Câu hỏi 1 : Sự ra đời của các tổ chức Đảng và việc thống nhất các tổ chức để thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam?
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời ngày 3-2-1930 là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa Chủ
nghĩa Mác-Lênin, phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt Nam. Đảng cộng
sản ra đời là một sự kiện trọng đại của cách mạng Việt Nam, chứng tỏ giai cấp công nhân
đã trưởng thành đủ sức đảm nhận sứ mệnh giải phóng dân tộc của cách mạng nước ta.
Trước khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời cách mạng Việt Nam đã có sự xuất hiện của ba
tổ chức cộng sản, hoạt động ở 3 miền khác nhau. Sự chia rẽ đó minh chứng cách mạng Việt
Nam phát triển , nhưng cũng là nguy cơ gây mất đoàn kết và chia rẽ nội bộ của cách mạng
nước ta lúc bấy giờ. Chính vì thế yêu cầu của cách mạng Việt Nam cuối năm 1929 đầu
1930 là phải thống nhất các tổ chức cộng sản thành một chính đảng duy nhất để lãnh đạo
cách mạng Việt Nam.
1/ Sự chuẩn bị về lí luận và tổ chức để tiến tới thành lập Đảng Cộng sản ở Việt Nam.
Sau khi chiếm trọn ba miền của Việt Nam năm 1884, Thực dân Pháp nhanh chóng
đặt ách thống trị của chế độ thực dân và tiến hành các chương trình khai thác thuộc địa.
Nhân dân Việt Nam đã điêu đứng trước những chính sách cai trị tàn bạo của Chủ nghĩa thực
dân. Nhiều cuộc khởi nghĩa của các sĩ phu, quan lại và nông dân diễn ra nhưng đều bị thất
bại. Tiếp đến, những năm đầu thế kỉ XX nhiều phong trào đấu tranh diễn ra theo khuynh
hướng cách mạng dân chủ tư sản tiêu biểu như các phong trào Đông du, cuộc vận động Duy
Tân, Đông Kinh nghĩa thục… điễn ra những không giành được thắng lợi. Sự thất bại của
các khuynh hướng cứu nước đã khiến cho cách mạng Việt Nam rơi vào tình trạng khủng
hoảng về con đường cứu nước, khủng hoảng về giai cấp lãnh đạo của cách mạng Việt Nam.
Trong hoàn cảnh đó, năm 1911 người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm
đường cứu nước. Sau một thời gian bôn ba qua nhiều nước trên thế giới. Năm 1917,
Nguyễn Tất Thành đã trở lại Pháp hoạt động trong phong trào công nhân của nước Pháp.
Lúc này ảnh hưởng cách mạng tháng Mười Nga đã vang dội đến nước Pháp, qua học tập
tìm hiểu nghiên cứu các khuynh hướng cứu nước.
Tháng 7 năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đã đọc được Sơ thảo bản Luận cương của VI. Lê-nin
về “Vấn đề dân tộc và thuộc địa”. Từ ánh sáng của cách mạng tháng Mười Nga và những
quan điểm tiến bộ của Lê-nin đã giúp Nguyễn Ái Quốc xác định được con đường cứu nước
cho cách mạng Việt Nam: đó là con đường cách mạng vô sản. Kể từ đó Nguyễn Ái quốc
tích cực tham gia vào phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ở Pháp. Tháng 12 năm
1920, Nguyễn Ái Quốc tham gia Đại hội Đảng Xã hội Pháp họp ở Tua. Tại Đại hội này
Nguyễn Ái Quốc đã tán thành việc tham gia Quốc tế thứ III do Lê-nin sáng lập và tham gia
sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Đây là một hoạt động đã làm chuyển biến từ tư tưởng đến
hành động của Nguyễn Ái Quốc, từ chủ nghĩa yêu nước đến Chủ nghĩa Mác – Lênin.
Thời gian hoạt động tại Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực truyền bá Chủ nghĩa Mác
– Lê nin về Việt Nam thông qua những tài liệu tuyên truyền bí mật. Chuẩn bị về mặt lí luận
để tiến tới thành lập ở Việt Nam một chính đảng của giai cấp vô sản.
Năm 1923, Nguyễn Ái Quốc đến Liên Xô trực tiếp tìm hiểu về cách mạng tháng
Mười Nga và thực tiễn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tại đây, Người đã trình bày
những quan điểm cơ bản của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa,
trình bày về sự nhất quán và cần thiết của quá trình đoàn kết của những người vô sản trên
toàn thế giới. Thời gian hoạt động tại Liên Xô đã bổ sung tính thực tiễn trong quá trình hoạt
động cứu nước của Nguyễn Ái Quốc, là một bước chuẩn bị về mặt lí luận và tổ chức để tiến
tới thành lập Đảng Cộng sản ở Việt Nam.
Sau thời gian hoạt động tại Liên Xô, tháng 12 năm 1924 Nguyễn Ái Quốc đã về Quảng
Châu (Trung Quốc). Người đã tiếp xúc với các nhà lãnh đạo cách mạng nước ta tại Trung
Quốc, cùng một số thanh niên từ trong nước sang để thành lập Hội Việt Nam cách mạng
Thanh niên vào tháng 6 – 1925. Đây là tổ chức cách mạng tiền thân của Đảng cộng sản. Từ
1
những chủ trương và hoạt động của Hội đã đưa phong trào cách mạng Việt Nam trong
những năm 1926-1929 phát triển mạnh mẽ theo khuynh hướng vô sản. Đến trước Đại hội
đại biểu lần thứ nhất, Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên đã có tổ chức cơ sở ở hầu khắp
cả nước. Ngoài ra, một số đoàn thể quần chúng như Công hội, Nông hội, Hội học sinh, Hội
phụ nữ… cũng được tổ chức.
2/ Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản trong năm 1929.
Trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào dân tộc và dân chủ ở nước ta trong năm
1928, 1929 đặt biệt là phong trào công nhân theo con đường cách mạng vô sản đã phát triển
mạnh mẽ. Cũng như nguy cơ tan rã và thất bại của Việt Nam quốc dân Đảng (theo khuynh
hướng tư sản). Trước tình hình đó, cần phải thành lập một đảng cộng sản để tổ chức và lãnh
đạo giai cấp công nhân và các lực lượng yêu nước khác đấu tranh chống đế quốc và phong
kiến tay sai, giành độc lập và tự do. Do vậy, cuối tháng 3 – 1929 một số hội viên tiên tiến
của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên ở Bắc Kì ( trong đó có Ngô Gia Tự và Nguyễn
Đức Cảnh ) đã họp tại số nhà 5Đ phố Hàm Long ( Hà Nội) để lập chi bộ cộng sản đầu tiên
ở Việt Nam gồm 7 người, tích cực chuẩn bị tiến tới thành lập một đảng cộng sản thay thế
cho Hội Việt Nam cách mạng thanh niên.
Tháng 5 – 1929, tại Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Hội Việt Nam cách mạng thanh
niên họp ở Hương Cảng (Trung Quốc), kiến nghị thành lập Đảng Cộng sản không được
chấp nhận, đoàn đại biểu Bắc Kì bèn bỏ Đại hội về nước, rồi ra lời kêu gọi công nhân, nông
dân, các tầng lớp nhân dân cách mạng nước ta ủng hộ chủ trương thành lập đảng cộng sản.
Ngày 17 – 6 – 1929, đại biểu của các tổ chức cơ sở cộng sản ở Bắc Kì họp đại hội quyết
định thành lập Đông Dương Cộng sản đảng, thông qua Tuyên ngôn, Điều lệ của đảng, ra
báo Búa liềm làm cơ quan ngôn luận. Tuyên ngôn nêu rõ mục đích của Đảng là đánh đổ chủ
nghĩa đế quốc, chủ nghĩa tư bản, chế độ phong kiến, giải phóng công nhân, nông dân, thành
lập chuyên chính vô sản, tiêu diệt giai cấp, thực hiện xã hội bình đẳng, tự do, bác ái. Tuyên
ngôn gồm 2 chương. Chương thứ nhất giải thích chủ nghĩa cộng sản. Chương thứ hai nói về
chính sách của Đảng. Tuyên ngôn chỉ rõ cách mạng Đông Dương là cách mạng dân chủ,
nhiệm vụ của nó là đánh đuổi được đế quốc Pháp, Đông Dương hoàn toàn độc lập, đánh đổ
địa chủ, phong kiến, thực hiện cách mạng thổ địa, lập chính phủ công nông binh, do giai
cấp vô sản lãnh đạo, khi hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ tiến lên cách mạng xã hội
chủ nghĩa. Đảng dùng chính sách thống nhất các giai cấp, đảng phái để chống đế quốc; khi
thời cơ đến, giai cấp thống trị đã rối loạn, quần chúng sôi sục cách mạng sẵn sàng hi sinh,
Đảng sẽ đưa quần chúng ra đấu tranh giành chính quyền, thành lập chính phủ xô viết công
nông binh. Đây là một văn kiện có tính chất cương lĩnh của Đông Dương Cộng sản đảng.
Tiếp đó, các hội viên tiên tiến của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên ở Trung Quốc và ở
Nam Kì, cũng quyết định thành lập An Nam Cộng sản đảng vào tháng 8 – 1929, trên cơ sở
một số chi bộ cộng sản được thành lập và đang hoạt động tại Trung Quốc và ở Nam Kì.
Sự ra đời của Đông Dương Cộng sản đảng ( 6 – 1929 ) và An Nam Cộng sản đảng (8 –
1929 ) đã tác động mạnh mẽ đến Tân Việt cách mạng đảng. Các đảng viên tiên tiến của
Đảng Tân Việt, từ lâu đã chịu ảnh hưởng của Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên, cũng
tách ra để thành lập một tổ chức cộng sản thứ ba là Đông Dương Cộng sản liên đoàn ( 9 –
1929).
Như vậy, đến tháng 9 – 1929 ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản lần lượt tuyên
bố được thành lập. Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản là một xu thế tất yếu của cách mạng
Việt Nam. Các tổ chức cộng sản trên đã nhanh chóng xây dựng cở sở đảng tại nhiều địa
phương, trực tiếp tổ chức và lãnh đạo nhiều cuộc đấu tranh của công nhân và nông dân.
Phong trào công nhân kết hợp chặt chẽ với phong trào đấu tranh của nông dân chống sưu
cao thuế nặng, chống cướp ruộng đất, với phong trào bãi khóa của học sinh, bãi thị của tiểu
thương… tạo thành làn sóng đấu tranh cách mạng dân chủ khắp cả nước.
2
Hội nghị thành lập Đảng cộng sản Việt
Nam (3-2-1930). Ảnh chụp tranh của Phan
Kế An.
Tuy nhiên, ba tổ chức cộng sản nói trên lại hoạt động riêng rẽ, tranh giành ảnh hưởng với
nhau. Tình hình đó nếu kéo dài sẽ có nguy cơ dẫn đến sự chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của
cách mạng Việt Nam lúc này là phải có một đảng cộng sản thống nhất trong cả nước.
3/ Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ( 3 – 2 – 1930 ).
Lược đồ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
Ngày 27 – 10 – 1929, Ban chấp hành Quốc tế
Cộng sản đã gửi thư cho các tổ chức cộng sản ở
Đông Dương về vấn đề thành lập Đảng Cộng
sản. Bức thư đã phân tích tình hình cách mạng
quốc tế, sự lớn mạnh của phong trào cách mạng
Đông Dương, sự cần thiết phải có một đảng cộng
sản duy nhất, sự tai hại và nguy hiểm của tình trạng
tồn tại nhiều tổ chức cộng sản biệt lập. "Nhiệm vụ
quan trọng hơn hết và tuyệt đối cần kíp của tất cả
những người cộng sản Đông Dương là sáng lập một đảng cách mạng của giai cấp vô sản ở
Đông Dương, chỉ có đảng ấy là tổ chức cộng sản mà thôi".
Lúc này, Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động ở Xiêm (Thái Lan). Nên thư này chưa đến
với Nguyễn Ái Quốc, song với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản, có đầy đủ quyền
quyết định mọi vấn đề liên quan đến phong trào cách mạng ở Đông Dương nên Người đã chủ
động triệu tập đại biểu của Đông Dương Cộng sản đảng và An Nam Cộng sản đảng họp từ
ngày 3 đến ngày 7 – 2 - 1930 để bàn việc thống nhất thành một đảng cộng sản duy nhất cho
cách mạng Việt Nam.
Hội nghị thành lập Đảng cộng sản Việt Nam, được tiến hành tại Cửu Long - Hương
Cảng (Trung Quốc). Hội nghị do Nguyễn Ái Quốc chủ trì
có sự tham gia của hai đại biểu người Việt Nam ở nước
ngoài là Lê Hồng Sơn và Hồ Tùng Mậu, có hai đại biểu
của Đông Dương Cộng sản đảng là Nguyễn Đức Cảnh và
Trịnh Đình Cửu, hai đại biểu của An Nam Cộng sản đảng
là Châu Văn Liêm và Nguyễn Thiệu. Hội nghị được tiến
hành bí mật nên địa điểm liên tục được thay đổi lúc đầu
tiến hành trên sân vận động, lúc thì ở ngoài bãi biển lúc thì
ở trong căn nhà của người công nhân tại Hương Cảng.
Hội nghị đã phân tích tình hình cách mạng Việt Nam và
đã nhất trí thống nhất các tổ chức cộng sản để thành lập
một đảng duy nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hội nghị đã thong qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ tóm tắt của
Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và được xem là cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
ta. Trong đó Chính cương vắn tắt nêu khái quát tình hình đế quốc Pháp thống trị kìm hãm
sự phát triển của công nghiệp Việt Nam, làm cho giai cấp tư sản bản xứ lệ thuộc vào đế
quốc Pháp; nông nghiệp tập trung và phát sinh khủng khoảng, nông dân thất nghiệp, đại địa
chủ thì đứng về phe đế quốc, vì vậy chính cương nêu chủ trương tiến hành cách mạng dân
chủ tư sản, đánh đổ đế quốc Pháp và phong kiến, làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập,
thành lập chính phủ công nông binh, thi hành các quyền tự do dân chủ mở đường tiến tới
xã hội cộng sản. Sách lược vắn tắt ghi rõ: Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân;
Đảng phải tập hợp đại bộ phận giai cấp công nhân và nông dân, lãnh đạo nông dân đấu
tranh chống đại địa chủ. Đảng phải vận động tiểu tư sản, trí thức, trung nông đi với giai cấp
công nhân, đồng thời tranh thủ hoặc trung lập hoá tầng lớp trung, tiểu địa chủ, phú nông và
tư sản Việt Nam theo nguyên tắc không thoả hiệp, bảo vệ lợi ích công nông. Đảng phải nêu
cao khẩu hiệu Việt Nam độc lập, đồng thời phải liên lạc với các dân tộc bị áp bức và giai
3
cấp vô sản thế giới. Thực tiễn cách mạng Việt Nam khẳng định tính đúng đắn của đường lối
chiến lược được vạch ra trong Chính cương và Sách lược vắn tắt ngay khi Đảng mới ra đời
Nhân dịp mừng Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, Nguyễn Ái Quốc đã ra Lời kêu
gọi các giai cấp, tầng lớp nhân dân Việt Nam ủng hộ Đảng Cộng sản. Sau hội nghị, ngày 24
– 2 – 1930, Đông Dương Cộng sản liên đoàn cũng gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Như
vậy chỉ trong một thời gian ngắn ba tổ chức cộng sản ở nước ta đã được hợp nhất thành một
đảng thống nhất: Đảng Cộng sản Việt Nam.
4/ Ý nghĩa lịch sử của việc ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam .
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời ngày 3-2-1930 là một sự kiện quan trong của cách
mạng Việt Nam. Đánh dấu sự trưởng thành là lớn mạnh của cách mạng Việt Nam theo
khuynh hướng vô sản. Đảng ra đời chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã thực sự
trưởng thành và đủ sức thực hiện sứ mệnh lịch sử. Đảng ra đời là kết quả tất yếu của quá
trình đấu tranh, là sự kết hợp giữa Chủ nghĩa Mác – Lênin , phong trào công nhân và phong
trào yêu nước ở Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã chấm dứt tình trạng khủng hoảng về con đường
cứu nước, chấm dứt sự khủng hoảng về giai cấp lãnh đạo của cách mạng Việt Nam. Từ đây
cách mạng Việt Nam đã có một giai cấp tiến tiến nhất lãnh đạo mà lực lượng tiên phong là
Đảng Cộng sản. Các xu hướng cứu nước khác đều không phù hợp với thực tiễn của cách
mạng Việt Nam nên lần lượt bị thất bại. Như vậy ngay năm 1930, cách mạng Việt Nam đã
lựa chọn con đường giải phóng dân tộc duy nhất của nước ta là con đường cách mạng vô
sản. Đây là sự lựa chọn của lịch sử và của cả dân tộc Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã gắn kết cách mạng Việt Nam với cách mạng thế
giới, cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận của cách mạng thế giới. Vì thế Đảng ra
đời là một bước ngoặc vĩ đại của cách mạng Việt Nam.
Câu hỏi 2 : Tổ chức tiền thân của Đảng CSVN ở Phú Yên trước năm 1930. Sự ra đời của
Chi bộ Đảng cộng sản đầu tiên ở Phú Yên và sự phát triển của tổ chức Đảng trong
những năm 1930-1931 ở Phú Yên?
TỔ CHỨC TIỀN THÂN CỦA ĐẢNG CSVN Ở PHÚ YÊN TRƯỚC NĂM 1930
1. Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên
So với một số tỉnh ở miền Bắc, hoạt động của chi bộ Hội Việt Nam cách mạng thanh
niên ở Phú Yên không mạnh và không đều khắp các huyện. Song đối với khu vực Nam
Trung Bộ thì Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ở Phú Yên hoạt động khá tốt.
Do tham gia phong trào đòi thả cụ Phan Bội Châu và để tang cụ Phan Châu Trinh của học
sinh ở Huế và Qui Nhơn, một số học sinh Phú Yên đã bị đuổi học trở về quê hương. Dưới
tác động của đường lối cứu nước mới, những thanh niên này khi về địa phương một mặt
truyền tay nhau đọc các loại sách báo tiến bộ như Nhành lúa, Tiếng dân, Tiếng chuông rè ,
mặt khác tuyên truyền tư tưởng yêu nước, bàn biện pháp tập hợp lực lượng, hưởng ứng
đường lối đấu tranh của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên.
Năm 1926, Phạm Đức (quê ở An Nghiệp, Tuy An) cùng một số thanh niên học sinh
góp tiền ra ngoài tỉnh học nghề, theo tinh thần “chấn hưng hàng nội hóa” do Hội Việt Nam
cách mạng thanh niên đề ra, đồng thời gặp gỡ, tiếp xúc với những người yêu nước. Số thanh
niên ra Huế và Hà Nội có Phan Thanh Cưu, Huỳnh Thượng Chánh (Đồng Xuân), Phạm
Nghĩa, Đặng Tín (Tuy An). Trên đường đi, họ đã tìm đến nơi ở của nhà yêu nước Phan Bội
Châu (Huế), Ngô Đức Kế (Hà Nội) để dò hỏi tình hình. Sau một năm, họ trở về Phú Yên,
cùng một số anh chị em tại địa phương như Phan Thanh, Trần Chương, Võ Thị Trang mở
rộng chi nhánh Hưng nghiệp, một tổ chức làm kinh tế của Hội và tuyên truyền dân chúng
dùng hàng nội, bài hàng ngoại.
Lúc này ở Phú Yên có chi nhánh Hưng Nghiệp hội xã ở Sông Cầu - Đồng Xuân (bao
gồm cả Tuy An ngày nay) và ở Tuy Hòa.
4
Tháng 3-1928, đồng chí Nguyễn Văn Nguyên, y tá, quê ở Nghệ An, hoạt động trong
tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ở Vinh bị đổi vào làm việc tại nhà thương
Sông Cầu. Khi đi, đồng chí được các đồng chí trong Kỳ bộ Hội Việt Nam cách mạng thanh
niên Trung Kỳ giao nhiệm vụ xây dựng phát triển lực lượng Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên tại Phú Yên. Đến Sông Cầu, đồng chí Nguyễn Văn Nguyên tìm hiểu tình hình,
nắm lại các tổ chức Hưng nghiệp hội xã, liên lạc với Nguyễn Trung Hanh thư ký Tòa án,
Nguyễn Giao ở Sở Công chánh. Tháng 6-1928, chi bộ Hội Việt Nam cách mạng thanh niên
ở Phú Yên chính thức ra đời gồm các đồng chí: Nguyễn Văn Nguyên, Nguyễn Trung Hanh,
Nguyễn Giao. Đồng chí Nguyễn Văn Nguyên làm Bí thư chi bộ và hoạt động tại Sông Cầu.
Đầu năm 1929, đồng chí Nguyễn Văn Nguyên vào làm việc tại Tuy Hòa, còn đồng chí
Nguyễn Trung Hanh và Nguyễn Giao vào hoạt động ở Nam Kỳ. Từ đó chi bộ Hội Việt
Nam cách mạng thanh niên ở Sông Cầu không còn nữa.
Tháng 1-1929, đồng chí Hoàng Hữu Đàn, giao thông của Kỳ bộ Hội Việt Nam cách
mạng thanh niên Trung Kỳ đến Phú Yên, móc nối, xây dựng lại cơ sở. Mùa hè 1929, Hoàng
Hữu Đàn bắt mối được Phan Thanh, Trần Chương, Võ Thị Trang, Phạm Sĩ Vinh (Trưởng
kíp ở Sở dẫn thủy nhập điền Tuy Hòa), Trần Hòa, Huỳnh Lưu, Trương Thị Hảo là những
thành viên của Hưng nghiệp hội xã, thành lập Chi bộ Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ở
Tuy Hòa. Hội Việt Nam cách mạng thanh niên Tuy Hòa hoạt động dưới hình thức hợp pháp
là các Hưng nghiệp hội xã, tập trung tuyên truyền tôn chỉ mục đích, phát triển hội viên. Hội
cũng dự định rải truyền đơn vào ngày 1-5-1929 trong toàn tỉnh, song kế hoạch đã bại lộ,
không thực hiện được. Mật thám bắt đầu theo dõi và khám xét truy nã tổ chức này.
Giữa năm 1929, cơ sở Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ở Quảng Trị bị vỡ. Qua sự kiện
này, địch phát hiện được các hoạt động của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ở Phú
Yên, nên cuối năm 1929 Hưng nghiệp hội xã ở Tuy Hòa bị niêm phong, những người lãnh
đạo Hội như: Phan Thanh, Trần Chương bị địch bắt. Tổ chức Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên lại tan rã.
2. Tân Việt cách mạng Đảng
Năm 1927, thầy giáo Phạm Đức Bân dạy học ở Trường tiểu học Thanh Hóa bị bọn
thống trị nghi thầy làm chính trị nên đổi vào huyện Cam Lộ (Quảng Trị). Tháng 9-1927,
chúng lại đưa vào Sông Cầu (Phú Yên). Cùng đi với thầy giáo Phạm Đức Bân có Nguyễn
Văn Hợi, Trương Khâm, và một số người khác.
Đến Sông Cầu, thầy giáo Phạm Đức Bân cùng các thầy giáo Bùi Dung, Trịnh Bá Đài
và một số thanh niên học sinh như Nguyễn Lân, Trương Khâm, Bùi Văn Hữu tuyên truyền,
vận động, xây dựng tổ chức Tân Việt tại Sông Cầu.
Tài liệu tuyên truyền lúc này là các quyển sách nhỏ của nhà xuất bản Quan hải tùng
thư, báo Thần Chung (Chuông thần) Tiếng Dân và những bài văn thơ yêu nước của cụ Phan
Châu Trinh, Phan Bội Châu, báo An Nam do luật sư Phan Văn Trường làm chủ bút, tờ
Argus (chim trĩ) của nhóm Clementi Pháp kiều ở Hà Nội có xu hướng dân chủ, còn những
bài hát như Chiêu hồn nước, Người đi đày, Hỡi đồng bào thường được hát và truyền
miệng cho nhau. Với hình thức giáo dục tình cảm, chọn mặt gửi vàng, đồng tâm đồng chí,
tổ chức Tân Việt ngày càng mở rộng, đấu tranh ngày càng hăng hái, ý chí phản đế, phản
phong ngày càng quyết liệt. Tân Việt là ngọn cờ cách mạng của Phú Yên lúc bấy giờ.
Cuối năm 1928, Tân Việt cách mạng Đảng ở Phú Yên thông qua đồng chí Phạm Bá Hòe
(công nhân nhà máy điện Qui Nhơn) đã có những liên hệ chặt chẽ với Trung ương Tân Việt
cách mạng Đảng nên phương pháp đấu tranh, tập hợp lực lượng có nhiều đổi mới. Các đảng
viên Tân Việt cách mạng đã tiến hành nhiều đợt rải truyền đơn, treo cờ ở Sông Cầu, kêu gọi
đấu tranh chống đế quốc và phong kiến.
THÀNH LẬP CHI BỘ ĐẢNG CỘNG SẢN ĐẦU TIÊN Ở PHÚ YÊN
Vào cuối mùa thu 1929, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đang hoạt động ở Xiêm (Thái
Lan), được nghe báo cáo về tình hình giữa các Đảng cộng sản trong nước. Đầu tháng giêng
5
năm 1930, Người từ Xiêm trở lại Hương Cảng, triệu tập Hội nghị hợp nhất các tổ chức
cộng sản. Dự hội nghị có 2 đại biểu của Đông Dương Cộng sản đảng và 2 đại biểu An Nam
Cộng sản đảng, còn Đông Dương Cộng sản liên đoàn thành lập sau nên không kịp cử đại
biểu đến dự hội nghị. Tại phiên họp ngày 3-2-1930, các đại biểu đã ra quyết định thống
nhất các tổ chức cộng sản, thành lập một Đảng Cộng sản chân chính lấy tên là Đảng Cộng
sản Việt Nam, đồng thời thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình
tóm tắt, Điều lệ tóm tắt của Đảng.
Cuối năm 1929, đồng chí Phan Lưu Thanh, thành viên trong Hưng nghiệp hội xã ở
La Hai vào Sài Gòn học lái xe ô tô ở Trường Cơ khí Chu Văn Hai. Tại đây, ông được các
đảng viên cộng sản Nguyễn Chương và Tư Rèn (công nhân đóng tàu xưởng Ba Son) tuyên
truyền giác ngộ cách mạng.
Sau đó ông được giao nhiệm vụ về lại Phú Yên gây cơ sở và tổ chức các hoạt động
nhằm kêu gọi thợ thuyền, dân cày, binh lính nổi dậy chống bất công, cải thiện cuộc sống,
đoàn kết với vô sản thế giới chống đế quốc và phong kiến. Nhiều lần cờ Đảng được treo ở
cây me (giữa nhà công sứ Pháp với nhà Lục bộ), ở đồn lính khố xanh. Truyền đơn được rải
từ cầu Tam Giang đến chân dốc Găng, cầu Thị Thạc và nhà thương Sông Cầu.
Ngày 1-8-1930, cờ búa liềm được treo ở sân quần
vợt, trường tiểu học, đồn lính khố xanh; truyền
đơn được rải từ cầu Thị Thạc đến trung tâm tỉnh
lỵ.
Qua những hoạt động và thử thách thực tế,
tháng 8-1930 Phan Lưu Thanh được kết nạp vào
Đảng Cộng sản Việt Nam tại chi bộ Thị Nghè
(Sài Gòn) , rồi được cử về La Hai (Phú Yên).
Tại đây, qua liên lạc, móc nối, Ông đã tập hợp
được một số thanh niên tiến bộ, kết nạp họ vào
Đảng cộng sản, đầu tiên là đồng chí Bùi Xuân Cảnh, rồi đến Phan Ngọc Bích (Việt Hồng)
Nguyễn Thạnh, Nguyễn Phục Hưng, Nguyễn Hữu Tánh, Nguyễn Diệp, Nguyễn Thị Hảo.
Trên cơ sở đó, ngày 5-10-1930, tại thôn Đồng Bé, xã Xuân Long (Đồng Xuân), đồng chí
Phan Lưu Thanh đã tổ chức hội nghị đảng viên, tuyên bố thành lập chi bộ Đảng cộng sản tại
Phú Yên.
Tiếp theo việc thành lập của chi bộ Đảng tại Đồng Bé - La Hai, nhiều chi bộ Đảng
khác cũng được thành lập như: chi bộ Phước Lãnh, Thạnh Đức, Triêm Đức, Phước Hòa,
Phú Xuân, Hà Trung, Hà Bằng, Háo Danh, Khoan Hậu thuộc huyện Đồng Xuân và An Thổ,
Ngân Sơn thuộc huyện Tuy An.
TỈNH ỦY PHÚ YÊN RA ĐỜI (1 – 1931).
Sau một thời gian hoạt động và phát triển các cơ sở Đảng, đảng viên, số lượng đảng
viên và chi bộ Đảng tăng lên đáng kể. Tình hình đó, đòi hỏi phải có một tổ chức lãnh đạo
chung thì các hoạt động mới đạt hiệu quả cao. Do đó, tháng 1-1931, các đồng chí đảng viên
tổ chức Hội nghị và quyết nghị thành lập Tỉnh ủy lâm thời. Ban lãnh đạo gồm có 5 đồng
chí; đồng chí Phan Lưu Thanh được cử giữ chức Bí thư Tỉnh ủy. Tại cuộc họp, đồng chí Bí
thư thay mặt Tỉnh ủy lâm thời báo cáo tình hình trong và ngoài nước, vạch rõ tội ác của bọn
thực dân, xác định phương hướng, nhiệm vụ đấu tranh cách mạng thời gian đến.
Tháng 2-1931, Tỉnh ủy lâm thời liên lạc với Phân ban Xứ ủy Trung Kỳ đóng tại Quy Nhơn,
được Phân ban Xứ ủy thừa nhận. Sau đó, Xứ ủy Trung Kỳ điều động đồng chí Phan Lưu
Thanh về công tác tại Phân ban và cử đồng chí Trần Toại (tức Kim Tương, quê ở Quảng
Ngãi) làm Bí thư Tỉnh ủy.
PHONG TRÀO CÁCH MẠNG TRONG NHỮNG NĂM 1930 - 1931 .
Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1929-1933 đã tác động sâu sắc đến nền kinh tế Đông
Dương. Nhiều nhà máy, xí nghiệp thu hẹp quy mô sản xuất, hàng vạn công nhân bị sa thải,
6
đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Thêm vào đó là hàng nghìn vụ bắt bớ diễn ra khắp
cả Bắc, Trung và Nam Kỳ, đã làm cho lòng căm thù của các tầng lớp nhân dân đối với thực
dân Pháp ngày càng quyết liệt. Nhân dân nhiều nơi trong nước đã tổ chức đấu tranh đòi dân
sinh, dân chủ, chống đàn áp, bóc lột.
Những phong trào đấu tranh của nhân dân các nơi đã khơi thành ngọn lửa làm bùng
cháy phong trào cách mạng ở Phú Yên.
Tháng 4-1931, tại Bầu Rùa dưới chân núi hòn Chảo, hơn 300 người dân đã tham gia
mít tinh chống Pháp.
Từ tháng 5-1931 đến tháng 6 - 1931, các chi bộ Đảng tổ chức nhiều cuộc mit tinh,
lên án chế độ thực dân, kêu gọi nhân dân đấu tranh chống khủng bố trắng ở Nghệ Tĩnh và
Quảng Ngãi, đỉnh cao là các xã thôn trong huyện Đồng Xuân như La Hai, Triêm Đức,
Thạnh Đức, Phước Lãnh. Truyền đơn cũng được in rải nhiều nơi tại Sông Cầu, Tuy An, La
Hai, Củng Sơn và trên các trục đường giao thông lớn.
Giữa lúc phong trào cách mạng ở Phú Yên có xu hướng phát triển thuận lợi, Xứ ủy
Trung kỳ chủ trương hai tỉnh Bình Định và Phú Yên chuẩn bị lực lượng tổ chức cuộc biểu
tình vào ngày 20-7-1931, nhân kỷ niệm cách mạng tư sản Pháp và Quốc tế chống chiến
tranh (1-8-1914), nhằm phát động một cao trào cách mạng mới, phân tán sự khủng bố của
Pháp tại Nghệ Tĩnh.
Kế hoạch đang khẩn trương chuẩn bị, ngày 13-7-1931 đồng chí liên lạc Sông Cầu -
La Hai bị địch bắt và chúng khai thác được nhiều tin tức. Đêm 17-7-1931, khoảng 30 lính
tập được ô tô chở đến La Hai và 5 làng lân cận. 5 giờ sáng cùng ngày, chúng bất ngờ tập
kích và truy bắt các đồng chí đảng viên.
Ngay trong đêm 17-7-1931, các đồng chí đảng viên bị bắt và giam trong nhà lao đã
thành lập ban lãnh đạo gồm: Phan Lưu Thanh, Bùi Xuân Cảnh, Nguyễn Tánh, Cao Lộc,
Nguyễn Khắc Khoan, Trương Tấn Ích. Ban lãnh đạo quyết định tất cả các đồng chí bị bắt
không được khai gì cho địch, nếu đồng chí nào chịu không nổi thì chỉ khai tập trung vào
đồng chí Phan Lưu Thanh là có tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản. Các đảng viên chưa bị lộ
vào Tuy Hòa hoạt động và tổ chức lại cơ sở Đảng. Ban lãnh đạo cũng đề ra nhiệm vụ đấu
tranh chống chế độ hà khắc của nhà tù, giúp đỡ những gia đình có người bị bắt đang gặp
khó khăn, tố cáo những tên lý trưởng ngoan cố ngóc đầu dậy lập công với địch để khoét sâu
mâu thuẫn nội bộ.
Do sự đấu tranh quyết liệt của các tù nhân, vào lúc 14 giờ 00 ngày 28-10-1931, phiên
tòa xét xử được mở tại dinh Án sát Sông Cầu. Thành phần tham dự có Công sứ, Tuần vũ,
Án sát, Tổng lý và đông đảo quần chúng nhân dân. Tòa đã kết án 31 người; đồng chí Trần
Toại (Kim Tương) bị tù chung thân phát phối, đồng chí Phan Lưu Thanh 15 năm tù phát
phối, cả hai bị đày lên nhà lao Buôn Ma Thuột. Tỉnh ủy Phú Yên bị tan rã.
Thực hiện Nghị quyết của Chi bộ nhà lao Sông Cầu, đồng chí Phan Ngọc Bích vào
Tuy Hòa làm nghề kéo xe, thông qua công tác tuyên truyền, giác ngộ cách mạng, một số
thanh niên tích cực được kết nạp vào Đảng. Ngày 24-11-1931, chi bộ Đảng Tuy Hòa được
thành lập tại chùa Bà (nay thuộc phường I) dưới chân núi Nhạn.
Tháng 7-1935, đồng chí Phan Lưu Thanh ra tù, sau đó, đồng chí cùng một số đảng
viên cũ (Huỳnh Lưu, Việt Hồng) khôi phục lại chi bộ đảng ở La Hai, Chi bộ bắt liên lạc với
Xứ ủy qua đồng chí Phan Đăng Lưu ở Huế và liên hệ với các tổ chức đảng ở phía nam Bình
Định, tổ chức một chi bộ gần nhà máy tơ Phú Phong, lấy tên là chi bộ Hồng Lĩnh.
Giữa năm 1935, tổng số đảng viên trong toàn phủ Tuy Hòa là 16 đảng viên (9 đảng viên
thuộc các thôn Nho Lâm, Hạnh Lâm, Tịnh Lâm, Long Tường, Quy Hậu; 7 đảng viên thuộc
các thôn Phước Hậu, Liên Trì, Mỹ Thạnh). Cuối năm 1935, đồng chí Trần Hào cùng một số
đảng viên ở Tuy Hòa lập Ban vận động thành lập Tỉnh ủy, Đồng chí Trần Hào được cử là
Trưởng ban. Cách mạng Phú yên được phục hồi sau phong trào đấu tranh 1930 – 1931.
7
Câu hỏi 3: Tại sao nói chiến thắng Đường 5 Xuân 1975 ở Phú Yên là “trận Bạch Đằng
giang trên cạn”, là “đòn quyết định cuối cùng” tiêu diệt toàn bộ quân địch từ Tây
Nguyên rút chạy về đồng bằng ven biển miền Trung?
Chiến thắng Đường số 5 Xuân 1975 ở Phú Yên là một chiến công của quân và dân
Phú Yên, được xem là “ trận Bạch Đằng giang trên cạn”, là “ đòn quyết định cuối cùng”
làm phá sản hoàn toàn kế hoạch rút lui chiến lược của địch về các tỉnh đồng bằng ven biển
miền Trung năm 1975. Để tìm hiểu về vấn đề này chúng ta nhìn nhận lại sự thật lịch sử diễn
ra ở Phú Yên cách đây gần 35 năm với những tư liệu cụ thể và khoa học. Đó là kế hoạch rút
quân chiến lược, quy mô của địch từ Tây Nguyên về đồng bằng, sự chủ động và chỉ đạo kịp
thời của Khu ủy Khu V và Tỉnh ủy Phú Yên, sự phối hợp giữa bộ đội chủ lực và quân dân
địa phương ở huyện Tuy Hòa…Có như vậy chúng ta mới đánh giá đúng đắn về giá trị to
lớn của chiến thắng lịch sử Đường 5 Xuân 1975 ở Phú Yên.
* KẾ HO Ạ CH RÚT LUI CHI Ế N L ƯỢ C C Ủ A ĐỊ CH
Ngày 10 – 3 – 1975, Ngụy quân bị ta đánh đau và hiểm ở Buôn Ma Thuột đã khiến
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, đại tướng Cao Văn Viên, thiếu tướng Phạm Văn Phú - Tư
lệnh quân đoàn 2 ra lệnh cho sư đoàn 23, các đơn vị biệt động quân và không quân tái
chiếm Buôn Ma Thuột.
Ngày 12/3, tướng Phú ra lệnh sư đoàn 23 sử dụng trung đoàn 44 đổ quân xuống
Phước An để phản kích phía Đông. Đây là sư đoàn thiện chiến nhất của quân ngụy Sài Gòn
trên chiến trường Tây Nguyên. Nhưng chúng bất ngờ bị ta tấn công tiêu diệt.
Lực lượng cơ động bị tiêu diệt ngày 14/3, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bay ra Nha Trang
để nghe thiếu tướng Phạm Văn Phú báo cáo tình hình chiến sự của quân đoàn 2, đồng thời
yêu cầu Sài Gòn nếu muốn giữ Tây Nguyên phải tăng viện. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
nói: “Chúng ta đang bị tấn công khắp nơi, chứ không phải ở quân đoàn 2, địch đánh mạnh
hơn năm 1968-1972, chúng ta không thể giữ nổi cao nguyên nữa. Tôi ra lệnh rút lui về giữ
vùng duyên hải Trung phần”. (Theo tài liệu của Bộ Tổng tham mưu ngụy).
Sau đó, kế hoạch rút quân được thiết lập. Những người
có mặt gồm: thiếu tướng Phạm Văn Phú, chuẩn tướng
Trần Văn Cẩm (phụ tá hành quân), chuẩn tướng Phạm
Ngọc Sang (Tư lệnh sư đoàn 6 không quân), Phạm
Duy Tất (Tham mưu trưởng quân đoàn, tư lệnh biệt
động quân) đều tuyên thệ giữ bí mật kế hoạch rút lui
chiến lược này. Ngày 15/3, Phạm Văn Phú và Bộ tư
lệnh nhẹ của quân đoàn 2 rời khỏi Pleiku.
Trước đó, Phú triệu tập Phạm Duy Tất, Tỉnh trưởng và Trưởng ty ngân khố ngụy tại
đây để đốt 30 triệu bạc (theo tài liệu tổng kết của binh đoàn Tây Nguyên).
Ngày 16/3, chuẩn tướng Trần Văn Cẩm điều động liên đoàn 21 biệt động quân từ Chư Prao
về giữ an ninh thị xã Pleiku (vì tình hình tại thị xã này lúc bấy giờ khá hỗn loạn). Sư đoàn 6
không quân ngụy liên tục chở quân và một số gia đình sĩ quan rời khỏi Pleiku
Cùng ngày, một lực lượng lớn gồm: Liên đoàn 6 biệt động quân, thiết
đoàn 19, liên đoàn 20 công binh cùng hơn 300 xe quân sự và khoảng 900 xe dân sự từ
Pleiku theo đường 7 hành quân về Cheo Reo. Liên đoàn 25 biệt động quân đang trấn giữ
vùng Thanh An cũng rút quân về Phú Bổn. Cuộc rút quân trở nên hỗn loạn. Chiều 17/3, bộ
phận đi đầu của địch đã đến Củng Sơn. Hành trình của chúng là theo đường 7 đến tây Củng
Sơn 4km, rồi theo đường mòn xuống Hòn Một để về Thạnh Hội, dừng lại chờ bắc cầu phao
để vượt sông Ba.
Để bảo đảm cho lực lượng Tây Nguyên rút về Phú Yên, ngày 16/3, tướng Phạm Văn
Phú thành lập bộ phận Chỉ huy hành quân đặt tại Tỉnh đường Phú Yên do chuẩn tướng Trần
Văn Cẩm, Phạm Duy Tất và Tỉnh trưởng Phú Yên điều hành. Cùng ngày, quân đoàn 2 điều
động phương tiện làm cầu phao từ Nha Trang ra sân bay Đông Tác, điều động lực lượng
8
bảo an chốt giữ trục đường 5 từ cầu Tổng lên Hòn Kén – Sơn Thành, điều động trận địa
pháo từ cầu Cháy – Hòa Đồng lên Hòn Kén – Sơn Thành.
Ngày 17/3, địch bắc cầu phao vượt sông Ba đoạn từ ngã ba sông Nhau và sông Ba.
Ngày 18/3, địch lần lượt qua cầu phao về co cụm khu vực Hòn Kén – Sơn Thành.
Cùng ngày, Tỉnh trưởng Phú Yên điều liên đoàn bảo an 924 sang chốt giữ trục đường 5, Tư
lệnh quân đoàn 2 điều tiểu đoàn biệt động quân từ Khánh Hòa ra chốt đèo Cả và phản kích
chiếm lại Núi Một – Hòa Tân. 19 giờ ngày 19/3, địch từ Hòn Kén bắt đầu hành quân theo
đường 5, bị ta chặn đánh, tiêu diệt, địch co cụm lại Hòn Kén.
*QUÂN TA TRUY KÍCH BUỘC ĐỊCH PHẢI RÚT VỀ ĐƯỜNG SỐ 5.
Về phía ta, sư đoàn 320 (do đại tá Nguyễn Kim Tuấn, Tư lệnh sư đoàn và thượng tá
Bùi Hy Bỏng, Chính ủy sư đoàn chỉ huy) truy kích diệt địch ở Cheo Reo, đường 7 đến
Củng Sơn. 20 giờ 30 phút ngày 16/3, sư đoàn 320 nhận lệnh của Bộ Tư lệnh chiến dịch Tây
Nguyên, nhanh chóng tổ chức lực lượng chốt đánh địch ở nam Cheo Reo, tập trung lực
lượng để đánh địch rút chạy trên đường 7, Cheo Reo.
Ngày 17/3, tiểu đoàn 9 (thuộc trung đoàn 64) vận động ra chốt chặn địch đường 7,
cách nam Cheo Reo 4km, diệt nhiều xe cơ giới. Sáng 18/3, tiểu đoàn 7 chặn đánh địch ở
phía nam cách thị xã Phú Bổn 8km; trung đoàn 48 đưa tiểu đoàn 2 áp sát thị xã nổ 9hon diệt
2 đại đội; tiểu đoàn 1 áp sát sân bay, chuẩn bị cắt đường 7, Cheo Reo, Phú Thiện. Trong 2
ngày 18 và 19/3, trung đoàn 48 và trung đoàn 64 đánh chiếm thị xã Phú Bổ; trung đoàn 64
bao vây đông Cheo Reo, chặn không cho địch theo đường 7 chạy về Phú Yên.
Từ 18 – 20/3, bị sư đoàn 320 của ta tấn công tiêu diệt, quân địch co cụm tại Cheo Reo. Đến
22 giờ ngày 23/3, bộ phận đi đầu của trung đoàn 64 quân giải phóng bắt liên lạc được với
tiểu đoàn 96 địa phương Phú Yên. Hai bên thông báo tình hình cho nhau và triển khai
chuẩn bị tấn công địch ở Củng Sơn.
10 giờ ngày 24/3, mọi công tác đã chuẩn bị xong. Địch phát hiện sư đoàn 320 truy
kích nên đã phá cầu phao tháo chạy. Trung đoàn 64 và tiểu đoàn 96 tấn công địch ở Củng
Sơn, Núi Một phát triển đánh chiếm bãi xe Thạnh Hội; tiểu đoàn 96 phát triển đánh chiếm
yếu khu Phú Đức, Tuy Bình.
*CHIẾN THẮNG ĐƯỜNG 5, CHIẾN CÔNG VĨ ĐẠI
CỦA QUÂN VÀ DÂN PHÚ YÊN NĂM 1975.
8 giờ ngày 17/3, Chỉ huy tiền phương Phú Yên nhận
được điện của Tư lệnh Quân khu 5: “Địch rút bỏ Tây
Nguyên theo đường 7 về Phú Yên, Tỉnh đội Phú Yên điều
động toàn bộ lực lượng tập trung đánh địch trên đường 7,
không cho chúng chạy thoát về Tuy Hòa; điều động tiểu
đoàn 96 hành quân lên tây Củng Sơn liên lạc với sư đoàn
320 đánh địch tây Củng Sơn, nhận điện tổ chức thực hiện
và báo cáo”.
Sáng ngày 18-3, tại núi Hương xã Hòa Mỹ, quận Tuy Hòa 1, Sở chỉ huy tiền phương
dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Duy Luân, Bí thư Tỉnh ủy, cùng lãnh đạo các ngành,
các cơ quan tham mưu quân đội họp quán triệt nhiệm vụ của Khu giao và quyết định
phương án chiến đấu, nhằm ngăn chặn, làm tan rã và tiêu hao lực lượng địch trên đường rút
chạy. Lực lượng tham gia đánh chặn địch trên đường số 5 có các tiểu đoàn 9, 13, 96 bộ
binh, tiểu đoàn trợ chiến 189, đại đội đặc công 25, 201, 24, đại đội 19 và K65 công binh,
đại đội 377 và 203 bộ đội địa phương Tuy Hòa, đại đội 202, 378 làm nhiệm vụ chốt đường
số 7, bộ đội Sơn Hòa đánh tập hậu đội hình địch.
Đúng 4 giờ 15 phút ngày 19-3, tiểu đoàn 13 và bộ phận hỏa lực tiểu đoàn 189 tập
kích vào cầu Cháy (nằm giữa hai xã Hòa Mỹ và Hòa Đồng). Cùng thời gian đó, đại đội đặc
công 201 tập kích hòn Kén thuộc xã Sơn Thành, đại đội 25 tập kích hòn Sặt. Tiểu đoàn 9 và
đại đội 377 đánh chiếm Phú Thứ. Đại đội đặc công 203 đánh vào trụ sở ngụy quyền ở thôn
9
Phước Bình, xã Hòa Thành. Du kích và nhân dân xã Hòa Thịnh, Hòa Mỹ nổi dậy bao vây,
bắn tỉa gọi loa binh địch vận, buộc địch tháo chạy khỏi chốt núi Lá (Hòa Mỹ) và khu dồn
Phú Hữu (Hòa Thịnh), ta giải phóng hoàn toàn hai xã này. Tiểu đoàn 9 đánh vào xã Hòa
Phong và nổ súng tấn công hòn Sặt (lần thứ hai) diệt toàn bộ quân địch đóng tại đây.
Đến 11 giờ trưa ngày 19-3, địch cho hai máy bay A 37 và các trận địa pháo ở Bàn Thạch,
núi Nhạn, hòn Kén bắn vào cầu Cháy và một số khu vực khác, đồng thời chúng tập hợp lực
lượng còn lại của tiểu đoàn 236 tổ chức phản kích chiếm lại cầu Cháy để từ đó đánh vào
Hòa Thịnh, hòn Dù. Địch còn tổ chức một lực lượng khác đánh vào Hòa Phong, Phú Thứ.
Trong lúc ta đang tổ chức đánh trả các đợt phản công thì Sở chỉ huy thông báo có đoàn xe
địch hàng trăm chiếc từ hòn Kén chạy xuống. Tiểu đoàn 9 đã nhanh chóng chuyển đội hình
từ tấn công, truy kích sang phục kích ở đoạn Hòn Sặt - Mỹ Thạnh. Khi 5 chiếc xe tăng lọt
vào trận địa, đại đội 3 tiểu đoàn 9 nổ súng diệt 4 chiếc, chiếc đi đầu vượt khỏi đội hình chạy
đến Phú Thứ bị đại đội 377 tiêu diệt, toàn bộ đội hình phía sau của địch lùi lại hòn Kén.
Đêm 19-3, một bộ phận của tiểu đoàn 13 vây chặt địch tại Phú Diễn, đến 5 giờ sáng ngày
20-3 ta xuất kích, diệt 40 tên.
Sáng 20-3, tiểu đoàn 13 phục kích từ thôn Phước Thịnh đến Mỹ Thạnh Tây, tiểu
đoàn 9 phục kích từ Mỹ Thạnh Tây đến Lương Phước, đại đội 377 và 203 chốt tại Cầu
Tổng Phú Thứ, đại đội 19 và K65 công binh cùng 2 cối 82 đánh địch ở quốc lộ I đoạn từ
Hòa Xuân vào Đèo Cả, chặn không cho địch từ Phú Yên chạy vào Khánh Hòa và từ Khánh
Hòa ra Phú Yên, đồng thời kiềm chế trận địa pháo địch ở cầu Bàn Thạch. Tiểu đoàn 189 tập
trung hỏa lực chi viện cho các đơn vị chiến đấu đường số 5. Đại đội 201, 25 đặc công, bộ
đội Sơn Hòa tập kích địch ở hòn Kén. Đại đội 202 đặc công và các lực lượng vũ trang quận
Tuy Hòa chặn đánh địch trên đường số 7. Nhìn chung, ngày 20-3 ta đã hình thành một thế
trận đánh địch trên hai trục đường số 5 và số 7, suốt từ miền núi đến đồng bằng.
Sáng ngày 22-3, hàng trăm chiếc xe Hon-đa của địch chạy đến cầu Đồng Bò. Sở chỉ
huy tiền phương đã nắm được ý đồ của địch, thông báo các đơn vị quan sát, sẵn sàng nổ
súng đề phòng địch giả dân chạy thoát. Tiểu đoàn 13 và tiểu đoàn 9 được giao nhiệm vụ
này. Kết quả ta diệt tại chỗ 120 tên, bắt sống 300 tên, trong đó có nhiều sĩ quan cấp úy, cấp
tá. Thu hồi và phá hủy 300 xe Hon Đa, 3 xe Jeep, 7 xe GMC, 20 súng và nhiều phương tiện
chiến tranh. Số địch chạy thoát về cụm tại hòn Kén.
Chiều ngày 22-3, Sở chỉ huy tiền phương điều tiểu đoàn 9 lên sát cầu Đồng Bò để
đánh chính diện và điều một bộ phận khác khóa đuôi bảo vệ cầu máng. Mặt khác, ta tăng
cường một bộ phận công binh và du kích chốt đường 5, đoạn từ Đồng Bò đến Lương
Phước.
Sáng ngày 23-3, địch đưa liên đoàn bảo an 924 và tiểu đoàn 236 chia thành nhiều
cánh có máy bay yểm trợ, theo đường 5 tấn công cùng một lúc vào lực lượng ta ở Hòa
Bình, Hòa Phong và từ Hòa Tân đánh lên cầu Cháy, núi Lá, núi Hương phát triển qua hòn
Sặt. Đến trưa, địch đưa tiểu đoàn 268 từ hòn Kén đánh xuống, khi đến cầu Đồng Bò bị đại
đội 3 tiểu đoàn 9 chặn đánh, địch phải rút về hòn Kén.
Một đơn vị khác của địch chiếm cầu Phú Thứ, phát triển lên Phước Thịnh, bị tiểu
đoàn 13 chặn đánh phải rút về lại Phú Thứ. Để tiếp sức, địch điều thêm một tiểu đoàn biệt
động từ Khánh Hòa ra đánh theo hướng đông nam, khi đến xã Hòa Xuân bị đại đội 10, K65
và du kích Hòa Xuân chặn đánh phải dừng lại tại Đèo Cả.
Tuy đã tìm mọi cách, nhưng đến hết ngày 23-3-1975 địch vẫn chưa thông được
đường. 16 giờ ngày 23-3, tiểu đoàn 96 phối hợp với trung đoàn 64 sư đoàn 320 tấn công
vào quận lỵ Củng Sơn. Địch phát hiện quân chủ lực ta có xe tăng, nên hoảng hốt chen nhau
tháo chạy qua cầu phao tại Thạnh Hội, đã làm cho hàng chục xe và hàng trăm tên lính rơi
xuống sông chết đuối. 9 giờ sáng ngày 24-3-1975 ta giải phóng Củng Sơn.
Sáng 25-3-1975, tiểu đoàn 96 phối hợp với một bộ phận của trung đoàn 64 sư đoàn
320 phát triển qua Tuy Bình bao vây yếu khu Phú Đức, đến 8 giờ sáng toàn bộ bọn địch ở
10
đây ra đầu hàng.Trước tình hình đó, quân địch hoàn toàn hỗn loạn, thi nhau chạy về Tuy
Hòa. Trên đường số 5, đoạn từ Mỹ Thạnh Trung đến Lương Phước ta tiêu diệt 400 tên, làm
bị thương 200 tên và bắt sống 1.200 tên, hàng trăm xe bị đổ, bị đốt cháy.
Chiến thắng đường 5 là một mốc son lịch sử đánh bại cuộc rút lui chiến lược về đồng bằng
của Mỹ-ngụy. Vì thế chúng ta có thể tự hào nói rằng chiến thắng Đường 5 Xuân 1975 ở Phú
Yên là “trận Bạch Đằng giang trên cạn”, là “đòn quyết định cuối cùng” tiêu diệt toàn bộ
quân địch từ Tây Nguyên rút chạy về đồng bằng ven biển miền Trung.
Câu hỏi 4: Diễn biến và kết quả cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 ở tỉnh Phú
Yên?
1. Chủ trương của Bộ Chính trị và kế hoạch tác chiến của Quân khu V
Thực tế tình hình sau Hiệp định Pa-ri cho thấy thời cơ chiến lược càng đến gần cũng
là quá trình Tổng hành dinh khẩn trương nghiên cứu, cân nhắc, thảo luận về phương hướng
và biện pháp chiến lược giành thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước. Nhân kỷ niệm 35 năm ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống
nhất đất nước tôi xin giới thiệu những nét cơ bản về quá trình xây dựng và việc tổ chức thực
hiện kế hoạch chiến lược này.
Từ đầu tháng 10 năm 1973, Hội nghị Trung ương lần thứ 21 đã định hướng cho việc
hình thành chiến lược giải phóng miền Nam. Nghị quyết xác định: Bất kỳ trong tình huống
nào ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công.
Trước đó, do sớm nhận thức phương hướng chiến lược nên từ đầu năm 1973 Quân
ủy Trung ương đã chỉ thị hình thành một Tổ trung tâm trong Bộ Tổng tham mưu có nhiệm
vụ chuẩn bị kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam. Từ đầu tháng 6 đến trung tuần
tháng 8-1973, kế hoạch chiến lược đã được dự thảo ba lần, mỗi lần đều được Bộ Chính trị
và Quân ủy Trung ương cho ý kiến để bổ sung sửa chữa. Mỗi lần dự thảo và bổ sung đều
thấy xuất hiện những vấn đề mới cần được tiếp tục trao đổi, thảo luận. Đáng chú ý là ngay
từ những ngày chuẩn bị Hội nghị Trung ương 21, Bí thư thứ nhất Lê Duẩn thường nhấn
mạnh khả năng phát động tổng khởi nghĩa kết hợp với tổng công kích, lấy địa bàn chủ yếu
là thành thị để giải phóng miền Nam. Do đó, trong lần dự thảo thứ ba, Tổ trung tâm đi sâu
phân tích những đặc điểm của cuộc tổng khởi nghĩa, dự kiến thời cơ tổng khởi nghĩa có thể
diễn ra và các biện pháp chiến lược nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp để tiến hành tổng
khởi nghĩa, tổng công kích, lấy phát động quần chúng làm khâu chủ yếu nhất, trọng điểm số
1 là Sài Gòn. Tổng công kích – tổng khởi nghĩa trở thành vấn đề nổi bật được thảo luận rất
nhiều trong những lần Bộ Chính trị thông qua kế hoạch chiến lược.
Sau khi hướng dẫn Tổ trung tâm nghiên cứu kinh nghiệm kết thúc chiến tranh của
một số nước đặc biệt là Liên Xô và Trung Quốc… Bí thư Quân ủy Trung ương Võ Nguyên
Giáp liên hệ với tình hình thực tế miền Nam nước ta, khẳng định không thể đặt vấn đề tổng
khởi nghĩa lên hàng đầu mà nhất thiết phải có những chiến dịch tiến công quy mô lớn, tiêu
diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, tạo điều kiện tiến công vào sào huyệt chủ yếu
của chúng trong các thành phố lớn, kết hợp chặt chẽ với nổi dậy của quần chúng để kết thúc
chiến tranh. Trải qua nhiều lần trao đổi, cuối cùng Bí thư thứ nhất Lê Duẩn nhất trí phải
phát huy sức mạnh tổng hợp của cả thành thị và nông thôn với quả đấm chiến lược là các
binh đoàn chủ lực, thực hành tổng công kích - tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi. Tổ trung
tâm tiếp tục nghiên cứu và hoàn chỉnh bản kế hoạch chiến lược theo phương hướng đó.
Một trong những điểm quan trọng trong kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam
là yêu cầu, nhiệm vụ tiêu diệt và làm tan rã hơn một triệu quân đội Sài Gòn trong một thời
gian nhất định, phải hoàn toàn khác với yêu cầu và nhiệm vụ đề ra trong cuộc Tổng tiến
công chiến lược Tết Mậu Thân (1968) và cuộc tiến công chiến lược năm 1972. Do đó, trong
nhiều nội dung được nêu lên để nghiên cứu phân tích có hai vấn đề chủ yếu.
11
Về vấn đề thứ nhất (so sánh lực lượng), qua các nguồn tình báo chiến lược, Tổng
hành dinh đánh giá: Chủ trương của Mỹ lúc này vẫn cố tìm cách duy trì chính quyền Sài
Gòn để thực hiện chủ nghĩa thực dân kiểu mới; coi chính phủ cách mạng lâm thời chỉ là lực
lượng đối lập, phủ định lực lượng thứ ba. Mỹ ra sức lôi kéo Trung Quốc, khoét sâu mâu
thuẫn Xô - Trung hòng hạn chế viện trợ cho ta, gây sức ép nhằm buộc ta giảm hoạt động
quân sự ở miền Nam. Mãi đến hội nghị cuối tháng 9 - đầu tháng 10-1974 (khi thông qua dự
thảo kế hoạch lần thứ 7) Bộ Chính trị vẫn thận trọng nhận định: Ta phải vừa đánh vừa tiếp
tục theo dõi phản ứng của Mỹ nhằm hạn chế khả năng can thiệp của chúng. Đến hội nghị
thông qua lần thứ 8 (cuối tháng 12-1974 đầu tháng 1-1975) Bộ Chính trị vẫn chủ trương
kiềm chế Mỹ, đánh đổ ngụy, hạn chế chiến tranh ở phạm vi miền Nam, đồng thời sẵn sàng
đối phó phản ứng quyết liệt của Mỹ bằng không quân và hải quân…
Về vấn đề thứ hai (hướng tiến công chiến lược chủ yếu): Từ cuối tháng 5-1973,
Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp đã cùng Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng khẳng
định: Buôn Ma Thuột là chỗ yếu chí tử của địch. Với nhận định đó, Đại tướng Võ Nguyên
Giáp chủ trương phải đánh lớn, đánh đau, đánh hiểm mới giành được hoàn toàn bất ngờ,
muốn vậy phải làm đường để sử dụng xe tăng, pháo lớn. Tuy nhiên, trong quá trình thông
qua các bản dự thảo, việc chọn hướng chiến lược vẫn tiếp tục được trao đổi, thảo luận và
qua đó xuất hiện nhiều ý kiến khác nhau khi cân nhắc giữa các hướng: 1) Nam Bộ (mà
trọng điểm là Sài Gòn-Gia Định); 2) Quân khu 1 và Quân đoàn 1; 3) Huế – Đà Nẵng và 4)
Tây Nguyên… Bắt đầu bước vào hoạt động mùa khô 1974 – 1975, Tổng hành dinh sớm
phát hiện khả năng đối phó của địch đã hạn chế rõ rệt. Quân đội Sài Gòn không còn sức
chiếm lại các vị trí đã mất. Biện pháp chiến lược chủ yếu của chúng là bình định và lấn
chiếm đã tỏ ra mất hiệu lực. Các chiến thắng của ta ở Thượng Đức (tháng 8-1974) và nhất
là Phước Long (tháng 1-1975) cho phép khẳng định quân đội Sài Gòn không thể đương đầu
với chủ lực của ta và sự phản ứng của Mỹ chỉ có mức độ, nhất là sau lời tuyên bố ngày 22-
1-1975 của Tổng thống Gerald Ford. Từ kết quả 7 lần Bộ Chính trị thảo luận và cho ý kiến,
đến lần dự thảo thứ 8 Tổ trung tâm dự kiến ba phương án. Phương án 1: Tổng tiến công
thực hiện đòn quân sự tiêu diệt địch ở tầm chiến lược đi trước một bước nhằm tạo điều kiện
và tích cực thúc đẩy nhanh chóng cuộc nổi dậy của nhân dân các thành phố trung tâm, phối
hợp tổng tiến công và nổi dậy giành thắng lợi; Phương án 2: Tổng công kích-tổng khởi
nghĩa song song, tập trung lực lượng chủ yếu vào hai trọng điểm: Phương án 3: a) Sài Gòn
– miền Đông Nam Bộ và b) Trị Thiên – Quảng Đà; Phương án 3): Nổi dậy của quần chúng
ở các thành phố trọng điểm đi trước một bước; kịp thời phát động tổng khởi nghĩa kết hợp
với tổng công kích, giành thắng lợi ở hai trọng điểm chiến lược là Sài Gòn và Huế – Đà
Nẵng.
Từ ngày 18-12-1974 đến 2-1-1975, Bộ Chính trị họp nhằm xem xét lần cuối bản dự
thảo kế hoạch chiến lược. Dự thảo lần này không những đã được bổ sung một số điểm, điều
chỉnh một số chỉ tiêu mà còn được chỉ huy các chiến trường nghiên cứu, góp ý kiến. Cuối
cùng, bản dự thảo nhan đề “Kế hoạch chiến lược sắp tới” được Bộ Chính trị chính thức
thông qua. Quyết tâm chiến lược trong kế hoạch được thể hiện thành hai bước, mỗi bước
đều có chỉ tiêu giành thắng lợi cụ thể. Bước 1-năm 1975: Mở nhiều đợt tiến công và nổi
dậy, làm cho lực lượng địch suy yếu nhanh chóng, tạo điều kiện cho năm 1976; hướng tiến
công chiến lược đầu tiên là Tây Nguyên, cụ thể là Nam Tây Nguyên; bước 2 - năm 1976:
Tổng tiến công và nổi dậy, đánh chiếm Sài Gòn, giành toàn thắng.
Khi thảo luận và thông qua dự thảo kế hoạch lần cuối, Bộ Chính trị nhận định: Cả
năm 1975 tiến công quân sự mạnh, tạo nên phong trào chính trị, thúc đẩy thời cơ,… có thể
tạo ra thời cơ mới với nhiều thuận lợi mới, thậm chí có thể tạo ra thời cơ phát triển đột biến
mà ta chưa lường hết được. Thời cơ lớn tạo ra một ngày bằng 20 năm, nếu bỏ lỡ thời cơ là
có tội với dân tộc. Trên cơ sở đó, Bộ Chính trị dự kiến: Nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối
năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975. Do đó, bên cạnh kế hoạch hai
12
bước trên đây (kế hoạch cơ bản), Tổng hành dinh còn xây dựng một kế hoạch thời cơ, giải
phóng miền Nam sớm hơn hai năm.
Thực hiện quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị, với thế chiến lược đã được tạo ra trong 2
năm 1973 - 1974, Quân khu V đã hình thành một kế hoạch tác chiến trong năm 1975.
2. Tình hình chiến trường và chủ trương, nhiệm vụ của tỉnh Phú Yên.
* Tình hình chiến trường Phú Yên trong những năm 1974, đầu năm 1975. Về phía ta trong
năm 1974 ta chặn đánh sự lấn chiếm của địch, giữ vững vùng giải phóng của ta, đánh bại
một bước “bình định” nhất là vùng tranh chấp, đồng thời nhanh chóng xây dựng vững chắc
các thôn xã mới được khôi phục, đẩy mạnh công tác xây dựng vùng giải phóng.
Đối với địch: sau một thời gian thực hiện âm mưu “ tràn ngập lãnh thổ”, đến cuối năm 1974
địch vấp phải những đòn tiến công của ta trên toàn tỉnh nên chúng phải co về phòng thủ một
cách bị động.
* Chủ trương, nhiệm vụ của Phú Yên :
Theo sự chỉ đạo của Khu ủy và Bộ Tư lệnh Quân khu V, Thường vụ Tỉnh ủy Phú Yên đã
chỉ đạo “ Động viên sự nỗ lực cao nhất của toàn Đảng bộ, khắc phục mọi khó khăn, tập
trung cao độ, giành thắng lợi lớn nhất trong năm 1975, nhằm góp phần với toàn miền Nam
tiến tới hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong một thời gian ngắn” Trên cơ
sở đó ta sử dụng toàn bộ lực lượng tập trung của tỉnh vào hướng trọng điểm Tuy Hòa 1,
Tuy Hòa 2, mở ra từng mảng liên hoàn từ 3 đến 5 xã.
Để thực hiện được mục đích, yêu cầu của chiến dịch, từ những tháng cuối năm 1974 và
tháng 1, 2 năm 1975 tỉnh khẩn trương chuẩn bị mọi mặt. Thường vụ Tỉnh ủy quyết định
thành lập 2 sở chỉ huy, để chỉ huy chiến dịch. Sử dụng một phần lực lượng huyện, du kích,
đội công tác tích cực hoạt động giữ thế chiến trường. Nhân dân Phú Yên bước vào cuộc đấu
tranh mới với khí thế phấn khởi và tin tưởng, ai nấy cũng muốn được tham gia chiến đấu và
phục vụ chiến đấu.Công tác chuẩn bị ở hậu phương và trên chiến trường diễn ra rất khẩn
trương, lực lượng thanh niên xung phong và bộ đội công binh ra sức mở đường nối liền
đường Hồ Chí Minh về đến căn cứ của tỉnh. Những đoàn xe ngựa, xe thồ chuyển hàng trăm
tấn đạn dược, phương tiện ra chiến trường. Các hoạt động đấu tranh chính trị binh vận diễn
ra sôi nổi góp phần tạo nên bước chuẩn bị cuối cùng trong cuộc Tổng tiến công lịch sử năm
1975 ở Phú Yên.
3. Diễn biến, kết quả cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 ở Phú Yên .
Thực hiện kế hoạch giải phóng miền Nam. Ngày 10-3-1975, quân chủ lực của ta mở
cuộc tấn công vào thị xã Buôn Ma Thuột và thu được thắng lợi, cũng thời điểm đó Phú Yên
bắt đầu mở chiến dịch tiến công địch.
Tại Đồng Xuân, ta tập kích vào bắc La Hai, bao vây xã Xuân Phước, chia cắt nhiều
đoạn đường từ Chí Thạnh đến La Hai, không cho địch vận chuyển tiếp tế. Hiệp đồng với bộ
binh, ta bắn cối 82 ly vào Bến Đá, công binh chặn đánh địch đi tuần, kiểm tra đường. Tại
một số xã, du kích cùng nhân dân nổi dậy phá khu đồn, đưa dân về làng cũ.
Tại Sông Cầu, ta đánh vào Hòa Lợi, Tuy Phong, tấn công bọn lính tuần đường từ cầu
Long Thạnh ra Thạnh Khê, du kích xã Xuân Cảnh phục kích chân hòn Dù đánh địch đến
giải tỏa. Xã Xuân Cảnh và một số thôn của xã Xuân Lộc được giải phóng.
Tại Tuy An, ta nổ súng tấn công tiêu diệt một đại đội bảo an rồi tiếp tục tấn công vào
các xã An Mỹ, An Dân. Nhân dân và du kích xây dựng các làng chiến đấu.
Ngày 17-3-1975, ta nổ súng tấn công vào trọng điểm Tuy Hòa. Đại đội 202 tiến công cứ
điểm núi Tranh, tiểu đoàn 96 bao vây, tiến công và tiêu diệt bắt sống gần hết 2 đại đội của
tiểu đoàn bảo an 220, đánh bại cuộc phản kích của tiểu đoàn 219 cùng một đại đội của tiểu
đoàn 210 của ngụy. Ta làm chủ hai xã Hòa Định, Hòa Quang và một phần của xã Hòa
Thắng.
* Chiến thắng đường số 5, đánh bại cuộc rút lui chiến lược của Mỹ-Ngụy
13
Sau nhiều lần tiến công và phản kích nhằm chiếm lại thị xã Buôn Ma Thuột bị thất
bại, ngày 14-3-1975, địch quyết định bỏ Tây Nguyên. Ngày 15-3, Sở chỉ huy quân đoàn II
từ Pleiku về Nha Trang và toàn bộ quân địch ở chiến trường Tây Nguyên cũng được lệnh
bỏ Tây Nguyên xuống đồng bằng. Tên chuẩn tướng Trần Văn Cẩm, Phó tư lệnh quân đoàn
II, từ Pleiku xuống Phú Yên trực tiếp chỉ huy.
Ngày 17-3, bộ phận đi đầu của lực lượng địch đến Củng Sơn (quận lỵ Sơn Hòa). Tại thời
điểm này các xã nằm dọc theo đường số 7, lực lượng du kích phát triển khá mạnh, cứ điểm
núi Tranh bị ta tiêu diệt. Thấy tình thế bất lợi, sở chỉ huy quân đoàn II địch quyết định cho
bắc cầu dã chiến qua sông Ba, đoạn Thạnh Hội qua hòn Kén, để theo đường số 5 xuống
đồng bằng Tuy Hòa về Phú Lâm.
Thực hiện ý đồ đó, trong các ngày 17, 18, 19 tháng 3, máy bay trinh sát V0 10, L 19
bay lượn không ngớt trên bầu trời Tuy Hòa để làm nhiệm vụ trinh sát đường số 5 và số 7.
Nhiều chuyến trực thăng H24 chở công binh, phương tiện làm cầu từ Nha Trang và Tuy
Hòa bay đến khu vực hòn Kén, sông Nhau. Tiểu
đoàn 268 thuộc liên đoàn 924 đóng ở thị xã Tuy Hòa
và 2 khẩu pháo 105 ly ở cầu Cháy được địch kéo lên
hòn Kén, trực tiếp chi viện cho cuộc rút lui.
Sáng ngày 18-3, tại núi Hương xã Hòa Mỹ,
quận Tuy Hòa 1, Sở chỉ huy tiền phương dưới sự chủ
trì của đồng chí Nguyễn Duy Luân, Bí thư Tỉnh ủy,
cùng lãnh đạo các ngành, các cơ quan tham mưu
quân đội họp quán triệt nhiệm vụ của Khu giao và
quyết định phương án chiến đấu, nhằm ngăn chặn,
làm tan rã và tiêu hao lực lượng địch trên đường rút
chạy. Lực lượng tham gia đánh chặn địch trên đường
số 5 có các tiểu đoàn 9, 13, 96 bộ binh, tiểu đoàn trợ chiến 189, đại đội đặc công 25, 201,
24, đại đội 19 và K65 công binh, đại đội 377 và 203 bộ đội địa phương Tuy Hòa, đại đội
202, 378 làm nhiệm vụ chốt đường số 7, bộ đội Sơn Hòa đánh tập hậu đội hình địch.
Đúng 4 giờ 15 phút ngày 19-3, tiểu đoàn 13 và bộ phận hỏa lực tiểu đoàn 189 tập
kích vào cầu Cháy (nằm giữa hai xã Hòa Mỹ và Hòa Đồng). Cùng thời gian đó, đại đội đặc
công 201 tập kích hòn Kén thuộc xã Sơn Thành, đại đội 25 tập kích hòn Sặt. Tiểu đoàn 9 và
đại đội 377 đánh chiếm Phú Thứ. Đại đội đặc công 203 đánh vào trụ sở ngụy quyền ở thôn
Phước Bình, xã Hòa Thành. Du kích và nhân dân xã Hòa Thịnh, Hòa Mỹ nổi dậy bao vây,
bắn tỉa gọi loa binh địch vận, buộc địch tháo chạy khỏi chốt núi Lá (Hòa Mỹ) và khu dồn
Phú Hữu (Hòa Thịnh), ta giải phóng hoàn toàn hai xã này. Tiểu đoàn 9 đánh vào xã Hòa
Phong và nổ súng tấn công hòn Sặt (lần thứ hai) diệt toàn bộ quân địch đóng tại đây.
Đến 11 giờ trưa ngày 19-3, địch cho hai máy bay A 37 và các trận địa pháo ở Bàn
Thạch, núi Nhạn, hòn Kén bắn vào cầu Cháy và một số khu vực khác, đồng thời chúng tập
hợp lực lượng còn lại của tiểu đoàn 236 tổ chức phản kích chiếm lại cầu Cháy để từ đó
đánh vào Hòa Thịnh, hòn Dù. Địch còn tổ chức một lực lượng khác đánh vào Hòa Phong,
Phú Thứ. Trong lúc ta đang tổ chức đánh trả các đợt phản công thì Sở chỉ huy thông báo có
đoàn xe địch hàng trăm chiếc từ hòn Kén chạy xuống. Tiểu đoàn 9 đã nhanh chóng chuyển
đội hình từ tấn công, truy kích sang phục kích ở đoạn hòn Sặt - Mỹ Thạnh. Khi 5 chiếc xe
tăng lọt vào trận địa, đại đội 3 tiểu đoàn 9 nổ súng diệt 4 chiếc, chiếc đi đầu vượt khỏi đội
hình chạy đến Phú Thứ bị đại đội 377 tiêu diệt, toàn bộ đội hình phía sau của địch lùi lại
hòn Kén. Đêm 19-3, một bộ phận của tiểu đoàn 13 vây chặt địch tại Phú Diễn, đến 5 giờ
sáng ngày 20-3 ta xuất kích, diệt 40 tên.
Sáng 20-3, tiểu đoàn 13 phục kích từ thôn Phước Thịnh đến Mỹ Thạnh Tây, tiểu
đoàn 9 phục kích từ Mỹ Thạnh Tây đến Lương Phước, đại đội 377 và 203 chốt tại cầu tổng
Phú Thứ, đại đội 19 và K65 công binh cùng 2 cối 82 đánh địch ở quốc lộ I đoạn từ Hòa
14
Ban Chỉ huy tiền phương tỉnh Phú Yên
họp tại núi Hương (Hòa Mĩ) tháng 3
-1975.
Xuân vào Đèo Cả, chặn không cho địch từ Phú Yên chạy vào Khánh Hòa và từ Khánh Hòa
ra Phú Yên, đồng thời kiềm chế trận địa pháo địch ở cầu Bàn Thạch. Tiểu đoàn 189 tập
trung hỏa lực chi viện cho các đơn vị chiến đấu đường số 5. Đại đội 201, 25 đặc công, bộ
đội Sơn Hòa tập kích địch ở hòn Kén. Đại đội 202 đặc công và các lực lượng vũ trang quận
Tuy Hòa chặn đánh địch trên đường số 7. Nhìn chung, ngày 20-3 ta đã hình thành một thế
trận đánh địch trên hai trục đường số 5 và số 7, suốt từ miền núi đến đồng bằng.
Sáng ngày 22-3, hàng trăm chiếc xe Hon-đa của địch chạy đến cầu Đồng Bò. Sở chỉ huy
tiền phương đã nắm được ý đồ của địch, thông báo các đơn vị quan sát, sẵn sàng nổ súng đề
phòng địch giả dân chạy thoát. Tiểu đoàn 13 và tiểu đoàn 9 được giao nhiệm vụ này. Kết
quả ta diệt tại chỗ 120 tên, bắt sống 300 tên, trong đó có nhiều sĩ quan cấp úy, cấp tá. Thu
hồi và phá hủy 300 xe Hon Đa, 3 xe Jeep, 7 xe GMC, 20 súng và nhiều phương tiện chiến
tranh. Số địch chạy thoát về cụm tại hòn Kén.
Chiều ngày 22-3, Sở chỉ huy tiền phương điều tiểu đoàn 9 lên sát cầu Đồng Bò để
đánh chính diện và điều một bộ phận khác khóa đuôi bảo vệ cầu máng. Mặt khác, ta tăng
cường một bộ phận công binh và du kích chốt đường 5, đoạn từ Đồng Bò đến Lương
Phước.
Sáng ngày 23-3, địch đưa liên đoàn bảo an 924 và tiểu đoàn 236 chia thành nhiều
cánh có máy bay yểm trợ, theo đường 5 tấn công cùng một lúc vào lực lượng ta ở Hòa
Bình, Hòa Phong và từ Hòa Tân đánh lên cầu Cháy, núi Lá, núi Hương phát triển qua hòn
Sặt. Đến trưa, địch đưa tiểu đoàn 268 từ hòn Kén đánh xuống, khi đến cầu Đồng Bò bị đại
đội 3 tiểu đoàn 9 chặn đánh, địch phải rút về hòn Kén.
Một đơn vị khác của địch chiếm cầu Phú Thứ, phát triển lên Phước Thịnh, bị tiểu
đoàn 13 chặn đánh phải rút về lại Phú Thứ. Để tiếp sức, địch điều thêm một tiểu đoàn biệt
động từ Khánh Hòa ra đánh theo hướng đông nam, khi đến xã Hòa Xuân bị đại đội 10, K65
và du kích Hòa Xuân chặn đánh phải dừng lại tại Đèo Cả.
Tuy đã tìm mọi cách, nhưng đến hết ngày 23-3-1975 địch vẫn chưa thông được
đường. 16 giờ ngày 23-3, tiểu đoàn 96 phối hợp với trung đoàn 64 sư đoàn 320 tấn công
vào quận lỵ Củng Sơn. Địch phát hiện quân chủ lực ta có xe tăng, nên hoảng hốt chen nhau
tháo chạy qua cầu phao tại Thanh Hội, đã làm cho hàng chục xe và hàng trăm tên lính rơi
xuống sông chết đuối. 9 giờ sáng ngày 24-3-1975 ta giải phóng Củng Sơn.
Sáng 25-3-1975, tiểu đoàn 96 phối hợp với một bộ phận của trung đoàn 64 sư đoàn
320 phát triển qua Tuy Bình bao vây yếu khu Phú Đức, đến 8 giờ sáng toàn bộ bọn địch ở
đây ra đầu hàng.Trước tình hình đó, quân địch hoàn toàn hỗn loạn, thi nhau chạy về Tuy
Hòa. Trên đường số 5, đoạn từ Mỹ Thạnh Trung đến Lương Phước ta tiêu diệt 400 tên, làm
bị thương 200 tên và bắt sống 1.200 tên, hàng trăm xe bị đổ, bị đốt cháy.
Chiến thắng đường 5 là một mốc son lịch sử đánh bại cuộc rút lui chiến lược về đồng
bằng của Mỹ-ngụy.
* Giải phóng thị xã Tuy Hòa và toàn tỉnh
Ngày 26-3 điện của A15 (tức Khu ủy khu V) gửi cho Tỉnh ủy Phú Yên: “Nhanh
chóng chuyển toàn bộ lực lượng vào đánh chiếm thị xã Tuy Hòa, bàn với chủ lực cho một
bộ phận cùng đánh vào. Hoàn thành xong thị xã chuyển
lực lượng ra giải quyết phía bắc cùng với chủ lực”. Ngày
27-3, địch ở Xuân Phước, Xuân Lãnh tháo chạy về La
Hai. Ngày 28-3, Thường vụ Tỉnh ủy, Sở chỉ huy tiền
phương cùng với Bộ tư lệnh sư đoàn 320 gặp nhau, vạch
kế hoạch tấn công vào thị xã Tuy Hòa. Đêm 31-3, tỉnh
thành lập Ủy ban quân chính gồm 23 đồng chí và Ủy
ban tiếp quản thị xã Tuy Hòa trên 100 đồng chí, chia ra
10 ban chuyên môn. Ở các quận cũng thành lập Ủy ban quân chính để tiếp quản. Lực lượng
15
đánh vào thị xã Tuy Hòa có 3 trung đoàn của sư đoàn 320, bộ đội tỉnh, huyện, xe tăng và
pháo.
5 giờ sáng ngày 1-4-1975, trung đoàn 2 nổ súng tấn công vào trận địa pháo của địch
đặt tại núi Nhạn, cùng lúc xe tăng của ta xuất kích chiếm lĩnh cầu Ông Chừ, rồi phát triển
theo đường Trần Hưng Đạo đánh thẳng xuống phía Nam Tòa hành chính tỉnh. Ở phía bắc
thị xã, trung đoàn 1 đánh chiếm sân bay Chóp Chài, sau đó phát triển theo đường Nguyễn
Huệ chiếm Ty cảnh sát, trung đoàn bộ 47, Tòa hành chính tỉnh. Ở phía tây bắc, bộ đội tỉnh
đánh chiếm Long Tường, xóm Lẫm, Quy Hậu, Phước Khánh. Ở Hiếu Xương, trung đoàn 3
đặt pháo tại Lạc Nghiệp bắn vào quận lỵ Hiếu Xương, một cánh quân khác của ta chiếm giữ
khu vực Đông Mỹ, cầu Phú Khê, Thạch Tuân. Bộ đội tỉnh đánh chiếm Phú Hiệp, không cho
địch rút chạy ra biển.
9 giờ 30 phút ngày 1-4-1975, ta hoàn toàn làm chủ thị xã Tuy Hòa. Cờ Mặt trận dân
tộc giải phóng Miền Nam Việt Nam tung bay trên đỉnh núi Nhạn.
Lực lượng vũ trang ở Tuy An, Sông Cầu, Đồng Xuân cũng nổi dậy bao vây đánh
địch, buộc chúng phải chạy trốn hoặc đầu hàng. Đúng 10 giờ ngày 1-4-1975, toàn tỉnh Phú
Yên được hoàn toàn giải phóng.
Ngày 1-5-1975, lễ mừng chiến thắng giải phóng hoàn toàn miền Nam được tổ chức
trọng thể tại sân vận động thị xã Tuy Hòa. Đồng chí Nguyễn Duy Luân, Bí thư Tỉnh ủy,
Chủ tịch Ủy ban Nhân dân cách mạng thay mặt Đảng và chính quyền đọc diễn văn tại cuộc
mít tinh.
* Ý nghĩa thắng lợi của Tổng tấn công và nổi dậy Xuân 1975 ở Phú Yên.
Cuộc Tổng tấn công và nổi dậy Xuân năm 1975 ở Phú Yên là một thắng lợi có ý
nghĩa lịch sử to lớn đối với nhân dân Phú Yên và cả nước.
Chiến thắng năm 1975 ở Phú Yên đã đập tan toàn bộ kế hoạch di tản chiến lược của địch,
đẩy lực lượng của địch trên chiến trường thuộc các tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ rơi vào
thế hỗn loạn, hoang mang cao độ. Tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân tỉnh Phú Yên nói
riêng và các tỉnh khác nói chung giải phóng khỏi sự thống trị của Mỹ - Ngụy.
Thắng lợi to lớn đó đã thể hiện lòng yêu nước, truyền thống cách mạng, tinh thần hi
sinh,anh dũng vượt khó và sáng tạo của nhân dân Phú Yên. Một lòng theo Đảng theo Bác
Hồ nhân dân Phú Yên đã viết nên những trang sử hào hùng của quê hương.
Thắng lợi năm 1975 của nhân dân Phú Yên góp phần vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc
ta là một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính chất thời đại sâu sắc. Thắng lợi
của nhân dân Phú Yên nói riêng và của dân tộc Việt Nam một lần nữa làm sáng tỏ chân lý
vĩ đại: "Trong thời đại ngày nay, khi các lực lượng cách mạng thế giới ở thế tiến công, một
dân tộc nước không rộng, người không đông, song đoàn kết chặt chẽ và đấu tranh kiên
quyết dưới sự lãnh đạo của một đảng Mác-Lê-nin có đường lối và phương pháp cách mạng
đúng đắn, giương cao hai ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, được sự đồng tình
ủng hộ và giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa, các lực lượng cách mạng và nhân dân
tiến bộ trên thế giới, thì hoàn toàn có thể đánh thắng mọi thế lực đế quốc xâm lược, dù đó là
tên đế quốc đầu sỏ".
16
Ảnh lính ngụy bị bắt làm tù binh dưới chân núi Chóp Chài sáng ngày 1 – 4 - 1975
Câu hỏi 5: Bạn cho biết mục đích của Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh”. Kết quả bước đầu của cuộc vận động này ở Phú Yên?
- Tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh là sự kết tinh những truyền thống tốt đẹp của
dân tộc ta và tinh hoa văn hóa nhân loại, là tài sản tinh thần vô giá của Đảng và nhân dân ta;
là tấm gương sáng để mọi người dân noi theo.
- Ngày 27-3-2003, Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa IX đã ban hành Chỉ thị số 23-
CT/TW về việc toàn Đảng, toàn dân tổ chức đợt học tập tư tưởng Hồ Chí Minh để quán
triệt, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng của Người trong công cuộc đổi mới, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đợt học tập đã thu được nhiều kết quả tốt.
- Trước yêu cầu tăng cường công tác tư tưởng trong tình hình mới, Hội nghị lần thứ
12 Ban chấp hành Trung ương khóa IX đã quyết định triển khai chỉ đạo điểm cuộc vận
động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong cán bộ, đảng viên và
nhân dân, đúc rút kinh nghiệm để tiến hành cuộc vận động lớn trong toàn Đảng về vấn đề
này sau Đại Hội X của Đảng. Đây là một chủ trương lớn, vừa mang tính cấp bách trong bối
cảnh tình hình hiện nay, vừa có ý nghĩa lâu dài với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.
- Trên cơ sở những kinh nghiệm thu được qua đợt làm điểm ở một số cơ quan Trung
ương và địa phương, cùng với việc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại Hội X của Đảng, Bộ
Chính trị quyết định tổ chức cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh” trong toàn Đảng, toàn dân từ ngày kỷ niệm 77 năm ngày thành lập Đảng (03-
02-2007) tới hết nhiệm kỳ Đại hội X của Đảng.
Qua 2 năm triển khai cuộc vận động trong toàn Đảng bộ, toàn quân, toàn dân trong
tỉnh, ngày 26/11/2009, Ban Chỉ đạo Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh” tỉnh Phú Yên đã tổ chức Hội nghị biểu dương, giao lưu, trao đổi kinh
nghiệm 169 tập thể và cá nhân tiêu biểu trong thực hiện Cuộc vận động.
Ban Chỉ đạo Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”
tỉnh Phú Yên khẳng định: Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh” đã thực sự đi vào cuộc sống và được các cấp ủy đảng, chính quyền, các ban, ngành,
Mặt trận, hội, đoàn thể, đông đảo cán bộ, chiến sĩ, đảng viên, đoàn viên, hội viên, công
nhân viên chức, học sinh, sinh viên và các tầng lớp nhân dân đồng tình, tích cực hưởng ứng
tham gia. Qua Cuộc vận động đã xuất hiện ngày càng nhiều những cách làm hay, việc làm
tốt, nhiều tập thể và cá nhân tiêu biểu, xuất sắc trong học tập và làm theo gương Bác.
Tại Hội nghị, Ban Chỉ đạo Cuộc vận động đã biểu dương 48 tập thể và 121 cá nhân
có nhiều thành tích tiêu biểu xuất sắc thực hiện Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh”, được cấp ủy, Ban chỉ đạo các huyện, thị, thành phố và các
Đảng bộ trực thuộc chọn cử tham gia Hội nghị. Chính các tập thể và cá nhân tiêu biểu, cùng
với hàng nghìn gương mặt khác đang tích cực “làm theo” tấm gương đạo đức của Bác là
những hình ảnh đầy sức thuyết phục về sự thành công của Cuộc vận động.
Cuộc vận động “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” do Đảng ta
phát động trong giai đoạn hiện nay là làm cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nhận thức
sâu sắc về những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng đạo đức và tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh. Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tu dưỡng, rèn luyện và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh sâu rộng trong toàn xã hội, đặc biệt trong cán bộ, đảng
viên, công chức, viên chức, đoàn viên, thanh niên, học sinh nâng cao đạo đức cách mạng,
cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống và các tệ nạn xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng.
Đối với tỉnh Phú Yên cuộc vận động “ Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh”, bên cạnh thực hiện những yêu cầu nhiệm vụ chung, Đảng bộ, các lực lượng vũ
trang và nhân dân tỉnh Phú Yên còn thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, an ninh
quốc phòng, an sinh xã hội, thực hiện công bằng xã hội… Tạo ra sự chuyển biến một cách
17
căn bản làm nền tảng vững chắc, để Phú Yên luôn có sự tăng trưởng nhanh và ổn định trên
con đường hội nhập kinh tế thế giới.
Kết quả bước đầu ở Phú Yên sau 3 năm thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” do Đảng ta phát động thời gian qua, đã xuất hiện
nhiều tấm gương tiêu biểu. Bằng sự tôn kính và tấm lòng biết ơn vô hạn đối với Bác Hồ,
mỗi người, tuy ở những cương vị, điều kiện công tác và cuộc sống không giống nhau,
nhưng tất cả có một điểm chung là đều hướng đến cộng đồng bằng những việc làm cụ thể,
thiết thực theo tấm gương đạo đức của Người.
Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” chỉ qua hơn
nửa chặn đường nhưng đã có sức lan tỏa và tác động sâu sắc đến tâm tư, tình cảm của cán
bộ, đảng viên, thể hiện rõ nhất qua thái độ ứng xử, đạo đức tác phong, sự năng nổ trong
công tác xây dựng nề nếp trong mỗi cơ quan, đơn vị, tạo sự đoàn kết, thống nhất, đấu tranh
giúp từng cán bộ, đảng viên hoàn thiện mình. Từ một cán bộ lãnh đạo một địa phương, một
đơn vị đến một già làng ở vùng cao, từ một giáo viên nhiều năm kinh nghiệm đến những
thầy cô giáo trẻ mới ra trường, từ một sĩ quan trong quân đội cho đến một tạp vụ bình
thường. Tất cả đều nhận thức và hưởng ứng tích cực cuộc vận động.
Câu hỏi 6. Những cảm nhận của bạn về danh nhân văn hoá thế giới, anh hùng
giải phóng dân tộc và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh ?
Câu hỏi 7. Cảm nhận của bản thân bạn về cuộc thi Tìm hiểu Những sự kiện lịch
sử Phú Yên (1930-1975) hướng đến kỷ niệm 80 năm thành lập Đảng, 65 năm
thành lập Nước, sinh nhật lần thứ 120 của Bác Hồ, 35 năm giải phóng Phú Yên và
giải phóng miền Nam thống nhất đất nước?
18