minh họa
II-Kết quả đạt được
D- Rút ra bài học kinh nghiệm









Chương I: LỜI NÓI ĐẦU
Tôi nhận thức rằng một trong những mục đích của việc dạy học là làm cho
học sinh nắm vững cơ sở khoa học một cách tự giác,tích cực,sáng tạo.Học sinh càng
được tham gia tích cực,chủ động vào các hoạt động thì các phẩm chất và năng lực
càng sớm được hình thành và phát triển hoàn thiện.Tính năng động và sáng tạo là
những phẩm chất rất cần thiết trong cuộc sống hiện đại,phải được hình thành ngay từ
khi ngồi trên ghế nhà trường.
Mỗi môn học đều có đặc trưng riêng,mỗi loại tiết học: tiếp nhận kiến thức
mới,bài tập,thực hành,ôn tập tổng kết đều có đặc thù riêng nhưng cuối cùng đều
phải đạt được mục đích như đã nói ở trên.Môn vật lí là môn khoa học thực nghiệm,các
tri thức vật lí là sự khái quát các kết quả nghiên cứu thực nghiệm và các hiện tượng
diễn ra trong đời sống.Việc có thí nghiệm và việc khai thác vốn sống của học sinh,kiến
thức thực tế trong đời sống sẽ giúp học sinh có cơ sở để thực hiện các thao tác tư duy

để tiếp nhận tri thức mới,hiểu kiến thức mới một cách năng động sâu sắc,
Để có một giờ dạy lí thuyết vật lí tạo được hứng thú,hiểu bài sâu sắc,hình
thành được tư duy tích cực,độc lập sáng tạo cho học sinh –người giáo viên vật lí phải
hết sức nỗ lực.Từ việc chuẩn bị dụng cụ thí nghiệm chu đáo,coi trọng tính thực tế gắn
với đời sống của kiến thức cần truyền đạt,soạn bài tỉ mỉ với hệ thống câu hỏi kiểm tra
bài cũ,câu hỏi dẫn dắt,gợi mở một cách logic từ kiến thức cũ sang kiến thức mới,từ bài
này sang bài sau - đến việc đặc biệt quan tâm đến phương tiện dạy học.Trong điều
kiện từng trường,từng bài người gv có thể lựa chọn sự hỗ trợ của bảng phụ bằng tranh
phóng to,bằng máy chiếu H,bằng trình chiếu trên Power Point và đặc biệt có sự hỗ trợ
của các phần mềm vật lí để có được phần động của động cơ,máy phát hết sức sinh
động.
Tháng 4 năm 2007 tôi dạy bài “Màu sắc vật dưới ánh sáng trắng và dưới ánh
sáng màu”với sự hỗ trợ của máy chiếu H.Tiết dạy của tôi đã đạt giải nhất của Hội thi
Giáo viên giỏi củaThành phố.Sau khi nghiên cứu về Power Point,học hỏi đồng nghiệp
tôi đã soạn và dạy trên Power Point và thấy quá rõ sự tuyệt vời của công nghệ thông
tin.Tuy vẫn trên nền giáo án cũ sử dụng máy chiếu H nhưng tôi đã phải suy nghĩ rất



nhiều cho ý tưởng mới,khi tôi dạy cho cả trường dự được đồng nghiệp đánh giá cao về
hiệu quả do công nghệ thông tin mang lại.
Trong tình hình cấp thiết cần ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin vào
giảng dạy mà tôi và nhiều giáo viên còn rất bỡ ngỡ.Tôi xin trình bày bài dạy của mình
để mong được trao đổi với các đồng nghiệp,mong được sự đánh giá,góp ý của các
đồng chí để tôi ngày càng tiến bộ,có nhiều giờ dạy áp dụng công nghệ thông tin thành
công hơn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các đồng chí!






Chương II- Kế hoạch nghiên cứu
I-Xác định rõ nhiệm vụ nghiên cứu:
- Nghiên cứu những biện pháp cơ bản để dạy một tiết lí thuyết vật lí đạt hiệu
quả cao.
-Học vi tính,nghiên cứu Power Point,cố gắng học hỏi để hiểu và sử dụng được
một số phần mềm vật lí hỗ trợ cho vẽ ,vào mạng để tìm thêm tư liệu.
II-Xác định đối tượng:
-Học sinh lớp 9C(lớp thường),lớp 9D(nhiều học sinh khá hơn) của trường Lê
Văn Tám.
III- Phương pháp tiến hành:



1-Điều tra học sinh
2-Tìm hiểu thực tế dạy lí thuyết vật lí
3-Nghiên cứu những biện pháp cơ bản để dạy lí thuyết vật lí đạt hiệu quả
4-Thể nghiệm trên lớp
5-Kiểm tra,nhận định kết quả
IV-Kế hoạch thời gian:
-Tháng 9,10: Điều tra trên học sinh và sách giáo khoa
-Từ tháng 10 đến tháng 3 : Nghiên cứu tài liệu,trao đổi với đồng nghiệp,thể
nghiệm trên lớp,thường xuyên kiểm tra đánh giá
-Tháng 3,4,5 tiếp tục thể nghiệm và hoàn thành.














Chương III : NỘI DUNG
A- Điều tra thực tế:
1- Về học sinh:
+Lớp 9C: 42 học sinh,03 học sinh giỏi,11 hs khá,23 hs trung bình,05 hs
yếu.
+Lớp 9D: 43 học sinh,10 hs giỏi,18 hs khá,11 hs trung bình,4 hs yếu
Qua kiểm tra khảo sát,kiểm tra miệng,trao đổi với hs tôi nhận thấy hầu như
sợ hoặc không thích học vật lí,các em cho rằng môn vật lí khô khan,khó hiểu không
hấp dẫn.Nhưng tất cả hs đều rất thích được học những giờ có thí nghiệm và có ứng
dụng công nghệ thông tin,những giờ đó hs đặc biệt hứng thú và hiểu bài.
2- Về thực tế dạy một tiết lí thuyết vật lí và việc ứng dụng công
nghệ thông tin vào dạy vật lí:
Ở trường tôi sự chỉ đạo,giám sát của ban giám hiệu,tổ chuyên
môn,bộ phận quản lí thí nghiệm rất chặt chẽ và Bộ giáo dục đã trang bị mới
rất nhiều dụng cụ thí nghiệm nên các giờ dạy,giáo viên đều sử dụng tốt các thí
nghiệm.Tuy nhiên chỉ những giờ dạy được chuẩn bị kĩ hệ thống câu hỏi nhằm
giúp học sinh tự lực phát hiện, lĩnh hội kiến thức,những giờ dạy gắn với nhiều
kiến thức thực tế phù hợp với các em và đặc biệt là những giờ dạy có sử dụng
công nghệ thông tin mới thực sự mang lại hiệu quả cao.
Thực tế,do điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường về phòng học
chức năng,về phương tiện máy chiếu qua đầu,về trình độ tin học của giáo
viên,về ý thức quyết tâm vươn tới lĩnh hội công nghệ mới của giáo viên còn

chưa đồng đều nên việc dạy học có áp dụng công nghệ thông tin còn chưa
phát triển mạnh mẽ,rộng khắp.Trong khi môn vật lí bao gồm phần
điện,quang,điện từ,năng lượng có khá nhiều thí nghiệm,nhiều nội dung kiến
thức gắn với thực tế,đời sống của học sinh mà nhờ áp dụng công nghệ thông
tin sẽ giúp ích vô cùng lớn cho hiệu quả của giờ dạy.



B- Những biện pháp cơ bản để dạy một giờ lí thuyết vật lí đạt
hiệu quả cao:
1-Phấn đấu làm đầy đủ,có chất lượng các thí nghiệm trên lớp.
Vật lí phổ thông là môn khoa học thực nghiệm,các tri thức vật lí là sự
khái quát hóa các kết quả nghiên cứu thực nghiệm và các hiện tượng diễn ra
trong đời sống.Không có thí nghiệm,học sinh rất khó có cơ sở để thực hiện các
thao tác tư duy để tiếp nhận tri thức mới.Có thí nghiệm,học sinh tiếp thu hứng
thú hơn,dễ dàng,hiệuquả hơn.
Xác định rõ như vậy nên BGH và tổ chuyên môn trường tôi chỉ
đạo,kiểm tra sát sao,đôn đốc tận dụng tối đa điều kiện đã có để không dạy
chay.Thậm chí có những giờ dạy tôi phải đi đến mấy trường mới đủ dụng cụ thí
nghiệm.Thí dụ,khi dạy bài “Sự truyền âm,phản xạ âm”trước đây,tôi đã phải đến
trường Chuyên Hạ long nhờ bạn mượn được cái chuông điện,sang Cấp III Hòn
gai mượn đế và cái chụp thủy tinh,về lại nhờ bạn là thợ điện lạnh lấy lốc của tủ
lạnh làm bơm hút khí.Mua bộ nguồn hạ thế có nắn dòng 220V-6V(tháo bỏ điôt)
thành máy hạ thế xoay chiều(để chuông kêu liên tục-đỡ phải đóng ngắt).Tìm
keo dán,thay ống để đảm bảo có được môi trường chân không.Hay để dạy
bài”Màu sắc vật dưới ánh sáng trắng và dưới ánh sáng màu”phải có đèn phát
ánh sáng màu,đèn màu quay-tôi phải đi nhiều cửa hàng mới tìm được đèn phù
hợp.Nhưng bù đắp lại,nhìn vẻ hứng thú,háo hức của học sinh,thấy kết quả giờ
dạy- tôi lại thấy mình có thể quyết tâm đi tìm,mượn được lần khác nữa.
2-Chuẩn bị kĩ lưỡng hệ thống câu hỏi giúp tổ chức tốt cho học sinh làm

việc.
Chuẩn bị thí nghiệm đôi khi là một kì công.Nhưng cái hồn của giờ
dạy,để đạt kết quả cao-tôi cho rằng còn là hệ thống câu hỏi.Nếu không khéo léo
dẫn dắt,để học sinh nhập vai”người nghiên cứu”- tiết học vẫn có thể mang tính áp
đặt,học sinh ít hứng thú.Từ nội dung kiểm tra bài cũ sao cho gắn kết bài cũ-
mới,gắn được với đời sống-mang tính sâu sắc đến nội dung kiến thức cần truyền
đạt,rồi phần củng cố hướng dẫn về nhà,đặt câu hỏi liên kết cho bài sau-đều cần



một hệ thống câu hỏi mang tính hệ thống,đảm bảo tính logic.Đặc biệt là phần thí
nghiệm,học sinh phải được hiểu rõ mục đích để hiểu rõ từng dụng cụ,được dự
đoán trước hiện tượng xảy ra(dựa trên kiến thức cũ),rồi mới quan sát hoặc làm-
phân tích kết quả thí nghiệm,vận dụng các kiến thức có liên quan để đi đến tri
thức mới.Có những câu hỏi chung,khái quát cho học sinh khá giỏi.Học sinh trung
bình,yếu phải được trả lời các câu hỏi cụ thể chi tiết hơn.Hệ thống câu hỏi phải
phát huy được năng lực của mọi đối tượng.Giáo viên cũng phải chuẩn bị các câu
hỏi gợi ý chi tiết-các câu hỏi phải diễn đạt rõ ràng ngắn gọn.Các câu hỏi củng cố
phải bám sát mục đích yêu cầu,trọng tâm của bài-cố gắng liên kết kiến thức
cũ,mới để học sinh nắm kiến thức theo mạch một cách logic-về nhà học và làm
bài sẽ dễ dàng.
Qua hệ thống câu hỏi của giáo viên,câu trả lời của học sinh – giáo viên
còn tiếp nhận thông tin ngược từ học sinh để tiếp nhận những tri thức còn
thiếu,uốn nắn những sai lầm thường mắc phải .
Nói chung một hệ thống câu hỏi có tính hệ thống,logic,thực tế,gắn với
đời sống sẽ tạo điều kiện để học sinh làm việc độc lập,giúp học sinh hoàn thiện tri
thức cũ,mới và biết vận dụng các tri thức đó để giải quyết các nhiệm vụ thực
tiễn,giờ học sẽ đạt hiệu quả cao .
3 – Coi trọng tính thực tế gắn với đời sống của kiến thức cần truyền đạt :
Trong phần kiểm tra bài cũ,khi dạy kiến thức mới và đặc biệt là phần

củng cố luyện tập – Phần hấp dẫn mà quan trọng – đó là câu hỏi,bài tập có nội
dung thực tế gắn với đời sống.Mỗi học sinh dù ở trình độ,năng lực nào đều có
ít nhiều kinh nghiệm sống – về những hiện tượng vật lý đã học.Nếu người
giáo viên chịu khó khai thác,khéo léo đưa vào bài học thì những bài giảng mới
thật sự đạt hiệu quả cao . Mới đạt được một mục đích của môn học : học sinh
hoàn thiện tri thức mới và biết vận dụng tri thức đó để giải quyết các nhiệm vụ
thực tiễn . Kinh nghiệm cho thấy phần này,học sinh tham gia hào hứng,thích
thú không kém phần học có thí nghiệm.Và học sinh phải cảm thấy ở đâu trong
cuộc sống cũng có thể thấy kiến thức liên quan đến vật lý .



Vậy người giáo viên khai thác tính thực tế gắn với đời sống của
kiến thức vật lý như thế nào ? tôi nghĩ rằng nếu đã có mục đích thì bất cứ lúc
nào,ở đâu ta cũng thu lượm được những gì ta cần.Nghe bản tin
qua đài,đọc từ báo( nhất là báo Thiếu niên ),xem qua vô tuyến ( Đặc
biệt là các cuộc thi của học sinh các cấp trên truyền hình ),qua các câu chuyện
hàng ngày,qua các câu thành ngữ từ xưa để lại,thậm chí đến bóc một tờ lịch
cũng thấy điều ta cần – thật là thú vị.Trong tháng 5 -07 tôi nghe được thông
tin về năng lượng sinh học,về êtanon sản xuất từ mía thay được xăng dầu,về
nhà máy sản xuất điện từ gió bắt đầu xây dựng ở Miền Trung nước ta,về vấn
đề hạt nhân ở Bắc Triều tiên vừa may lúc tôi chuẩn bị dạy bài “ Năng lượng
và sự chuyển hóa năng lượng “ và bài “ Điện gió . Điện mặt trời . Điện hạt
nhân “.Rồi một lượng thông tin lớn ở tài liệu chuyên môn , sách tham khảo,ở
trên mạng theo địa chỉ”thư viện tư liệu vật lí”mà người giáo viên phải tự chủ
động tìm kiếm và gìn giữ.
Những kiến thức cần khai thác tôi chia làm các dạng : vốn sống
của học sinh về những hiện tượng vật lý đã gặp ; tìm hiểu từ những kiến thức
đã học ; những câu chuyện về các nhà bác học liên quan đến lịch sử vật lý (khi
tôi kể các em nghe về nhà vật lí người Anh J.P.Jun,là chủ một hãng sản xuất

rượu bia vì say mê vật lí mà trở thành nhà bác học-các em đã rất hứng thú).;
những trò chơi vật lý ; những tư liệu có tính giáo dục tư tưởng ; những câu hỏi
để học sinh vận dụng tri thức giải quyết bài toán thực tiễn,những câu thành
ngữ,tục ngữ dân gian Tôi nghĩ rằng,dù mình đã quan tâm tìm kiếm,cũng
chưa khai thác được nhiều . Tuy nhiên những gì tôi đã tìm được cũng khó có
thể ghi hết lại ở đây . Tôi xin phép chỉ đơn cử lại một trong các tư liệu tôi đã
sử dụng để dạy học .
Một số câu thành ngữ dân gian để lại như :
“ Nặng bồng , nhẹ tếch “ ( cho bài đòn bẩy )
“ Nước chảy chỗ trũng “ ( Trọng lực )



“ Rát hầu , bỏng cổ “ ; “Gang họng ra” (Nguồn gốc âm , biên độ dao
động )
“Lạnh như tiền “ ( Dẫn nhiệt )
“Nắng quái chiều hôm” ( Bức xạ nhiệt )
“Tức nước vỡ bờ “ ( Bài lực )
“Ở bầu thì tròn , ở ống thì dài” ( bài cấu tạo phân tử ) ;
“Tranh tối tranh sáng” ( bài ánh sáng ) .
Câu tục ngữ :
“Thường quấn ba vòng mới chặt “ ( dạy bài lực )
Và năm 1999 khi bóc lịch , tình cờ tôi bắt gặp đoạn thơ của nhà thơ
Phạm Hổ :
“Áo trắng hỡi thủa tìm em không thấy
Nắng mênh mang mấy nhịp Tràng tiền
Nóng rất Huế nhưng đời không phải thế
Mặt trời lên từ phía nón em nghiêng “
Khi kiểm tra bài cũ – câu hỏi thêm , tôi yêu cầu học sinh dùng “ con
mắt “ của nhà vật lý để phân tích khổ thơ . Các em rất thích thú và phát hiện ra

do tia nắng mặt trời là tia bức xạ nhiệt đi thẳng – nên nhà thơ phát hiện ra hình
ảnh “ mặt trời lên ”
Rồi một câu hát thôi – trong một bài hát của các em : “Hương lúa
chín thoang thoảng bay làm lung lay hàng cột điện “ ( Bài “Em đi giữa biển
vàng “ – nhạc sỹ Bùi Đình Thảo ) cũng cho các em dẫn chứng điện đã về đến
nông thôn ( Dạy bài điện khí hóa đất nước ) . Qua báo Thiếu niên và các báo



khác tôi sưu tầm được khá nhiều tư liệu . Đọc báo của nghành kiến trúc tôi
biết thêm về bộ môn “ Âm học kiến trúc “ . Hiểu tại sao kiến trúc Châu âu có
nhiều tòa nhà hình vòm ; cắt được nhiều tranh ảnh về nhật thực , nguyệt
thực ( nhất là hiện tượng nhật thực toàn phần ở nước ta 24/10/95 ) . Một số bài
của tạp chí Thế Giới Mới cho tôi tư liệu về “ Mối duyên giữa thể thao và vật
lý “ . Cung cấp cho các em thông tin thú vị về các vận động viên quyền anh ,
đẩy tạ , nhảy xa , nhảy cao , chạy , bóng đá , trượt băng , trượt tuyết , muốn
đạt được thành tích cao , hiệu quả phải vân dụng các định luật quan trọng của
vật lý như thế nào ? ; Mục “ Kính lúp trả lời “ , “ Em yêu khoa học “ của báo
Thiếu Niên – thật quý báu cho những em thích tìm hiểu và hiểu sâu kiến thức
vật lý . Báo cũng cho khá nhiều câu chuyện giúp giáo dục tư tưởng chẳng hạn
bài “Khi học trò sử dụng điện thoại “.Tôi đã nêu sau khi dạy bài ứng dụng
của nam châm ) ; ảnh hai học trò nông thôn trèo cột điện(khidạy bài điện khí
hóa toàn quốc),tôi hỏi:quan sát bức ảnh em thấy được gì?-hình ảnh đồng
lúa,cột điện là hình ảnh điện về nông thôn,nhưng trèo lên cột điện thì không
nên vì nguy hiểm ;Bài “Khi gặp cơn giông” giúp các em hiểu hơn và biết
cách phòng tránh;”Bệnh truyền hình”,”Nói vỡ giọng” tăng thêm hiểu biết cho
cac em.Từ báo Nhân dân”Năng lượng thế kỉ 21:Gió,quà tặng vô tận”-tôi đọc
cho các em khi dạy bài “Đối lưu” và “Điện gió”.Liên hệ với môn địa lí để hiểu
thêm về dòng đối lưu,hải lưu,khí hậu,hiểu về Enino ;Xem phim”Của để
dành”,rồi môn văn có “Truyền kì mạn lục” cũng có hình ảnh để nói thêm về

“vùng bóng đen” .Có một số báo Thiếu Niên cũng có hẳn một trang in màu
giúp học sinh chơi trò “bắt bóng nhại hình” bằng hai tay của mình .Những trò
chơi như “dùng tĩnh điện câu ếch” “lên bổng xuống trầm”;”nấu nước sôi bằng
cốc nhựa”;”làm máy điện thoại đơn giản”;”làm kinh khí cầu” “Nước chảy
ngược”;”tuy hai mà một” ( về nam châm điện ) ; “xem mặt từ trường”;”máy
bay lên thẳng”;”Nổi hay chìm”;”Chiếc kim biết tìm hướng”;”tự dự báo thời
tiết” ( áp kế);”quả trứng biết làm trò” tôi sưu tầm ở báo và quyển “hội vui vật
lý”-Các em sẽ được “chơi mà học” rất hiệu quả cho củng cố kiến thức . Khi đi
miền Nam bằng tàu hỏa , lúc về tôi có thể kể thêm về hình ảnh đoàn tàu khi
“leo” đèo Hải Vân cần một đầu máy kéo,một đầu máy đẩy;tiếng bánh xe
nghiến trên đường ray khi qua cầu sắt và trong đường hầm như thế nào ;đọc



lại bộ sách giáo khoa vật lý cấp 3,bộ “Vật lý phổ thông” trình bày theo lỗi
mới”,”lịch sử vật lý” giúp tôi nắm vững hơn về kiến thức vật lý;về vị trí 2cực
từ của Trái đất và những câu chuyện thú vị về những nhà bác học vật lý có
khi nguyên chỉ là một nhà sản xuất rượu bia,một kế toán,một nhà buôn,một
bác sĩ - tôi kể cho các em , các em rất ngạc nhiên , thích thú . Và biết đâu có
em đã nghĩ – dù sau này làm gì – mình cũng nghiên cứu vật lý ! Từ báo , lịch
tường cũng có thể khai thác được tranh ảnh – để dạy Vật lý . Một bức ảnh to
: núi cây in bóng xuống mặt hồ ( gương phẳng ) ; cảnh điện thành phố về đêm
, ảnh các quạt gió làm ra “than xanh” . thác nước làm ra “than trắng”,các cột
điện cao thế của đường dây tải điện Bắc – Nam;ảnh ánh điện làm huyền ảo
hang động ( Điện phục vụ cho công nghiệp du lịch , dạy về màu sắc vật dưới
ánh sáng màu),một bức tranh của lịch tường có gam màu chủ đạo là màu xanh
da trời sẽ như được chụp lúc bình minh khi chiếu đến nó ánh sáng màu xanh
lam , hoặc như chụp lúc chiều tà nếu chiếu đến nó ánh sáng màu đỏ
Sưu tầm hệ thống câu hỏi để học sinh vận dụng tri thức giải quyết các
bài toán thực tiễn là việc làm rất cần thiết giúp học sinh củng cố kiến thức,

phát huy năng lực độc lập sáng tạo biết vận dụng kiến thức vào đời sống .

Stt

Ví dụ một số câu hỏi Được dùng ở
bài
1 Vì sao dùng đòn gánh đồ vật lại
đỡ tốn sức,và vì sao người gánh thường
dùng hai tay kéo vật nặng về phía trong
?
Lực,trọng lực
2 Vì sao răng lưỡi cưa lại tõe sang
hai bên ?
Lực ma sát



3 Khi đẩy tạ góc tối ưu có phải là
45
0
không ? (Hỗ trợ tốt nhất cho thể
dục)
Lực cản của
không khí
4 Vì sao cái diều có thể bay tự do
lên trời ?
Lực,trọng
lực,trọng tâm vật,sự
cân bằng của vật
5 Tàu thủy đi từ sông ra biển,ở

đâu phần chìm nhiều hơn ?
Lực đẩy
Acsimet
6 Vì sao tắm rửa trên tàu vũ trụ là
một việc khó khăn ?
Trọng lực
7 Vì sao vận động viên bóng
chuyền khi cứu bóng phải nhào lăn ?
(chứng tỏ ngay cả sự ngã cũng phải có
khoa học!)
Áp lực
8 Có phải khi kéo co ai khỏe hơn
sẽ thắng?
Lực ma sát ,
hợp lực .
9 Vì sao khi trèo lên cột điện chân
thợ điện phải đeo móc sắt ?
Áp lực , lực ma
sát , trọng lượng .
10 Vì sao động tác lăn mình trên
không của mèo được các nhà khoa học
chú ý ?
Trọng lực



11 Vì sao nói trong cơ thể người có
đòn bẩy ?
Đòn bẩy
12 Vì sao khi kéo vật nặng thường

phải quấn dây thừng mấy vòng vào
cột?(Ví dụ như em bé chăn trâu buộc
chiếc thừng buộc mũi trâu mấy vòng
vào thân cây là có thể chạy đi nơi khác
chơi đùa mà không sợ con trâu có thể
thoát nổi chiếc thừng mà đi;rồi kéo
thuyền;múc nước ở giếng;giữ chặt một
con ngựa chưa thuần )
Lực kéo,lực ma
sát
13 Vì sao cú sút bóng “lá vàng rơi”
lại bay theo đường vòng cung ? hay
đánh bóng chuyền , bóng bàn đánh
được xoáy lên trên hay xoáy xuống
dưới ?
Áp suất dòng
khí
14 Vì sao phần cuối xe ôtô lại xóc
hơn cả ?
Quán tính
15 Vì sao càng đung đưa,cây đu
càng lên cao
Thế năng trọng
trường
16 Vào lúc nào vận động viên nhảy
cầu ván tốt nhất ?
Đòn bảy
17 Vì sao bơm xe , ống bơm lại Nội năng




nóng lên ?
18 Vì sao hình cầu làm các nhà
kiến trúc thích thú ?
Cân bằng , áp
lực , phản xạ âm
thanh.
19 Gió lầu cao là gì ? Đối lưu
20 Vì sao nồi áp suất có thể ninh
thịt chóng nhừ ?
Áp suất
22 Âm thanh có thể phản xạ được
không ?
Phản xạ âm
23 Vì sao có lúc đường ống nước
lại phát ra tiếng kêu òng ọc ?
Vì sao con dơi có thể lợi dụng
âm thanh để bắt mồi ?
Sự truyền âm
24 Kỹ thuật sonar là gì ? (Máy
dùng âm thanh để định vị)
Môi trường
truyền âm
25 Vì sao người có thể nói được ? Nguồn gốc của
âm
26 Một độ nhiệt được xác định như
thế nào
Nhiệt kế




27 Vì sao đồ vật ẩm ướt lại thẫm
mầu hơn
Phản xạ ánh
sáng
28 Vì sao cửa kính chắn gió trước
cửa ôtô lại nắp nghiêng ?
Sự tạo ảnh bởi
gương phẳng
29 Vì sao kim cương lại có màu sắc
sặc sỡ
Phản xạ,khúc
xạ ánh .sáng
30 Vì sao địa nhiệt là một loại năng
lượng tốt?
Sản xuất điện
31 Vì sao phải phát triển việc tải
điện bằng dòng điện một chiều cao thế
?
Tải điện năng
đi xa
32 Vì sao nói tính siêu dẫn có ma
lực đối với con người ?
Như trên và
điện khí hóa
33 Vì sao bức xạ điện từ là 1 loại ô
nhiễm môi trường ?
Vì sao không nên để đồng hồ
lên trên mặt tivi hay máy biến thế?
Tổng kết

chương từ trường
34 Vì sao khi chạm vào vỏ kim loại
của đồ điện lại có cảm giác tê tê ?
Vì sao phải có dây nối đát ở các
Hiện tưởng
cảm ứng điện từ



thiết bị điên ?
35 Người ta làm thế nào để quan
sát trái đất từ bên ngoài ?
Cảm ứng từ
36 Xung quanh trái đất có từ trường

vậy lực hút của trái đất có liên
quan đếntừ trường này không ?
Hiện nay hai cực từ của NC trái
đất đang ở vị trí nào ?
Từ trường của
trái đất
37 Vì sao vật thể lại có màu sắc? Màu sắc vật
38 Mái che màu xanh trong ở chợ
Hạ long 1 có nhược điểm gì?
Màu sắc vật
dưới ánh sáng trắng và
dưới ánh sáng màu.
39 -Hang động ở vịnh Hạ Long
trang bị
thêm các đèn phát ánh sáng

màu để làm gì ?
Màu sắc vật
dưới ánh sáng trắng và
dưới ánh sáng màu
40 Ở các phòng tranh nên bố trí hệ
thống đèn như thế nào? có nên dùng
đèn màu rực rỡ không? Tại sao?
Màu sắc vật
41 Quang cảnh Vịnh Hạ Long vào
các thời điểm khác nhau trong
ngày,trong năm có khác nhau không?
Màu sắc vật



Tại sao?
42 Tại sao đoàn người đi trên sa
mạc hoặc đồng cỏ hay nhìn thấy ảo ảnh
là thành phố người đi lại ở phía trước ?
Khúc xạ
42 Trong rạp hát , vũ trường có hệ
thống đèn màu , đèn lade để làm gì ?
Màu sắc vật
43 -Lỗ đen vũ trụ là gì ? Màu sắc vật
44 Vật den không tán xạ bất kì ánh
sáng nào,vậy ánh sáng đó đi đâu?
Màu sắc vật
45 Vì sao bầu trời màu xanh ? Màu sắc vật
46 Tại sao tường , trần lớp học lại
quét vôi trắng ?

Màu sắc vật
47 Tại sao đèn nêon có thể tỏa ra
ánh sáng nhiều màu sắc?
Ánh sáng
trắng,ánh sáng màu,
48 Nước ta,tỉnh ta hiện nay có bao
nhiêu nhà máy điện?quay roto bằng
cách nào? Em có biết nước ta sắp xây
dựng những nhà máy điện nào
không?những nhà máy ấy phải được
xây dựng ở địa điểm có vị trí địa lí như
thế nào?
Máy phát điện
xoay chiều.



49 Tại sao khi muốn tạo ra d đ xoay
chiều lại chỉ chọn cách quay NC hoặc
cuộn dây dẫn ?
Máy phát điện
xoay chiều.
50 Máy biến thế có biến đổi được
hiệu điện thế giữa 2 cực pin Con thỏ
hay acqui được không?Vì sao?
Máy biến thế.
51 Trong lớp em có bao nhiêu bạn
bị cận,vì sao các bạn ấy cận và bị từ
bao giờ?
Mắt cận,mắt

lão
52 Vì sao ngắm súng lại phải nheo
1 mắt?
Mắt
53 Hiện nay ở các quốc gia dùng
những cách gì để giảm hao phí điện
năng trên đường dây tải điện ? còn
nước ta?
Truyền tải điện
năng
54 Tại sao dùng bóng đèn huỳnh
quang tiết kiệm điện hơn bóng đèn dây
tóc?
Tại sao phải tiết kiệm điện?
Tiết kiệm điện
55 Pin mặt trời có tác dụng như thế
nào ?
Hiện nay ở nước ta vùng nào
Điện Mặt trời



đang sử dụng Pin mặt trời?

Trên đây chỉ là một số câu hỏi trong số rất nhiều câu hỏi tôi sưu tầm
được ở sách,báo,chuyên môn thường tôi hỏi khi kiểm tra bài cũ để cho thêm
điểm khuyến khích hoặc khi củng cố,cho chép về nhà tìm hiểu.Những câu hỏi
như vậy đã hỗ trợ cho những bài giảng của tôi thêm phong phú,sâu sắc . Và
những học sinh thường vẫn hay sợ vật lý , cho rằng vật lý khô khan trừu tượng
sẽ bớt căng thẳng hơn,yêu thích môn học hơn .Tôi nghĩ rằng người giáo viên

không nên bỏ lỡ cơ hội để giờ học nhẹ nhàng ,sinh động mà sâu sắc hơn .
4-Cố gắng tiếp cận và làm chủ các phương tiện dạy học hiện đại
Đơn giản nhất là máy chiếu H dạy kết hợp với bảng đen.Có thể thay thế các
bảng phụ rất thuận tiện.
Rất khó nhưng không phải là không thể học đượcđể sử dụng đến một mức độ
nào đó-là dạy bằng giáo án điện tử.Có khi cũng chưa hẳn là giáo án điện tử,mới chỉ là
sử dụng Power Point để trình chiếu,như bài tôi đã dạy.Nhưng hiệu quả vẫn hơn hẳn
dùng máy chiếu H,rất tiện lợi và sắc nét. Để dạy bằng cách này người giáo viên rất vất
vả,từ việc phải học vi tính tối thiểu trình độ A,học cách dùng Power Point,vẽ hình
động,phải có máy tính xách tay đến soạn bài,còn nếu chưa có phòng học chức năng thì
còn vất vả hơn nữa.Khi chưa tự vẽ được tôi đã phải hỏi đồng nghiệp cấp III để có mô
hình quay của máy phát điện xoay chiều kiểu nam châm quay và bức tranh động về
hình ảnh các nhà máy thủy điện,nhiệt điện,điện gió,điện nguyên tử,hình vẽ trong bài
MẮT CẬN,MẮT LÃO,lên mạng lấy mô hình động máy phát điện kiểu tịnh tiến,máy
phát điện một chiều, ảnh các đường sức từ Copy từ đĩa học nghiệp vụ hè mô hình
động của máy phát điện xoay chiều loại cuộn dây quay,tất cả được liên kết vào bài
giảng và khi chưa thạo tin học tôi đã phải liên tục hỏi một đồng nghiệp là giáo viên tin
học,tôi đã được chỉ bảo rất tận tình.Một điều nữa cũng rất quan trọng,dạy bằng máy
chiếu dùng Power Point tùy theo từng bài,lượng kiến thức hay tranh vẽ,mô hình đưa
vào bài mà một bài dạy có thể phải có nhiều trang,nhưng làm sao để các kiến thức toàn



bài luôn luôn được lưu lại là tốt nhất.Ở bài “MÀU SẮC VẬT DƯỚI ÁNH SÁNG
TRẮNG VÀ DƯỚI ÁNH SÁNG MÀU” tôi đã cố gắng đạt được điều đó bằng cách
thiết kế bài dạy trên một trang.Toàn bộ kiến thức của bài tôi cho thể hiện trên một
bảng thu nhỏ vừa đủ,phần còn lại của trang :ban đầu là hướng dẫn sử dụng “hộp
nghiên cứu tán xạ” và 2 hình vẽ đúng,sai khi quan sát trong hộp.Xóa hình sai đi.Đến
khi cần xuất hiện các câu hỏi củng cố tôi lại xóa phần không cần nữa là - hướng dẫn sử
dụng “hộp nghiên cứu tán xạ”,hình vẽ đúng.Và toàn bộ phần còn lại của trang tôi đã sử

dụng vừa đủ.(khi soạn bài này,tôi chỉ có phần Power Point 2000,không có hiệu ứng
“biến mất ”nên tôi đã hỏi và phải xóa các phần cần xóa bằng cách tạo một bảng được
bôi cùng màu nền đã chọn có kích thước vừa đủ che nội dung cũ.Ở bài “PHÉP CỘNG
CÁC PHÂN THỨC KHÁC MẪU” ở Đại số 8,tôi vẫn thể hiện được ý tưởng hiện các
nội dung kiến thức trên một trang,chỉ một bài tập củng cố nhỏ và dặn về nhà là ở trang
2.Nhưng đến bài “DÒNG ĐIỆN XOAY CHIỀU” và “MÁY PHÁT ĐIỆN XOAY
CHIỀU” và bài MẮT CẬN MẮT LÃO thì tôi lại phải xử lí cách khác để đảm bảo kiến
thức cơ bản phải được xuất hiện đúng lúc.
Một vấn đề nữa khi dạy bằng máy vi tính là cỡ chữ,màu nền,màu chữ,loại hiệu
ứng.Tôi chọn cỡ chữ 13 cho dù dùng phông chữ Arial hay VnTime,chữ chính màu
đen,chữ cho đáp án hay để chú ý trọng tâm tôi dùng màu khác,nền màu trắng.Tôi
nghĩ,không nên lạm dụng hiệu ứng vào bài,chỉ nên dùng một loại hiệu ứng đơn
giản,không chọn quá nhiều màu lòe loẹt,hình viền bài dạy hoa lá cành.Tất cả những
thứ đó dễ thu hút học sinh rời xa bài học.
Tóm lại,phải nỗ lực vừa làm vừa học hỏi một cách nhiệt tâm cùng với cơ sở
vật chất thuận tiện và sự hỗ trợ nhiệt tình của đồng nghiệp thì mới dạy được bằng máy
chiếu.Bây giờ tôi xin trình bày lại bài dạy tôi đã thực hiện được.
C – GIÁO ÁN MINH HỌA :
I – Giáo án minh họa :
Bài 55 . Tiết 61 . Vật lý lớp 9 :
Màu sắc các vật dưới ánh sáng trắng và dưới ánh sáng màu



(Tôi dạy ở Hội thi giáo viên giỏi TP Hạ Long ngày 2.4.07 với phương
tiện là máy chiếu H và dạy chuyên đề tại trường THCS Lê Văn Tám với máy
chiếu qua đầu ngày 19-11-07,17-04-08 -Chuyên đề cấp cụm)
Tôi xin trình bày ở đây bài soạn cho cả 2 cách dạy bằng máy chiếu
H và bằng máy chiếu qua đầu sử dụng máy vi tính để thấy rõ sự tiện lợi khi sử
dụng công nghệ thông tin.

1 – Mục tiêu bài dạy :
a – Trả lời được câu hỏi: có ánh sáng màu nào vào mắt khi ta nhìn
thấy một vật màu đỏ,màu xanh,vật màu đen
b – Giải thích được hiện tượng : khi đặt các vật dưới ánh sáng trắng
ta thấy có vật màu đỏ,vật màu xanh,vật màu đen.
c – Giải thích được hiện tượng : khi đặt các vật dưới ánh sáng đỏ thì
chỉ các vật màu đỏ mới giữ nguyên được màu,còn các vật màu khác thì màu
sắc sẽ bị thay đổi .
2 – Chuẩn bị :
a – Dụng cụ :
+ “Hộp quan sát ánh sáng tán xạ ở các vật màu“ do bộ trang bị đủ
cho các nhóm , ít nhất 10 hộp cho 40 học sinh
+ Vẽ to 2 hình mà h/s quan sát thấy trong hộp (Cho phương án dùng
máy chiếu H)
- 1 hình vẽ đúng sẽ “dán” lên bảng lúc thích hợp
-1 hình vẽ sai thứ tự màu .
Tự h/s phải phát hiện chọn đúng hình đã quan sát thấy trong hộp ( khi phải trả
lời : em quan sát thấy gì trong hộp )



Cho các phương án dạy các máy:
+ Đèn phát nhiều màu cùng lúc – quay được
+ Đèn phát được lần lượt nhiều màu khác nhau
+ Búp bê có tóc bạch kim , váy chủ yếu là màu trắng hồng
+ Tranh (lịch treo tường) cảnh hồ gươm có màu chủ đạo là màu
xanh da trời .
+ 4 bộ nam châm to , kích thước các bộ khác nhau (Cho phương án
dùng máy chiếu H)
- Bộ 1 : Màu trắng,đỏ,xanhlục = 3 nam châm .

- Bộ 2 : Màu đỏ,đỏ,tối = 3 nam châm .
- Bộ 3 : Màu xanh lục,đen,xanhlục = 3 nam châm .
- Bộ 4 : Màu đen,đen,đen = 3 nam châm .
+ Giấy trong để dùng máy chiếu H in các nội dung :
- Câu hỏi kiểm tra bài cũ :
 2 hình vẽ: hiện tượng phản xạ ánh sáng ở gương phẳng, tán xạ
ánh sáng ở bề mặt vật không phẳng:
Câu 1 :Khi nào mắt ta nhìn thấy một vật ?
Em hãy chọn câu trả lời đúng :
A.Khi vật được chiếu sáng .
B.Khi vật được phát ra ánh sáng .
C.Khi có ánh sáng từ vật truyền vào mắt ta .



D.Khi có ánh sáng truyền từ mắt ta vào vật .
Câu 2 : Em hãy chọn câu trả lời đúng nhất :
A . Mắt ta nhận biết được ánh sáng khi có ánh sáng truyền vào mắt ta .
B . Ta nhìn thấy một vật khi có ánh sáng đi từ vật đó đến mắt ta,ánh sáng ấy có thể
do vật tự nó phát ra hoặc hắt lại ánh sáng chiếu vào nó .
C . Vật đen là vật không tự phát ra ánh sáng và cũng không hắt lại ánh
sáng chiếu vào nó.Ta nhận biết được vật vì có ánh sáng từ các vật bên cạnh đến
mắt ta .
D . Các phát biểu A,B,C đều đúng .
_ Câu hỏi củng cố :
Câu 1 : Khi nhìn thấy vật màu đen thì ánh sáng màu nào đã đi vào mắt ta ?
A. Không có màu nào.
B. Màu đỏ và màu lục .
C. Màu xanh và màu tím .
D. Màu đen .

Câu 2 : Chọn câu đúng :
A. Tờ bìa đỏ để dưới ánh sáng màu nào cũng có màu đỏ
B. Tờ giấy trắng để dưới ánh sáng đỏ vẫn thấy trắng
C. Mái tóc đen ở chỗ nào cũng là mái tóc đen
D. Chiếc bút màu xanh để ở trong phòng tối cũng vẫn thấy
màu xanh .



Câu 3 : Phát biểu nào sau đây là sai khi nói về khả năng tán xạ ánh sáng màu
của các vật ?
A. Vật màu trắng tán xạ tốt ánh sáng màu đỏ
B. Vật màu vàng tán xạ tốt ánh sáng màu vàng
C. Vật màu đen tán xạ tốt mọi ánh sáng màu
D. Vật màu đỏ tán xạ rất kém ánh sáng màu xanh
Câu 4 : Hãy chọn từ thích hợp để điền vào chỗ trống trong các câu sau :
A. Khi nhìn thấy vật màu thì có ánh sáng màu đi từ vật đến
mắt ta .
B. Vật màu có khả năng tán xạ tất cả các ánh sáng màu
C. Vật màu thì tán xạ mạnh ánh sáng màu nhưng kém ánh
sáng các màu
E. Vật màu không có khả năng tán xạ ánh sáng màu nào
.
- Nhận xét sau phần I – SGK (144)
+ Phấn trắng,xanh lục,đỏ,bút dạ màu đỏ.(khi dạy máy chiếu H)
+ In Photo cho từng học sinh bẳng kẻ sẵn(dù dạy bằng máy nào) để học
sinh dễ ghi bài
hoặc giáo viên và học sinh kẻ sắn trước khi vào lớp (do bài dài
và cách ghi bài có thể khác với ngày thường)
+ Chuẩn bị các ví dụ thực tế có liên quan đến các kiến thức trong bài

×