Ứng dụng Công nghệ 
Sinh học trong điều trị 
bỏng và liền vết thương.
 
 
 
 
Trong những thập niên gần đây, 
công nghệ sinh học đã có những 
bước phát triển mạnh mẽ với các 
ứng dụng rộng rãi trong nhiều 
lĩnh vực của đời sống xã hội. Đặc 
biệt, trong lĩnh vực y học nói 
chung và chuyên ngành bỏng nói 
riêng, công nghệ sinh học đã và 
đang trở thành một mũi nhọn, 
góp phần làm tăng khả năng cứu 
sống các bệnh nhân bỏng nặng 
cũng như c
ải thiện một cách đáng 
kể chất lượng cuộc sống của các 
bệnh nhân sau bỏng. 
 
Vài nét về ứng dụng công nghệ 
sinh học trong điều trị bỏng và 
liền vết thương trên thế giới 
 
Nghiên cứu và sản xuất các chế 
phẩm sinh học điều trị vết thương, 
vết bỏng  
Một trong các hướng nghiên cứu 
của công nghệ sinh học là tìm ra 
các mối liên quan giữa các yếu tố 
sinh học do các tế bào sản sinh ra 
trong các đáp ứng bệnh lý với bệnh 
bỏng, để từ đó tìm ra các chế phẩm 
có tác dụng điều trị bỏng và đi
ều trị 
vết thương. Những khám phá về 
vai trò của các chất trung gian hóa 
học, các cytokins, các yếu tố phát 
triển (growth factors) đ
ã giúp cho 
việc điều trị sốc khi bị bỏng, điều 
trị nhiễm khuẩn, nhiễm độc bỏng 
đạt được những kết quả khả quan. 
Các loại thuốc tại chỗ sử dụng cho 
đi
ều trị vết bỏng có chứa các yếu tố 
phát triển để làm tăng cường quá 
trình liền vết bỏng nông cũng như 
hạn chế sẹo do bỏng để lại đã được 
nhiều nước điều chế thành công. 
Cu Ba là một trong những nước có 
nền công nghệ sinh học phát triển 
mạnh cũng đã thành công trong 
vi
ệc kết hợp Silver Sulfadiazine 1% 
với các yếu tố phát triển để sản 
xuất Herbecmine - một chế phẩm 
có chất lượng cao trong điều trị vết 
bỏng nông và bỏng trung bì sâu. 
B
ằng công nghệ phân tử, nhiều loại 
băng vết thương, nhiều loại thuốc 
có chứa các yếu tố sinh học cũng 
đã được sản xuất để điều trị vết 
thương, vết bỏng. Nhiều công ty 
của Anh, Mỹ, Trung Quốc đã rất 
thành công trong lĩnh vực này. Tập 
đoàn ANSON (Trung Quốc) đã 
đưa 
ra thị trường nhiều loại băng vết 
thương có chứa các chế phẩm sinh 
học dùng để điều trị các vết bỏng, 
vết loét đạt kết quả tốt. Hiện nay, 
việc nghiên cứu, sản xuất các chế 
phẩm bằng công nghệ sinh học 
phục vụ điều trị vết thương phần 
mềm, vết bỏng dưới dạng thuốc, 
băng vết thương đang là xu hướng 
được nhiều nước quan tâm.  
Nuôi cấy tế bào sừng, nguy
ên bào 
sợi và công nghệ da nhân tạo  
Năm 1968, lần đầu tiên Marvin 
Karasek đã thực hiện thành công 
việc nuôi và biệt hóa tế bào của da 
thỏ. Cho đến nay, công nghệ nuôi 
cấy tế bào sừng và nguyên bào sợi 
đã có những bước tiến dài. Một 
trong những người có nhiều đóng 
góp nhất cho kỹ thuật nuôi cấy tế 
bào là Green Howard (Mỹ). Năm 
1978, trong quá trình nuôi cấy ông 
đã tìm thấy có sự liên quan giữa tế 
bào sừng và nguyên bào sợi. Năm 
1980, ông đã thành công khi cấy 1 
cm2 ở dây rốn, sau một thời gian 
nuôi cấy đã đạt được 3 m2 biểu bì. 
Với những cống hiến của mình, 
Green Howard được xem là ông tổ 
của kỹ thuật nuôi cấy tế bào sừng. 
Ngày nay, việc nuôi cấy tế bào 
sừng và nguyên bào sợi để điều trị 
vết thương phần mềm, vết loét, vết 
bỏng đã trở nên khá phổ biến ở 
nhiều nước phát triển. Nhiều trung 
tâm nuôi cấy tế bào hiện đại đã 
hình thành tại Anh, Mỹ, Italia, 
Pháp, Nga, Trung Quốc, Hàn 
Quốc  
Cùng v
ới thời gian, công nghệ nuôi 
cấy tế bào sừng và nguyên bào sợi 
ngày càng có nhiều tiến bộ, với tỷ 
lệ thành công rất cao, giá thành hạ. 
Thay vì nuôi cấy tế bào trong môi 
trường nuôi cấy ở đĩa vô khuẩn 
thông thường, người ta đã sử dụng 
các chất thay thế có nguồn gốc tự 
nhiên, bán tổng hợp và t
ổng hợp để 
tạo nên các khung sườn, các giá đỡ 
để tế bào nuôi cấy bám vào đó. Da 
đồng loại, dị loại, các màng 
Collagen, màng Silicon, là nh
ững 
chất nền được sử dụng với mục 
đích như vậy. Nhờ việc sử dụng 
chất nền làm giá đỡ, nhờ sự chuẩn 
bị tốt nền ghép bằng việc che phủ 
tạm thời bởi các loại da và màng 
sinh học cũng như việc ứng dụng 
các công nghệ hiện đại như Leser 
Skin mà công nghệ nuôi cấy tế bào 
đã không ngừng được hoàn thiện.  
Không chỉ có các bước tiến trong 
công nghệ nuôi cấy, việc sử dụng 
các sản phẩm nuôi cấy cũng có 
nhiều thay đổi. Thay vì sử dụng 
đơn thuần các màng nguyên bào 
sợi, tế bào sừng nuôi cấy lên vết 
thương, ngày nay người ta đã kết 
hợp việc nuôi cấy tế bào sừng để 
tạo lớp biểu bì lên chất nền trung b
ì 
là lớp nguyên bào sợi nuôi cấy - đó 
là công nghệ da nhân tạo. Da nhân 
tạo còn được tạo ra do kết hợp lớp 
biểu bì nuôi cấy với một màng 
Collagen, màng Silicon hay một 
loại màng tổng hợp khác. Thậm 
chí, ngày nay đã hình thành nên 
ngành công nghệ mô (Tissue 
Enzinering) để tạo ra các mô ghép 
từ các tế bào nuôi cấy, từ tế bào 
gốc  
Công nghệ nuôi cấy tế bào không 
chỉ được áp dụng trong điều trị vết 
bỏng, liền vết thương, mà còn đư
ợc 
ứng dụng trong điều trị ung thư, 
nhãn khoa và ghép tạng.  
Công nghệ sinh học và ứng dụng 
trong điều trị vết thương, vết 
bỏng tại Việt Nam  
Việc nghiên cứu và ứng dụng các 
thành tựu của công nghệ sinh học 
vào điều trị vết thương, vết bỏng đ
ã 
và đang được các nhà khoa h
ọc, các 
thầy thuốc chuyên ngành bỏng, 
chuyên ngành mô phôi ở nước ta 
quan tâm. Viện Bỏng Quốc gia là 
một trung tâm bỏng hàng đầu của 
Việt Nam và cũng l
à nơi tiên phong 
nghiên cứu và ứng dụng công nghệ 
sinh học vào điều trị bỏng. Đơn 
giản nhất là việc tìm kiếm các loại 
da thay thế da tự thân, các màng 
sinh học thay thế da tạm thời trong 
điều trị vết thương, vết bỏng. Ứng 
dụng công nghệ sinh học để xử lý 
và bảo quản các loại da, các màng 
sinh học thay thế da là một trong 
những hướng ưu tiên của chuyên 
khoa bỏng và chấn thương. Mặc dù 
da tự thân là vật liệu lý tưởng nhất 
để che phủ vết thương, vết bỏng, 
nhưng trong nhiều trường hợp, da 
tự thân không thể đáp ứng đư
ợc (do 
thiếu, do thể trạng bệnh nhân 
không cho phép l
ấy ). Khi đó, việc 
tìm kiếm các loại da, các m
àng sinh 
học thay thế da (tự thân) tạm thời 
đã trở thành một xu hư
ớng tốt. Việc 
sử dụng các loại da động vật (da dị 
loại) như da lợn, da ếch để che 
phủ vết thương phần mềm, vết 
bỏng đã được sử dụng từ rất lâu. 
Tuy nhiên, việc sử dụng nh
ững loại 
da này cũng mới chỉ dừng lại ở 
cách sử dụng đơn giản, đó là da 
tươi. Mặc dù da dị loại tươi có 
những ưu điểm, đặc biệt là khả 
năng bám dính tốt, nhưng nó cũng 
có những nhược điểm nhất định. 
Hơn nữa, việc sử dụng lại ở thế bị 
động, khó có thể sử dụng rộng rãi 
trên lâm sàng. Do đó, ban đ
ầu công 
nghệ sinh học đã được áp dụng để 
xử lý và bảo quản các loại da dị 
loại, sau đó là da của các tử thi 
(đồng loại). Nhiều công nghệ đã 
được áp dụng như công nghệ xử lý 
và bảo quản da dị loại, đồng loại 
bằng kỹ thuật lạnh sâu, kỹ thuật 
đông khô, kỹ thuật xử lý và bảo 
quản trong glyxeryl ưu trương, kỹ 
thuật đông khô kết hợp tiệt khuẩn 
bằng tia gamma Ngoài các lo
ại da 
dị loại, da đồng loại, một số màng 
sinh học khác cũng được sử dụng 
để điều trị vết thương, vết bỏng nh
ư 
màng ối lấy từ bò, từ người, màng 
collagen  
Bên cạnh đó, Viện Bỏng Quốc gia 
cũng đã có những nghiên cứu và 
hợp tác nghiên cứu với các nước 
như Anh, Nga, Sinhgapo về nuôi 
cấy nguyên bào sợi, tế bào sừng 
trong điều trị bỏng. Kỹ thuật nuôi 
cấy tế bào sừng trong phòng thí 
nghiệm cũng đã được xúc tiến 
trong nhiều năm qua và đã có 
những thành công bước đầu. Gần 
đây, Bộ Khoa học và Công nghệ đ
ã 
phê duyệt Nghị định thư về hợp tác 
khoa học giữa Viện Bỏng Quốc gia 
và Viện Ngoại khoa Liên bang 
Nga, theo đó phía Nga sẽ chuyển 
giao công nghệ nuôi cấy nguyên 
bào sợi cho Việt Nam. Trong năm 
2002, các chuyên gia của Nga đã 
sang làm việc tại Viện Bỏng Quốc 
gia và Viện cũng đã cử ba cán bộ 
sang Nga đ
ể học về công nghệ nuôi 
cấy nguyên bào sợi. Việc nuôi cấy 
nguyên bào sợi trung bì da người 
thành công sẽ nâng cao chất lượng 
điều trị bỏng lên một bước và tạo 
điều kiện để phát triển sản xuất da 
nhân tạo. Hiện nay, Viện Bỏng 
Quốc gia cũng đang xúc tiến các 
bước để tiếp thu công nghệ nuôi 
cấy tế bào sừng từ Sinhgapo. Viện 
cũng đã và đang hợp tác với Tập 
đoàn ANSON (Trung Quốc) để 
nghiên cứu đánh giá tác dụng của 
băng vết thương có các yếu tố sinh 
học được sản xuất bằng công nghệ 
phân tử trong việc điều trị bỏng. 
Trong Dự án cải tạo nâng cấp Viện 
Bỏng Quốc gia, một hệ thống labô 
công nghệ sinh học hiện đại, đạt 
tiêu chuẩn quốc tế sẽ được xây 
dựng. Điều đó mở ra triển vọng sẽ 
có bước đột phá trong nghiên cứu 
và ứng dụng các thành tựu của 
công nghệ sinh học vào việc điều 
trị bỏng và vết thương phần mềm 
cũng như các ứng dụng của nó 
trong các chuyên ngành khác của y 
học hiện đại, trong đó công nghệ 
gen và công nghệ tế bào gốc là 
những ưu tiên phát triển.