Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

Thương mại điện tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (536.08 KB, 87 trang )

THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
TS. Nguyễn Hoàng Tiến
1
PHẦN A. MÔI TRƯỜNG KINH DOANH CỦA THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
CHƯƠNG A.I. – Tổng quan về Internet và thương mại điện tử
A.I.1. Sự phát triển của mạng Internet và thương mại điện tử
Một trong những thành phần cơ bản của cơ sở hạ tầng thương mại điện tử (e-
commerce) là mạng máy tính phục vụ công tác truyền thông. Trong số nhiều mạng
truyền thông mạng Internet có ý nghĩa lớn nhất và đã trở thành công cụ truyền thông
chính thức và phổ biến nhất cho hơn một tỷ người sử dụng trên toàn thế giới. Vì vậy
khó có thể tưởng tượng các hoạt động thương mại điện tử mà thiếu mạng Internet,
mặc dù trước đây người ta sử dụng các mạng truyền thông khác để tiến hành các giao
dịch máy tính. Tuy nhiên chỉ mạng Internet mới khiến thương mại điện tử trở thành
hiện tượng toàn cầu và ý nghĩa của nó lớn lên cùng với sự phát triển của mạng
Internet. Mạng Internet thường được coi là hiện tượng phi thường của trình độ phát
triển công nghệ mà con người từng triển khai thực hiện. Mạng Internet cũng đã lập
nên kỷ lục thời gian về triển khai đưa vào sử dụng của tất cả các công nghệ từ trước
tới nay trong lịch sử loài người và chỉ có thể so sánh nó với sự thịnh hành và phát
triển của điện thoại di động. Biểu đồ sau sẽ chỉ cho chúng ta cần phải bao nhiều thời
gian để các phát minh của nhân loại có được 50 triệu người sử dụng. Biểu đồ này
minh họa rất rõ ràng mức độ thịnh hành của Internet và vai trò của nó trong truyền
thông liên cá nhân.
.
2
3
Mạng Internet cũng thay đổi hình ảnh của các phương tiện truyền thông
truyền thống khác tạo nên một giá trị mới, như báo chí ngày nay ngoài phiên bản
truyền thống còn có phiên bản trực tuyến; đây là yêu cầu tất yếu không chỉ đối với
các tạp chí lớn có tầm cỡ và uy tín mà ngay cả các tập san nhỏ với chi phí phát hành
khiêm tốn. Đài phát thanh cũng phải chịu sự thay đổi trong thời đại kinh tế mạng
Internet. Trong tương lai có thể xảy ra rằng số lượng người nghe đài trực tuyến nhiều


hơn số lượng người nghe đài truyền thống. Mỹ là nước có số trạm phát thanh qua
mạng Internet nhiều nhất với khoảng 3 ngàn trạm. Một trong số đó là đài phát thanh
www.RadioBoston.com. Sự tự do lựa chọn chương trình ưa thích không chỉ là ưu
điểm duy nhất của các đài phát thanh qua mạng Internet. Đài phát thanh California
qua việc tạo dựng nên trang Web www.Live365.com đã thực sự tiến xa thêm một
bước. Các thính giả có thể tự chọn bài hát, lập thứ tự các bài hát đó và đưa yêu cầu
của mình lên mạng. Một trong những trang đài phát thanh trực tuyến thịnh hành nhất
tại nước Mỹ là www.NetRadio.com. Có đến 120 kênh ca nhạc kết nối với trang này
và nó phát sóng qua mạng tất cả các loại nhạc trên thế giới. Trang
www.NetRadio.com được khoảng 2,5 triệu người sử dụng ghé tới hàng tháng, đây là
một con số rất lớn. Ngành công nghiệp giải trí cũng là yếu tố quan trọng cho sự phát
triển và công nhận về tính phổ cập của mạng Internet. Thành công của công ty
Napster đã chứng minh điều này. Công ty Napster trong vòng 2 năm đầu hoạt động
đã có trên 5 triệu người sử dụng đăng ký.
Mạng Internet cũng là một phương tiện tuyệt vời phục vụ các mục tiêu kinh
doanh, nhờ nó mà các công ty với số vốn điều lệ tương đối nhỏ có thể trong một
khoảng thời gian ngắn kỷ lục trở thành một trong những công ty có tên trong danh
sách các tập đoàn lớn nhất thế giới. Một ví dụ điển hình nhất là công ty Yahoo
(www.yahoo.com) do 2 sinh viên trường đại học California sáng lập, được đưa vào
top 10 công ty lớn nhất thế giới (tháng hai năm 2000). Công ty eBay
(www.eBay.com) được thành lập mùa thu năm 1995 và được niêm yết trên thị
trường chứng khoán NASDAQ, là doanh nghiệp hàng đầu trên thế giới về cung cấp
dịch vụ bán đấu giá qua mạng (Internet Auction), với trên 10 triệu người tham gia
đăng ký và tiến hành khoảng 4 triệu cuộc đấu giá mỗi ngày. Ngoài ra eBay còn cung
4
cấp cho khách hàng 4300 các loại sản phẩm và dịch vụ. Càng ngày có càng nhiều
dòng vốn đầu tư vào Internet. Các công ty thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin
chuyên sâu là động lực chính của chỉ số chứng khoán NASDAQ của những năm cuối
thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI. Hiện tượng mạng Internet đã làm chuyển biến thị
trường chứng khoán và nền kinh tế cả châu Á lẫn châu Âu. Các công ty mạng

Internet với mức vốn hóa trên 10 tỷ USD được niêm yết trên thị trường chứng khoán
không phải là hiếm, còn số lượng các công ty với mức vốn hóa trên 1 tỷ USD lên
đến 100.
STT. Công ty Vốn hóa (mld USD)
1. Microsoft 515,7
2. Cisco 448,0
3. Intel 378,4
4. IBM 208,0
5. Oracle 201,0
6. Lucent 188,9
7. Sun Microsystems 147,5
8. AOL 127,4
9. Time Warner Inc. 108,1
10. Dell Computer 94,6
11. Yahoo! 90,2
12. General Motors 59,9
13. Compaq Computer 43,4
5
14. Ariba 25,4
15. Amazon.com 25,0
16. Ebay 19,8
17. Excite@Home 12,6
18. Red Hat 10,2
19. Netia 1,0
Sức mạnh của khu vực này có thể được nhận biết rõ dựa trên ví dụ điển hình
của công ty Dell. Mức vốn hóa của công ty này, một trong những doanh nghiệp hàng
đầu chuyên buôn bán phần cứng vi tính qua mạng Internet, lớn hơn 2 lần mức vốn
hóa của công ty Compaq (nhà sản xuất máy vi tính lớn nhất), và với mức doanh thu
lớn hơn gấp 2 lần. Có thể thấy rất rõ mức độ liên quan giữa sự chuyên tâm vào
Internet và mức vốn hóa. Đầu thế kỷ XXI rất nhiều công ty đã thay đổi kế hoạch phát

triển của mình dưới ảnh hưởng của kết quả niêm yết của các công ty Internet trên thị
trường chứng khoán. Đồng thời có rất nhiều công ty dùng mạng Internet trong các bộ
phận của mình như nhân sự, hậu cần, tiếp thị và coi phương tiện truyền thông này như
là một kênh thông tin tổng hợp cho các quá trình nội bộ lẫn ngoại vi.
Ý thức về khả năng hỗ trợ các hoạt động thương mại và dịch vụ mà mạng
Internet có thể cung cấp ngày trở nên rõ rệt và mạng Internet bắt đầu được coi trọng
như là một khả năng mới và triển vọng phát triển trong tương lai. Rất nhiều công ty
đã thay đổi kế hoạch của mình bằng cách đưa mạng Internet vào ứng dụng trong hoạt
động kinh doanh của mình. Mạng Internet là một thành tựu kỹ thuật, hiện tượng
truyền thông và thách thức mang tính xã hội lớn lao và dường như tác động của nó
đối với xã hội lớn không kém gì máy in, điện, ô tô, máy bay hay thuốc kháng sinh
trước đây. Mạng Internet tạo ra một thế giới của xã hội thông tin được toàn cầu hóa
bằng cách xóa bỏ sự chia rẽ mang tính chất dân tộc và văn hóa, nâng cao chất lượng
6
lao động, nhưng không cứ phải mang đến sự thay đổi về mặt con người và xã hội theo
hướng hoàn thiện hơn. Hậu quả xã hội của sự phát triển của mạng Internet vẫn còn
chưa rõ. Thật đáng tiếc, mạng Internet cũng là nơi hoạt động của nhiều loại tội phạm
khác nhau, nhiều băng đảng và tổ chức hình sự khác nhau. Bảng sau đây nêu lên số
lượng các cuộc tấn công tin tặc vào các vùng tên miền quốc gia trong những năm
1998-2000 (theo www.attrition.org)
STT. Quốc gia Vùng tên miền Số lượng tấn công
1. Mỹ com,edu,gov,org 5725
2. Anh uk 209
3. Đức de 106
4. Đài Loan tw 82
5. Nga ru 83
6. Israel il 65
Trong một xã hội thông tin ngày nay tài sản lớn nhất luôn là kiến thức và các
kỹ năng tư duy sáng tạo. Các phương tiện tài chính sẽ chuyển dịch từ quốc gia nọ
sang quốc gia kia vượt khỏi phạm vi kiểm soát của chính phủ, làm suy yếu chính

quyền quốc gia và củng cố thế mạnh cho những nhóm lực lượng biết cách sử dụng tốt
nhất những phương tiện truyền thông hiện đại này. Sẽ có những nguy cơ phân cách xã
hội đáng kể do mạng Internet có thể gây lên. Không lâu nữa ta có thể phân biệt con
người thành những cá nhân biết cách sử dụng những lợi ích do mạng Internet mang
lại và những cá nhân không có thể làm được việc đó.
A.I.2. Mạng Internet và thương mại điện tử trên toàn thế giới
Do khu vực tin học và viễn thông (ICT – Information and Communication
Technology) của Mỹ (10% GDP) lớn gấp đôi so với châu Âu tính theo tỉ lệ đóng góp
cho thu nhập quốc dân GDP và mức độ tăng trưởng (15%) cũng lớn gấp đôi so với
toàn bộ châu Âu, do đó sự thống lĩnh của Mỹ trong phạm vi mạng Internet và thương
mại điện tử là rất rõ rệt. Tuy nhiên điều này không liên quan tới những nước khu vực
Bắc Âu như: Na Uy, Thụy Điển và Phần Lan. So sánh các dữ liệu thống kê cho thấy,
đầu thế kỷ XXI chỉ có 24% các công ty sản xuất của châu Âu có trang mạng Internet,
trong khi đó ở Mỹ là 86%, và ta thấy rõ sự đi tiên phong và vượt trội của Mỹ trong
7
lĩnh vực này. Vì thị trường Internet của châu Âu nhỏ hơn, cho nên doanh thu từ các
hoạt động dựa trên mạng Internet cũng theo đó mà thấp hơn so với Mỹ. Theo công ty
International Data Corporation (IDC), chuyên về nghiên cứu thị trường thì thị trường
thương mại điện tử năm 2003 đạt doanh thu 1600 tỷ đô la Mỹ. Đồng thời sự tham gia
của Mỹ vào thị trường này bị co lại do sự tăng trưởng mạnh hơn của khu vực các
nước còn lại trên thế giới, đặc biệt là những khu vực đang phát triển. Chẳng hạn như
năm từ 1999 đến năm 2000 thị phần thương mại điện tử của Mỹ trên phạm vi toàn
cầu bị giảm từ 62% xuống còn 48% và còn giảm nữa trong những năm tiếp theo.
Theo European Information Technology Observatory (EITO) thì tại châu Âu doanh
thu từ các giao dịch Business-to-Business (chỉ những giá trị đầu cuối chứ không phải
cả những giá trị trung gian trong chuỗi cung ứng) là khoảng 17,9 tỉ EURO năm 2000,
nhưng năm 2002 đã là 277,6 tỉ EURO. Nhằm đảm bảo tăng trưởng của thương mại
điện tử cho châu Âu những dự án đầu tư đáng kể liên quan tới xây dựng cơ sở hạ tầng
mạng và phát triển các dịch vụ kết nối mạng. Tuy nhiên đa số nguồn kinh phí đã
nhằm vào mục tiêu giải quyết các vấn đề bảo an, dung lượng mạng và duy trì sự bảo

mật cá nhân trên mạng. Một vấn đề không nhỏ nhưng lại hết sức đặc thù cho châu Âu
là các rào cản pháp lý, ngôn ngữ và văn hóa. Giá thành của các dịch vụ viễn thông tại
châu Âu là tương đối cao và có thể không khuyến khích các cá nhân tích cực sử dụng
mạng Internet. Xuất hiện những xu hướng rõ rệt (đặc biệt là tại Anh và các nước Bắc
Âu) như chỉ thu phí kết nối với mạng Internet theo tháng, quý hay năm chứ không thu
phí cài đặt và các phần cứng cần thiết phụ kèm. Khoảng cách về sự phát triển công
nghệ thông tin giữa châu Âu và Mỹ và ngày càng lớn bất chấp những nỗ lực rút ngắn
nó của các nhà chức trách lục địa này. Do đó trong vòng thập kỷ tới Mỹ vẫn là nước
tiên phong và định hướng phát triển mạng Internet và thương mại điện tử của cá thế
giới. Những xu hướng phát triển mạng Internet chính của châu Âu là:
• Xây dựng mạng bộ khung toàn châu Âu bao gồm những thành phố lớn nhất tại
châu lục này.
• Các nhà điều hành dịch vụ viễn thông ngày càng quan tâm tới mạng Internet
như: T-Mobil Deutsche Telecom, British Telecom, France Telecom (qua việc
triển khai mạng Minitel).
8
• Dựa các hoạt động thương mại điện tử vào mạng lưới dịch vụ di động qua sử
dụng hệ thống thống nhất toàn châu Âu GSM – cơ hội nhằm đuổi kịp sự phát
triển của nước Mỹ.
Dựa trên các dự liệu là các kết quả nghiên cứu của Pyramid Research đã được
tiến hành tại 8 nước Đông Âu liên quan tới khả năng tiếp cận và sử dụng mạng
Internet ta có thể thấy khoảng cách cực lớn giữa Mỹ, các nước Tây Âu và các nước
Đông Âu. Tuy nhiên khoảng cách này ngày càng được rút ngắn và đến năm 2010
mức phát triển của hai khu vực này sẽ là tương đương hoặc không hơn kém nhau
mấy. Những nghiên cứu cho ta thấy rằng dưới góc độ tiếp cận mạng Internet các nước
Đông Âu có thể phân chia ra làm hai khu vực:
• Các nước tiên phong – Ba Lan, Séc, Hungari và Slovakia thuộc khối EU25
• Các nước bên lề (tụt hậu hơn nhiều so với các nước phương Tây) – Nga,
Ukraina, Rumani, Bungari ngoài khối EU25 (Rumani và Bungari thuộc khối
EU27).

Tỉ lệ dân số tiếp cận với mạng Internet của các nước nhóm thứ nhất là từ 2 đến
5%, nhóm thứ hai là dưới 1%, trong khi đó chỉ số này đối với các nước phương Tây
là từ 20 đến 25% theo các dữ liệu của những năm đầu thế kỷ XXI.
Một trong những yếu tố chính tác động tới ảnh hưởng tới sự chấp nhận mạng
Internet trên toàn cầu là mức độ bão hòa và khoảng cách địa lý của hạ tầng viễn
thông. Một trong những yếu tố chính góp phần tăng tốc sự phát triển của mạng
Internet là, theo như báo cáo nêu trên, hạ tầng viễn thông hiện đại, chất lượng cao. Sự
bùng nổ các thế hệ điện thoại không dây có thể cũng có ảnh hưởng đáng kể đối với
tốc độ triển khai các công nghệ tiếp cận mạng Internet khác, tất nhiên nếu giá thành
những dịch vụ này là hợp lý. Dịch vụ kết nối mạng Internet đầu tiên có mặt tại các
nước Đông Âu vào những năm 1995-1996, trước tiên tại Ba Lan và Hungari. Chẳng
bao lâu sau, các dịch vụ này cũng có mặt tại Séc và Slovakia. Nguyên nhân chấp nhận
mạng Internet như một công cụ truyền thông là các nhà cung cấp dịch vụ truy cập
mạng Internet (ISP), do cạnh tranh, đã phải hạ thấp giá thành kết nối và truy cập
mạng. Thứ hai, giá thành của máy tính cá nhân và các thiết bị phần cứng kết nối mạng
Internet ngày càng giảm. Theo Pyramid Research thì một trong những yếu tố chấp
9
nhận mạng Internet cũng có thể là sự phát triển của các công nghệ kết nối và truy cập
khác như mođem cáp hay đường dẫn DSL. Những công nghệ này lần đầu tiên được
triển khai tại Nga và Ba Lan đã mang lại kết quả hết sức hứa hẹn. Theo báo cáo này
thì năm 2004 số lượng các cá nhân truy cập mạng Internet tại Đông Âu là 11 triệu
người. Nhưng theo những nguồn thông tin khác, như Ease-Europe thì có tới khoảng
40 triệu người truy cập mạng Internet vào cùng thời điểm này tại khu vực này. Tuy có
sự khác nhau đáng kể trong những báo cáo của các công ty nghiên cứu nêu trên, một
điều chắc chắn là mạng Internet với tư cách là một kênh truyền thông mới, đã phá kỷ
lục về mức độ thịnh hành và mức độ chấp thuận đối với các công nghệ khác khám
phá ra từ trước tới đây. Do đó, xu hướng này cũng đang diễn ra tại khối các nước hậu
xã hội chủ nghĩa Đông Âu. Theo những nguồn thông tin khác, như OBOP của Ba
Lan, thì mức độ chấp thuận tại khu vực này đã là 10%.
Các nghiên cứu về người sử dụng mạng Internet đã và đang được nhiều cơ quan

tiến hành, chẳng hạn như Georgia Institute of Technology đã thực hiện công trình
nghiên cứu mang tên GVU’s WWW User Survey với mục tiêu xác định tiết diện
cá nhân điển hình nhất của những người sử dụng mạng Internet bình thường. Tuổi
trung bình của người sử dụng mạng Internet là 35,2 và ngày càng có xu hướng gia
tăng, trái lại theo American Internet User Survey thì độ tuổi trung bình này là
36,5. Tuổi trung bình của phụ nữ sử dụng mạng Internet theo công ty NetSmart là
khoảng 41. Excite Inc. Nêu ra rằng 14% người sử dụng mạng Internet là ở độ tuổi
trên 50 nhưng có đến 34% cộng đồng người sử dụng Internet là sinh viên và các
thanh thiếu niên. Đa số những thành viên của cộng đồng Internet này lại là đàn
ông (66,59%). Tại châu Âu thì số lương đàn ông chiếm đa số (85,35%) ngay cả
khi so với Mỹ. Có đến 65,04% các cá nhân sử dụng mạng tự phải trả tiền nối
mạng (sử dụng tại nhà), phần còn lại sử dụng mạng tại nơi làm việc. Ngoài ra có
đến 35,17% cộng đồng mạng Internet vào mạng hàng ngày thay vì xem TV.
Những người sử dụng mạng Internet thường là những thành phần có học vấn -
54,24% đã tốt nghiệp đại học. Cơ cấu nghề nghiệp của những thành phần đó là
như sau: 30,24% - tin học, 24,48% - công tác khoa học, 20,61% - làm các nghề
nghiệp tự do, 14,73% - đại diện cho các nghề khác, còn 9,95% - là các nhà quản
lý. Khoảng 98,36% trong số người sử dụng mạng Internet cũng dùng hòm thư
10
điện tử. Giao dịch mua bán qua mạng, mặc dù chỉ một lần - 61,47%, và người Mỹ
(64,62%) thường xuyên mua bán qua mạng hơn người châu Âu (50,47%). Theo
Forrester Research thì doanh thu từ các giao dịch thương mại điện tử B2C năm
2000 đạt 6600 tỷ đô la Mỹ. Theo ActivMedia thì chỉ năm 2002 giá trị các giao
dịch B2C qua mạng Internet đã vượt quá 1200 tỷ đô la Mỹ, tương đương với 3,8%
tổng giá trị giao dịch thương mại toàn cầu. Phân tích việc sử dụng mạng Internet
với mục đích thương mại tính theo từng khu vực kinh tế đã chỉ ra rằng khu vực
dịch vụ (41%) và bán lẻ (B2C – 23,5%) chiếm đa số các giao dịch. Vị trí của các
nhà sản xuất (17,5) và bán buôn (8%) cũng rất yếu vì theo phân tích chính những
đối tác này sẽ chiếm lĩnh thị trường thương mại điện tử trong tương lai. Bảng sau
giới thiệu các mặt hàng và dịch vụ thường được mua bán qua mạng Internet trong

những năm cuối thế kỷ XX và giá trị giao dịch của chúng tính theo triệu đô la Mỹ.
Phân khúc thị trường 19
96
19
97
199
8
19
99
200
0
2000/
1996
(lần)
Vi tính 14
0
32
3
701 12
28
210
5
15
Du lịch 12
6
27
6
572 96
1
157

9
12,5
Giải trí 85 19
4
420 73
3
125
0
14,7
May mặc 46 89 163 23
4
322 7
Hoa / quà tặng 45 10
3
222 38
6
658 14,6
Đồ uống / các mặt
hàng thực phẩm
39 78 149 22
7
336 8,6
Khác 37 75 144 22
1
329 8,8
Tổng 51
8
11
38
237

1
39
90
657
9
12,7
11
Một vấn đề rất quan trọng là càng ngày người ta càng ít để ý hơn tới độ an
toàn của các giao dịch mạng và kết quả là gia tăng số người mua bán qua mạng, hơn
nữa danh mục các mặt hàng của các của hiệu Internet ngày càng phong phú hơn. Các
nghiên cứu về mua bán qua mạng Internet do Forrester Research tiến hành bao gồm
40 nghìn người từ 31 quốc gia, đã đưa ra kết quả là có đến 38 % các cá nhân được
tra hỏi có mua bán qua mạng (năm 2003). So với năm 2002 thì số lượng người sử
dụng mạng Internet năm 2003 đã tăng 33% trên toàn cầu, nhưng tại nước Mỹ thì chỉ
tăng có 23%. Điều này chứng minh rằng thị trường thương mại điện tử tại Mỹ đã bắt
đầu bão hòa và tăng trưởng chậm lại. Cũng trong thời gian đấy số lượng trang Web
trên toàn cầu tăng 75%, số lượng người mua bán trên mạng Internet tăng 47%, nhanh
hơn mức độ tăng trưởng của số lượng người sử dụng mạng. Các phân tích trên đã
chứng minh về mức độ tăng trưởng nhanh chóng của mạng Internet và đặc biệt của
thương mại điện tử, kéo theo sự tăng trưởng của các ngành như viễn thông, dịch vụ
chuyển phát và một số ngành kinh tế truyền thống khác có liên quan ít nhiều tới
thương mại điện tử.
Câu hỏi ôn tập:
 Ý nghĩa của Internet đối với sự phát triển TMĐT?
 Những giá trị mới do Internet mang lại?
 Sự phát triển của các công ty Internet như Yahoo, eBay, Amazon
thành những tập đoàn tầm cỡ thế giới?
 Sự tác động của Internet tới TTCK toàn cầu?
 Hậu quả kinh tế và xã hội của sự phát triển Internet?
 Phân tích thị trường TMĐT tại các khu vực trên thế giới và xu hướng

phát triển tiếp theo của Internet?
 Tiết diện cá nhân của người sử dụng Internet điển hình?
12
CHƯƠNG A.II. – Nền kinh tế trị thức và xã hội thông tin Việt Nam
Công nghệ thông tin, với tư cách là một ngành công nghiệp mới, đầy triển
vọng của Việt Nam, bao gồm những phạm vi dịch vụ và sản phẩm sau: dịch vụ cài
đặt phầm mềm, đào tạo kỹ năng sử dụng các hệ thống thông tin và các chương trình
sử dụng, công nghệ phần mềm, phần mềm chuyên dụng nhằm đáp ứng nhu cầu của
các doanh nghiệp thuộc các khu vực kinh tế khác nhau. Công nghệ thông tin cũng đã
hiện diện tại các khu vực kinh tế và hành chính nhà nước và bao gồm các chương
trình chính phủ điện tử (e-government) với mục tiêu là phục vụ dân chúng. Ngân
sách đầu tư vào các dự án tin học hóa khu vực hành chính sự nghiệp là không nhiều
nếu so với các khu vực kinh tế khác như năng lượng, tài chính, hàng không mà luôn
được nhà nước kiểm soát do ý nghĩa chiến lược của các ngành đó. Cũng chính vì
thế, những dự án tin học hóa đầu tiên của chính phủ hướng tới khu vực hành chính
sự nghiệp đang được tiến hành song song với quá trình cải cách diễn ra trong vòng
10 năm. Chuyển giao công nghệ là một quá trình đầu tư, bởi vì nó có liên quan tới sự
mua bán, trao đổi công nghệ, và việc trang bị cho các doanh nghiệp những máy móc
mới nhằm nâng cao chất lượng và tính cạnh tranh của sản phẩm và hiệu quả sản
xuất. Việt Nam là một nước đang phát triển, cho nên trong quan hệ chuyển giao
công nghệ thường đóng vai trò là bên nhận các công nghệ mới có xuất xứ từ những
13
nước phát triển cao hay các nước với nền kinh tế mới nổi NICs (Newly
Industrialized Countries).
A.II.1. Thương mại điện tử - hướng phát triển chính của nền kinh tế tri thức
Vào thời kỳ cuối năm 1994và đầu năm 1995 Việt Nam đã bắt đầu triển khai
Chương Trình Công Nghệ Thông Tin Quốc Gia (National Program for IT). Từ năm
1998, có nghĩa là sau 3 năm đổi mới và mở cửa nền kinh tế, Việt Nam đã tổ chức
những chương trình đào tạo nâng cao nhận thức của nhân viên các cơ quan hành
chính và các doanh nghiệp về vai trò của nền kinh tế tri thức. Trong thành phố Hồ

Chí Minh đã diễn ra các chương trình vận động quảng bá mạng Internet với tư cách
là công cụ quảng cào và tiếp thị hữu hiệu, đặc biệt là đối với các khách hàng là
người nước ngoài. Cuối năm 1998 đã xuất hiện siêu thị ảo đầu tiên do công ty FPT
thành lập. Siêu thị này cung cấp khoảng 15.000 mặt hàng được người tiêu dùng ưa
chuộng nhất. Cũng trong năm ấy, một dự án thành lập Hội Đồng Thương Mại Điện
tử Quốc Gia được đệ trình chính phủ phê duyệt. Cùng với Bưu Điện Trung Ương,
Bộ Thương Mại đã nhanh chóng và tích cực nghiên cứu việc triển khai đưa các ứng
dụng của thương mại điện tử vào nền kinh tế.
Trong vòng 2 năm, năm 1998 và năm 1999 Việt Nam đã khuyến khích và đưa
ra nhiều chính sách ưu đãi đối với các chuyên viên công nghệ thông tin, chẳng hạn
như các chế độ lương bổng hết sức ưu đãi cho các nhà tin học chuyên nghiệp. Chất
lượng đào tạo tin học nội bộ cũng đã được nâng cao qua việc sử dụng kinh nghiệm
của nước ngoài thông qua các chương trình trao đổi sinh viên, giảng viên và những
lực lượng lao động còn lại. Phạm vi ứng dụng công nghệ thông tin đã được triển
khai tại các trường đại học thông qua các chương trình đào tạo sinh viên theo hệ từ
xa qua mạng. Các chương trình nghiên cứu và phát triển của các trường đại học đã
được triển khai trong môi trường kinh doanh thực tiễn cùng với sự tham gia của các
doanh nghiệp. Trong xã hội Việt Nam ngày nay nhu cầu học tin học và ngoại ngữ
ngày càng được coi trọng, đặc biệt tại các thành phố lớn. Mặt khác, người ta tiến đến
việc tạo nên các phần mềm tiếng Việt để dễ sử dụng bằng cách dịch các phầm mềm
nước ngoài hay tự sản xuất lấy phần mềm trong nước. Theo đánh giá của các chuyên
viên tin học và giáo dục thì khoảng cách giữa sự hiểu biết về vi tính và khả năng ứng
14
dụng vào thực tế cách nhau hơi xa. Việc ứng dụng mạng Internet không được phổ
biến lắm, ngay cả hiệu quả sử dụng và khai thác tài nguyên trên mạng vẫn còn ở
mức độ chưa được thỏa mãn. Người ta đặt trọng tâm vào công nghệ thông tin trong
các chương trình phát triển kinh tế qua việc coi các hệ thống thông tin như một hạ
tầng quan trọng không mang tính chất kỹ thuật mà mang tính chất kinh tế-xã hội.
Nhằm thực hiện được mục tiêu này nhà nước bảo đảm một nguồn ngân sách đủ và
giải ngân đúng hạn dành cho việc thực hiện các dự án tin học đã được phê duyệt. Tất

cả các đơn vị sử dụng nguồn tài chính từ các quỹ phát triển của nhà nước trước hết
phải cam kết sử dụng sản phẩm và dịch vụ tin học của các công ty trong nước, còn
các dự án đầu tư công nghệ thông tin phải do các đơn vị trong nước thực hiện.
Trường hợp giao cho đối tác nước ngoài thực hiện chỉ có thể xảy ra khi các đơn vị
trong nước không đủ năng lực để thi công. Các sản phẩm và dịch vụ tin học có xuất
xứ nội địa sẽ không bị đánh thuế VAT, còn các công ty hoạt động trong ngành công
nghệ thông tin có thể sẽ được đánh thuế thu nhập ở mức độ ưu đãi hơn, được vay tín
dụng và thuê đất cũng với mức giá và nguyên tắc mang tính chất hết sức là khuyến
khích và ưu đãi.
A.II.2. Chính phủ điện tử - cấu phần của chương trình xã hội thông tin
Với mục tiêu kết nối các chương trình tin học hóa với công cuộc cải tổ hành
chính (những năm 2001-2010), Thủ tướng Chính phủ đã khởi động giai đoạn đầu
tiên của dự án tin học hóa triển khai vào những năm 2001-2005. Tin học hóa các cơ
quan hành chính là dự án đầu tiên mà chính phủ thực hiện trong khuôn khổ Chương
Trình Tin Học Hóa Quốc Gia (NPIT – National Program for IT), Chương trình này
nhằm hỗ trợ thực hiện công tác cải tổ hành chính với mục tiêu chính là hiện đại hóa
các cơ quan hành chính, trong đó bao gồm việc triển khai hệ thống thông tin chính
phủ tích hợp diện rộng kết nối các hệ thống tin học hiện hữu của các cơ quan chính
phủ các cấp bậc. Việc thực hiện công cuộc cải cách này bao gồm hai giai đoạn: giai
đoạn một đã qua là thời kỳ năm 2001-2005, giai đoạn thứ hai là thời kỳ năm 2006-
2010. Chính phủ điện tử được coi như là một trong những cấu phần quan trong nhất
lập thành nền tảng của xã hội thông tin và nền kinh tế tri thức.
15
Việc đào tạo chuyên môn về tin học cho các cán bộ viên chức đã diễn ra song
song với quá trình triển khai công nghệ thông tin, những kết quả của nó không diễn
ra giống như mong đợi. Những nguyên nhân của hiện trạng như vậy có thể là: thiếu
sự coi trọng từ phía các cán bộ nhà nước đối với vai trò của công nghệ thông tin
trong quản lý hành chính, thiếu sự phổ cập rộng rãi công nghệ thông tin trong khu
vực hành chính nhà nước. Sự trao đổi thông tin giữa các cơ quan hành chính sự
nghiệp và giới doanh nghiệp, xã hội và cộng đồng quốc tế luôn được nhấn mạnh

cùng với sự bảo đảm đầy đủ quyền sở hữu và bảo mật thông tin. Nhà nước khuyến
khích các công ty và các công dân liên hệ với các cơ quan hành chính qua đường
điện tử, đồng thời mở rộng phạm vi chức năng của các hệ thống thông tin quốc gia.
Thông qua chính sách ưu đãi về thu phí dịch vụ viễn thông, sự phát triển của chính
phủ điện tử và các hoạt động thông tin khác hướng tới một xã hội và môi trường
kinh doanh hiện đại đang được đẩy mạnh. Cũng với mục tiêu bảo vệ quyền lợi dân
tộc, cũng như quyền lợi khu vực thông tin nước nhà, tất cả các dự án công nghệ
thông tin về đầu tư hay đặt mua của chính phủ đều được thực hiện thông qua đấu
thầu. Nếu các gói thầu của các công ty tham gia không khác nhau lắm, khi đó công
ty nội địa sẽ được khuyến khích lựa chọn.
A.II.3. Chuyển giao công nghệ - chiến lược chuyển đổi sang nền kinh tế tri thức
Sự phát triển và chuyển giao công nghệ được khuyến khích nhất nhằm kết nối
và thích nghi Việt Nam với quá trình toàn cầu hóa diễn ra trên toàn thế giới. Chuyển
giao công nghệ của Việt Nam ra nước ngoài đang ở giai đoạn khởi điểm và chủ yếu
chỉ liên quan tới công nghiệp nhẹ và thực phẩm.
Mục tiêu của chiến lược chuyển giao công nghệ của Việt Nam là đa dạng hóa
các nguồn cung ứng công nghệ. Việc đa dạng hóa cung cấp các giải pháp công nghệ
tạo cho bên nhận một lợi ích tối đa, trước tiên là sự an toàn về mặt công nghệ; còn
bên cung ứng cũng sẽ có thêm nhiều phương án chuyển giao (dạng, phương pháp và
nội dung chuyển giao); các đối tượng Việt kiều xa xứ thì có cơ hội quay trở về quê
hương làm việc; phát triển các công ty nội địa thông qua việc hợp tác với các đối tác
nước ngoài. Một trong những phương án là cho phép Việt kiều tri thức thuộc nhiều
ngành công nghệ khác nhau quay về nước. Các khoản vay mượn từ phía bên nước
16
ngoài dành cho các công ty Việt Nam đang thực hiện các dự án dưới sự hướng dẫn
của các tập đoàn đa quốc gia cũng đã được triển khai. Sự hợp tác này diễn ra tại các
khu công nghiệp đặc biệt. Các công ty nằm trong khu công nghiệp (nghệ) cao này có
lợi thế về chính sách ưu đãi và mức hấp dẫn đầu tư so với các công ty ngoài. Đây
chính là nơi hợp tác của các doanh nghiệp Việt Nam với các tập đoàn nước ngoài
và/hoặc các dự án đầu tư độc lập của họ. Chính phủ Việt Nam phối hợp với chính

quyền địa phương các cấp các ngành trong phạm vi tạo dựng nên môi trường chuyển
giao công nghệ mang tính cạnh tranh cao như thông qua việc ưu đãi về thuế nhằm
thu hút tới vùng đó những công nghệ cần thiết, chính sách đầu tư ưu đãi tại các vùng
kém phát triển, hỗ trợ trong phạm vi tìm kiếm và tạo điều kiện hợp tác với các đối
tác nước ngoài.
Những mục tiêu chính của những chương trình này bao gồm: thích ứng tổ
chức với việc chuyển giao công nghệ một cách nhanh chóng, triển khai ngay các
công nghệ đã được chuyển giao vào hoạt động sản xuất, loại bỏ việc chuyển giao
những công nghệ không cần thiết hay trùng lặp, loại trừ tham nhũng trong những
vấn đề tài chính của chuyển giao công nghệ. Do vậy, cần phải ý thức được vai trò
của chuyển giao công nghệ trong sự tăng tốc phát triển xã hội kinh tế đối với các
đơn vị tổ chức nhỏ là những bên nhận hay bên trung gian trong quá trình chuyển
giao. Các dự án đầu tư nước ngoài có tác động tích cực tới sự phát triển công nghệ
tại Việt Nam. Hiện tại thì Việt Nam đã có thể sản xuất ra các sản phẩm được chế
biến cao với các máy móc phức tạp và độ chuyên sâu về mặt công nghệ.
A.II.4. Các hạn chế và rào cản của nền kinh tế tri thức Việt Nam
Việc triển khai các dự án tin học luôn có thể xê dịch các quyền lợi từ chỗ này
(nhóm người cao tuổi có kinh nghiệm nghề nghiệp lâu năm) sang chỗ khác (nhóm
người được lớn lên trong xã hội thông tin, biết nhiều ngoại ngữ và sử dụng tốt vi
tính) trong cơ cấu của một tổ chức hay toàn thể xã hội. Điều này liên quan tới những
xung đột về mặt quyền lợi cần phải được giải quyết, nhất là mọi cá nhân đều muốn
tạo dựng riêng cho mình một cấu hình các mối quan hệ xã hội sao cho có lợi cho
mình nhất. Các công ty cần phải nâng cao tính cạnh tranh và thực hiện những dự án
đầu tư mới. Các quan chức nhà nước thì lo sợ bị sa thải tập thể do thiếu khả năng
17
thích ứng với thực tế của môi trường làm việc ảo. Các công dân có thể lo lắng trước
sự cắt giảm trợ giúp xã hội do phải tập trung nguồn kinh phí để đầu tư vào công
nghệ mới. Bởi vậy, các nhà chiến lược và chính sách đã thực hiện các cuộc vận động
mang tính chất thông tin và giáo dục hướng tới toàn bộ xã hội thông qua hỗ trợ về
mặt kiến thức và thông tin, đào tạo về tin học và các khả năng chuyển sang nghề

mới, hỗ trợ tài chính cho các công ty làm ăn thua lỗ.
Đa số các cán bộ công chức nhà nước không quen với cuộc sống và công việc
trong môi trường ảo. Do đó, rất khó thay đổi phong cách làm việc mà họ đã thích
nghi và đã quen từ lâu. Chúng ta có thể trông chờ vào các thế hệ trẻ được đào tạo cả
trong và ngoài nước. Ngay cả trong văn hóa tổ chức có thể nhận thấy thiếu những kỹ
năng làm việc nhóm khi phải tập trung vào các dự án lớn với bản chất công việc là
hợp tác, tin tưởng lẫn nhau, thông cảm, chấp nhận, chia sẻ trách nhiệm và truyền
thông trực tiếp.
Việt Nam là nước với tỷ lệ số người có học vấn cao nhất khu vực ASEAN.
Tuy nhiên nước ta vẫn thiếu những kỹ sư giỏi, đầy tham vọng, biết cách triển khai
ứng dụng các dự án công nghệ mới vào thực tiễn. Chúng ta cũng thiếu cả những
chính sách khuyến khích và ưu đãi từ phía nhà nước, chẳng hạn như trong phạm vi
tương đồng giữa giá trị của đóng góp dưới dạng sản phẩm có giá trị sử dụng thực
tiễn và mức thu nhập của tác giả đã sáng chế ra sản phẩm đó. Những biện pháp cải
thiện tình hình tài chính khu vực công và cải thiện hoàn cảnh sống của cán bộ công
nhân viên chức nhà nước vẫn chưa được triển khai rõ ràng. Thu nhập bình quân đầu
người thấp tại khu vực nhà nước không thu hút được những nhân tài được đào tạo tại
những nước phát triển cao. Có nhiều lý do mà khu vực nhà nước không thu hút được
nhân tài. Một là, thăng tiến lên vị trí cao không đồng nghĩa với sự tăng lương đáng
kể đối với những cán bộ công nhân viên nhà nước. Hai là, thiếu chính sách chất
lượng rõ ràng trong quản trị nguồn nhân lực và thị trường hóa những nguồn nhân lực
đó. Điều này có nghĩa là các cán bộ công chức nhà nước không được khuyến khích
nâng cao trình độ chuyên môn của mình để thực hiện những công việc trọng trách
một cách hiệu quả góp phần triển khai tốt những chiến lược phát triển hành chính
quốc gia. Ba là, chúng ta thiếu luôn cả khả năng nhận xét đánh giá một cách khách
quan các kết quả xã hội của từng công việc của từng cá nhân trong cơ quan nhà
18
nước. Điều này do sự thiếu khả năng kiểm duyệt kết quả công việc do các đơn vị
nhà nước thực hiện dựa trên những thông tin được tiếp cận hết sức công khai và rõ
ràng. Hơn nữa, một phần cũng là do không có sự phân chia rõ ràng và không có

biện pháp quy trách nhiệm đối với nhiệm vụ được giao cho từng đơn vị chính quyền
cụ thể.
Các nỗ lực và sự chủ động sáng tạo về mặt công nghệ và tổ chức của nhà
nước trong lĩnh vực công nghệ và chuyển giao công nghệ góp phần đạt được những
lợi ích dài hạn và dần dần rút ngắn khoảng cách Việt Nam so với các nước khác khu
vực ASEAN và thế giới. Trong chiến lược quốc gia tổng thể, dưới góc độ này, có thể
thấy rõ quyết tâm của chính quyền các cấp, đảng và chính quyền địa phương. Việc
thực hiện chiến lược này gặp phải nhiều khó khăn và cản trở như: khả năng tài chính
hạn chế và sự lệ thuộc vào những nguồn tài chính bên ngoài (đầu tư nước ngoài),
văn hóa tổ chức của xã hội, hạ tầng thông tin quốc gia kém phát triển. Về mặt phong
cách sống và làm việc, thì đa số người Việt chúng ta không quen với các giao dịch
phi tiền mặt, hơn nữa thói quen mua bán trao tay các sản phẩm và dịch vụ và thanh
toán bằng tiền mặt là rất khó thay đổi. Từ lâu, người Việt mình đã quen sống và làm
việc trong những xã hội nhỏ lẻ cho nên chúng ta không thể ngay tức thì tiếp nhận
phong cách lao động nhóm phân tán ở mức độ toàn cầu. Điều này cũng liên quan tới
cách sống tôn trong luật pháp, kỷ cương lao động hay các chuẩn mực của các quốc
gia phát triển cao. Các yếu tố này được coi là những yếu tố bản lề trong nền kinh tế
tri thức và xã hội thông tin, nhưng lại không được thỏa mãn trong điều kiện hiện tại
của Việt Nam do mức sống và năng suất lao động quá thấp, các phương pháp tổ
chức và quản lý còn chưa chuẩn. Các yếu tố nêu trên đã cản trở đáng kể sự tiến bộ
và phát triển của nền kinh tế tri thức nước ta. Thu nhập của các hộ gia đình ở mức
thấp đã rất hạn chế khả năng tiếp cận với các công cụ thương mại điện tử hiện đại.
Trái lại, chi phí mua phần cứng và các dịch vụ mạng còn quá cao so với một số nước
trong khu vực ASEAN.
Câu hỏi ôn tập:
 TMĐT là định hướng phát triển chính của nền kinh tế tri thức?
 Tình hình và chính sách đào tạo về TMĐT của thế giới và Việt Nam?
19
 Sự phát triển TMĐT và hiệu quả sử dụng Internet tại các DN Việt Nam?
 Vai trò của CPĐT trong xây dựng xã hội thông tin?

 Phân biệt và phân tích hiệu quả của các chiến lược CGCN?
 Phân tích hiện trạng của nền kinh tế trí thức Việt Nam?
CHƯƠNG A.III. – Cơ sở hạ tầng của thương mại điện tử Việt Nam
A.III.1. Nguồn nhân lực về CNTT và cộng đồng công dân mạng Internet
Tiềm năng nhân lực của ngành công nghệ thông tin Việt Nam
Cho đến năm 1980 các trường đại học Việt Nam không có khoa công nghệ thông
tin, đồng thời đất nước lúc đó đang thiếu hệ thống đào tạo các chuyên viên tin học. Đội
ngũ tin học trước những năm 80 bao gồm chủ yếu các nhà toán học chuyển sang ngành
tin học bằng cách tự đào tạo trong lúc những máy tính đầu tiên xuất hiện tại Việt Nam
và những chuyên viên tin học được đào tạo ở nước ngoài (chủ yếu là từ khối chủ nghĩa
xã hội) quay trở về nước. Đa số những nhà tin học đã trở thành những chuyên viên lành
nghề cho dù điều kiện môi trường công nghệ và môi trường nghiên cứu tại thời điểm đó
hết sức khó khăn. Sau năm 1980, phần lớn các trường đại học đã mở ra khoa công nghệ
thông tin, và việc đào tạo trong nước được mở rộng dưới góc độ cả số lượng lẫn chất
lượng. Ngoài các khoa công nghệ thông tin (tin học) tại các trường đại học nhà nước
đóng vai trò chính trong việc đào tạo các chuyên viên tin học thì các hệ thống trường
dạy nghề và các trung tâm đào tạo tin học cũng đã bắt đầu triển khai hoạt động. Cuối
những năm 80 đã có vài trường đại học tư thục đào tạo ngành tin học ứng dụng. Song
song với việc đào tạo trong nước Việt Nam đồng thời tiến hành việc cử các sinh viên đi
học ngành công nghệ thông tin tại các nước phát triển cao như: Mỹ, Pháp, Canada, Úc,
20
Ấn Độ. Nói chung, đội ngũ cán bộ tin học nước ta lúc này có thể phân chia thành 4
nhóm:
a) Các chuyên viên cao cấp nước ngoài và các nhà toán học chuyên về công nghệ
thông tin từ lâu năm. Theo các dữ liệu thống kê thì năm 1999 con số này là 15 nghìn.
Con số này ngày càng lớn bởi vì nhiều cá nhân từ nước ngoài sau khi học xong đã quay
trở về nước làm việc và càng ngày càng nhiều người được cử đi nước ngoài đào tạo về
chuyên ngành này.
b) Đội ngũ cán bộ được đào tạo tại các trường Bách Khoa, Tổng Hợp tại Hà Nội
và thành phố Hồ Chí Minh; mỗi năm có đến vài nghìn người tốt nghiệp những trường

này. Theo đánh giả của Hội đồng Tin học Việt Nam thì trình độ của các sinh viên tốt
nghiệp tin học ngày càng được nâng cao nhờ vào những kinh nghiệm thực tế họ thu
được trong quá trình tham gia các dự án tin học.
c) Những người tham gia các khóa học sau khi được đào tạo ngắn hạn tại các
trường trung học, phổ thông cơ sở, các trung tâm đào tạo, hoặc qua các khóa tự đào tạo
– các nhà kỹ thuật viên tin học; số lượng các kỹ thuật viên có thể lên tới hàng trăm ngàn
và ngày càng nhiều lên.
d) Các công dân Việt Nam hành nghề tin học tại nước ngoài – theo dữ liệu con số
này có thể lên đến 50 nghìn người. Họ được coi là lực lượng cán bộ tin học được đào
tạo rất tốt, đại diện cho trình độ nghề nghiệp cao, một số đang làm việc tại các tổ chức
quốc tế và các công ty tin học nước ngoài; đa số họ đều có ý định quay trở về và làm
việc tại Việt Nam đóng góp cho sự phát triển công nghệ thông tin của nước nhà.
Cộng đồng công dân mạng Internet
Trong xã hội Việt Nam nhu cầu học tập về công nghệ thông tin ngày càng trở nên
cấp bách, đặc biệt là tại những thành phố lớn, các trung tâm kinh tế thương mại, văn hóa
chính của cả nước. Tuy nhiên, theo các đánh giá thì vẫn còn khoảng cách khá xa giữa sự
hiểu biết về tin học và khả nằng ứng dụng những công cụ tin học trong những công việc
nghề nghiệp thực tế. Tại đa số các cơ quan và các công ty thì còn nhiều nhân viên chưa
từng sử dụng máy vi tính. Trái lại, trong đa số những trường hợp còn lại thì máy tính chỉ
dùng để sử dụng với mục đích đánh máy biên soạn văn bản. Mức độ ứng dụng công
nghệ thông tin trong quản lý vẫn chưa tương xứng so với phạm vi công việc và đòi hỏi
thực tế.
21
Việc ứng dụng mạng Internet vẫn chưa đạt được mức thỏa mãn. Năm 1999 cứ
100 nghìn người thì mới có hai người sử dụng mạng Internetu. Lúc đó trên diện rộng cả
nước chỉ có một công ty VDC là nhà cung cấp duy nhất điểm truy cập vào mạng
Internet (IAP – Internet Access Point), năm công ty kháccung cấp các dịch vụ Internet
(ISP – Internet Service Provider). Đa số các cơ quan đã có kết nối với Internet, nhưng
hiệu quả sử dụng và mức độ khai thác tài nguyên thông tin trên mạng vẫn còn rất thấp.
Dựa trên cơ sở phân tích tiềm lực về công nghệ và nhân sự của Việt Nam ta có thể đồng

ý với sự khẳng định của cơ quan chuẩn mực công nghệ thông tin như sau
1
: „Mặc dù
chúng ta có tiềm năng nhân lực lớn nhưng Việt Nam vẫn chưa phát triển mạnh ngành
công nghệ thông tin do nhiều cản trở và hạn chế. Phạm vi sử dụng máy tính ngày càng
được mở rộng nhưng vẫn chưa có tính chất phối hợp chặt chẽ. Việt Nam hiện vẫn chưa
có ngành công nghệ thông tin hiện đại”.
A.III.2. Hạ tầng kinh tế và pháp lý
Nhìn chung thi nền kinh tế Việt Nam đa phần vẫn là nông nghiệp lạc hậu, chưa
có sản xuất công nghiệp quy mô rộng, hiệu quả công việc vẫn còn thấp so với các nước
láng giềng và toàn bộ thế giới, tỉ lệ người nghèo, đói và thất nghiệp còn cao. Sự trao đổi
hàng hóa và dịch vụ vẫn còn chưa phát triển. Tổng doanh số bán lẻ của Việt Nam hàng
năm mới chỉ khoảng 12tỷ đô la Mỹ (năm 2000), chia theo đầu người tương đương với
150 đô la Mỹ. Mức xuất khẩu tính trên đầu người vẫn xấp xỉ ở mức năm 1998. Các mặt
hàng xuất khẩu chủ yếu là nguyên vật liệu (dầu lửa, than đá), các mặt hàng nông-thủy
sản, các mặt hàng công nghiệp sơ chế (giầy dép, quần áo). Cả nước có 40 nghìn doanh
nghiệp trong đó có đến 6 nghìn doanh nghiệp nhà nước, còn lại là các công ty cổ phần,
trách nhiệm hữu hạn, các doanh nghiệp tư nhân, và gần 1 nghìn doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài. Các công ty nhà nước chiếm 40% GDP và khoảng 70% giá trị các
mặt hàng công nghiệp, nhưng hiệu quả hoạt động của các công ty này rất thấp. Theo báo
cáo của chính phủ trình quốc hội tháng 7 năm 1998 thì có đến 36% công ty nhà nước bị
lỗ. Quá trình tư hữu hóa các doanh nghiệp nhà nước năm 1998 mới chỉ ở giai đoạn khởi
điểm với 38 doanh nghiệp được tư hữu hoá với tổng số vốn điều lệ lên tới 21tỷ đô la
Mỹ. Một trong những đặc trưng của trao đổi hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam, mà cần
1
Tại hội nghị về các vấn đề pháp lý của ngành viễn thông tháng 11 năm 1997 tại Hà Nội
22
phải để ý tới, là trao đổi thương mại nội bộ và ngoại thương rất yếu. Về kinh tế đối
ngoại thì trên 100 nước thuộc khu vực và thế giới là đối tác thương mại của Việt Nam,
nhưng những kênh xuất nhập khẩu chính vẫn là các nước tuyền thống khu vực như:

Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Thái Lan, Đài Loan. Các nước châu Á
này chiếm đến 70% xuất khẩu của Việt Nam. Mạng lưới các đối tác thương mại trong
và ngoài nước của Việt Nam còn rất hạn hẹp. Đa số các công ty vẫn cảm thấy thiếu
thông tin thị trường và thiếu sự hợp tác với các đối tác. Cũng chính do đó các doanh
nghiệp ViệtNam rất khó thành công và phát triển.
Trên cơ sở các yêu cầu của nền kinh tế tri thức và thương mại điện tử và hạ tầng
kinh tế được trình bày như trên, một số vấn đề quan trọng đã được đưa ra:
a) Do tiềm lực kinh tế yếu và phương pháp tiến hành các hoạt động kinh doanh
không chuyên nghiệp, các hệ thống chuẩn mực và quy chuẩn theo đúng nghĩa còn chưa
được xác lập, các hệ thống thông tin của nền kinh tế quốc dân không tương thích với các
chuẩn mực quốc tế và chúng thậm chí còn không đồng bộ và mâu thuẫn với nhau. Thiếu
hệ thống mã hóa là rất bất lợi cho quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế tri thức.
b)Hiệu quả làm việc thấp, phương pháp tổ chức lao động không chuyên nghiệp,
tỷ lệ thất nghiệp thực tế cao không là những động cơ tốt hướng tới tiết kiệm chi phí về
vật chất và thời gian được coi là các mục tiêu cơ bản của nền kinh tế tri thức.
c)Mức sống thấp hạn chế đa phần các công dân và doanh nghiệp, đặc biệt là các
doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận với các công cụ kinh doanh hiện đại của nền kinh tế
tri thức. Các khoản đầu tư vào phần cứng và các dịch vụ mạng khác nhau như phí truy
cập mạng Internet, thuê bao là quá cao so với thu nhập bình quân của đa số người dân.
Các khoản chi phí này thậm chí còn cao hơn so với một số nước trong khu vực.
d) Vẫn chưa hình thành được hệ thống thanh toán tài chính tự động được coi là
một trong những cấu phần tiên quyết của thương mại điện tử nhằm đảm bảo không chỉ
hiệu quả kinh tế (hạn chế các chi phí giao dịch), mà cả tính khả thi của các giao dịch.
Xây dựng hệ thống như vậy trên thực tế là một quá trình kéo dài rất lâu, vì một mặt cần
phải xây dựng hạ tầng kỹ thuật hợp lý, mặt khác cần phải tạo nên thói quen sử dụng các
phương pháp thanh toán gián tiếp thay vì sử dụng tiền mặt.
23
e)Thiếu sự thống nhất của nền kinh tế dựa trên hệ thống mã hóa và chuẩn mực.
Đa số các mặt hàng được bán trao tay và hiện tượng hàng giả còn rất phổ biến. Mã vạch
chỉ được sử dụng trong phạm vi rất hạn hẹp đối với các mặt hàng bán lẻ trên thị trường.

Tất cả các vấn đề trên đã gây nhiều khó khăn cho việc tích hợp với hệ thống chuẩn mực
của khu vực và thế giới. Thiếu chiến lược của nhà nước về việc mã hóa đã giảm thiểu đi
khả năng bảo mật các dữ liệu và thông tin.
Hệ thống pháp lý mới bắt đầu có và thực sự vẫn chưa phải là hoàn thiện, đặc biệt
là các giải pháp pháp lý cho thương mại điện tử. Bộ luật thương mại, bảo vệ tài sản trí
tuệ, luật hình sự và các bộ luật khác có liên quan vẫn chưa hàm chứa đầy đủ nội dung
điều chỉnh các vấn đề thương mại điện tử như giá trị pháp lý của các giao dịch điện tử,
chữ ký điện tử, xác nhận điện tử.
A.III.3. Hạ tầng chính sách và xã hội
Trong quá trình chuyển đổi diễn ra hơn 15 năm nay Việt Nam dần dần mở của ra
thế giới. Do hoàn cảnh đặc thù, trong nhiều vấn đề chính sách Việt Nam vẫn chưa thể
trực tiếp và hoàn toàn tham gia hòa đồng vào nền kinh tế tri thức và thương mại điện tử
của thế giới. Mạng Internet vẫn có thể là công cụ tấn công của các thế lực chống đối
chính quyền. Do đó, nhà nước bắt buộc phải xây dựng cho mình những cơ chế phòng
thủ tương thích. Chẳng hạn như từ năm 1996 một đạo luật đã được thông qua nhằm tăng
cường công tác kiểm soát nghiêm ngặt các hoạt động sử dụng các công cụ truyền thông
điện tử như: điện thoại, fax, kênh truyền hình, Internet và các hoạt động kinh doanh,
trao đổi thông tin giữa các cơ quan trong nước và nước ngoài. Hoàn cảnh đặc thù này
không thích hợp với những nguyên tắc của thương mại điện tử và nền kinh tế tri thức.
Nếu nói về phong cách sống và lao động thì đa số công dân vẫn còn có thói quen
thực hiện trực tiếp các giao dịch trên cơ sở các văn bản bằng giấy, mua bán và thanh
toán với nhau bằng tiền mặt. Điều này rất khó thay đổi. Nếu nói về khía cạnh xã hội, thì
cần phải nói rằng người Việt Nam vẫn chưa tạo cho mình được phong cách làm việc
theo nhóm ở mức độ toàn xã hội và toàn cầu, cũng như sống theo pháp luật, kỷ cương
lao động, các chuẩn mực của những nước đã được công nghiệp hóa. Những điều này là
các yếu tố luôn được nền kinh tế tri thức và thương mại điện tử coi trọng.
24
Công nghệ thông tin là một trong những động lực quan trọng nhất của sự phát
triển kinh tế tri thức, và cùng với các công nghệ tiên tiến khác (viễn thông, công nghệ
sinh học) có thể thay đổi sâu sắc đời sống kinh tế, văn hóa và xã hội của thế giới hiện

nay. Việc ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin ở Việt Nam góp phần giải phóng
các năng lực thể chất, tri thức và tinh thần của cả dân tộc, thúc đẩy quá trình chuyển đổi,
tạo điều kiện phát triển nhanh chóng hơn và hiện đại hóa các ngành của nền kinh tế, gia
tăng tính cạnh tranh của doanh nghiệp, hợp nhất với nền kinh tế thế giới, nâng cao chất
lượng đời sống của cả dân tộc và an ninh quốc phòng. Ý nghĩa và vai trò ngày càng lớn
của công nghệ thông tin trong nền kinh tế đã gây được sự chú ý của xã hội tới khả năng
ứng dụng tiềm ẩn của nó với mục tiêu là phát triển xã hội và kinh tế của đất nước.
Tuy nhiên, công nghệ thông tin tại Việt Nam hiện vẫn còn đang trong tình trạng
lạc hậu, phát triển quá chậm với nguy cơ ngày càng tụt hậu so với sự phát triển của các
nước thuộc khu vực và trên thế giới. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vẫn chưa đáp
ứng được hoàn toàn nhu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và
các yêu cầu của quá trình hội nhập khu vực cũng như thế giới. Vai trò hết sức năng
động và tiềm lực lớn của công nghệ thông tin đã không được tận dụng rộng rãi. Sự phát
triển nguồn nhân lực công nghệ thông tin không được chuẩn bị đúng lúc trong khía cạnh
số lượng, chất lượng cũng như kiến thức chuyên môn và khả năng ngoại ngữ. Viễn
thông và mạng Internet vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu về truyền dữ liệu nhanh, chất
lượng của đường truyền và giá cả trong ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin. Đầu
tư vào công nghệ thông tin vẫn còn đang ở mức rất thấp so với nhu cầu của xã hội và
nền kinh tế. Vẫn còn thiếu tính hiệu quả và sự quan tâm đúng mực của nhà nước trong
quản lý lĩnh vực này. Việc sử dụng công nghệ thông tin tại một số nơi chỉ mang tính
chất hình thức, và không đáp ứng được những nhu cầu thực sự và không được dựa trên
hạch toán kinh tế.
Nguyên nhân chính vẫn là ý thức của các nhà quản lý các ngành các cấp và toàn
thể xã hội về vai trò của công nghệ thông tin vẫn còn thấp. Thực sự vẫn thiếu sự thực
hiện cương quyết các kế hoạch và chính sách của Đảng và Nhà nước, thiếu sự điều phối
chặt chẽ giữa việc sử dụng công nghệ thông tin và tái cơ cấu các quá trình sản xuất,
thương mại và cải cách hành chính, thay đổi phương pháp lãnh đạo của Đảng và quản lý
của Nhà nước, chậm chân trong việc biên soạn ra những chính sách đáp ứng nhu cầu sử
25

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×