Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Thị trường phi tập trung OTC pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.78 KB, 8 trang )

l. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THỊ TRƯỜNG OTC
1 Khái quát về sự hình thành và phát triển của thị trường OTC
Thị trường OTC là một loại thị trường chứng khoán xuất hiện sớm
nhất. Thị trường được mang tên này từ khi chứng khoán được mua bán
thẳng qua quầy của các ngân hàng, các công ty chứng khoán hay các tổ chức
tương tự. Thị trường sau đó phát triển bao gồm một mạng lưới các nhà môi
giới và tự doanh chứng khoán mua bán với nhau và với các nhà đầu tư, diễn
ra ở bất kỳ địa điểm thuận lợi nào và không có một địa điểm tập trung của
các bên mua bán chứng khoán như đối với thị trường sở giao dịch. Phương
thức giao dịch được phát triển từ mua bán trực tiếp thủ công thương lượng
giá “mặt đối mặt” đến giao dịch qua điện thoại và hiện nay là qua mạng máy
tính điện tử diện rộng. Thị trường này ở một số nước được hình thành tự do,
sau đó phát triển thành thị trường có cơ chế tự quản và quản lý của nhà
nước, ở một số nước khác do nhà nước hoặc các tổ chức tự quản đứng ra
thành lập, vận hành và quản lý.
Với sự bùng nổ của hệ thống thị trường phi tập trung qua mạng máy
tính tại nhiều nước trên thế giới khởi đầu là thị trường NASDAQ Mỹ năm
1971, thay thế cho thị trường OTC truyền thống giao dịch trực tiếp hoặc qua
diện thoại, kể từ đó đến nay hàng loạt thị (rường OTC mô hình NASDAQ ra
đời ở các nước và đi vào hoạt động. Và cũng từ đó thuật ngữ "thị trường
OTC" trên thế giới được chuyên dùng để chỉ thị trường được tổ chức chặt
chẽ, sử dụng kỹ thuật viễn thông hiện dại, bao gồm một mạng lưới các tổ
chức trung gian môi giới, tự doanh và tạo lập thị trường liên kết với nhau và
liên kết với trung tâm quản lý thông qua một mạng máy tính điện tử diện
rộng khắp cả nước và thậm chí quốc tế. Các công ty chứng khoán sẽ liên tục
đưa lên mạng báo giá hai chiều và khối lượng chứng khoán tối đa có thể
thực hiện mua hoặc bán, các thông tin cần thiết, đồng thời có thể truy cập từ
mạng các thông tin tương tự cần thiết. Qua mạng các công ty chứng khoán
cũng có thể thực hiện đàm phán, thương lượng giá và khối lượng giao dịch
trên cơ sở giá báo tốt nhất, thông báo kết quả giao dịch cho trung tâm quản
lý, trung tâm thanh toán bù trừ và lưu ký chứng khoán


Con đường hình thành thị trường OTC ở các nước cũng khác nhau
phụ thuộc vào đặc thù và điều kiện từng nước. Ở một số nước thị trường
OTC được hình thành từ các thị trường phi tập trung truyền thống, giao dịch
thủ công, ở một số nước khác như các nước đang phát triển thì thị trường
này thường được hình thành mới và hiện đại hoá ngay từ đầu.
Mục tiêu của thị trường OTC hiện đại có thể tóm lược như sau:
- Tạo điều kiện cho các nhà đầu tư tiếp cận thị trường thuận tiện, rẻ
tiền, nhanh chóng qua hệ thống giao dịch máy tính điện tử;
- Tạo điều kiện cho người đầu tư thực hiện giao dịch với thông tin thị
trường tối đa;
- Tạo điều kiện cho người đầu tư có thể mua bán chứng khoán bất kỳ
lúc nào, bết ký ở đâu và với bất ký đối tác nào và tiến tới có thể truy cập thị
trường chứng khoán trên toàn thế giới;
- Tạo điều kiện cho các nhà quản lý thị trường có thể giám sát tốt thị
trường và các nhà môi giới, giao dịch chứng khoán có thể hoạt động thuận
tiện.
2. Đặc điểm của thị trường OTC
Hệ thống thị trường OTC trên thế giới hiện nay chủ yếu được xây
dựng theo mô hình thị trường Nasdaq của Mỹ và mang những đặc điểm
riêng tuỳ thuộc vào điều kiện và đặc thù của mỗi nước. Tuy nhiên, có thể
khái quát một số đặc điểm chung của thị trường OTC các nước như sau:
2.1. Hình chức tổ chức thị trường
Là thị trường phi tập trung, không có địa điểm giao dịch tập trung
giữa bên mua và bên bán nhà đối với thì trường sở giao dịch, thị trường này
tồn tại ở nhiều địa điểm, tại bất kỳ nơi nào có thể thương lượng giá giữa
người mua và người bán. Nếu như ở thị trường sở giao dịch, mọi giao dịch
được diễn ra tại một địa điểm tập trung, tất cả lệnh mua và bán đều được tập
trung đấu giá tại sở giao dịch, thì ở thị trường OTC giao dịch được tiến hành
ở bất kỳ địa điểm thuận lợi nào. của người mua và người bán.
2.2. Là thị trường được tổ chức chặt chẽ, sử dụng kỹ thuật cao thông

qua mạng máy tính điện tử diện rộng, tiện lợi cho việc giao dịch, thông tin
và quản lý thị trường. Thị trường này vì vậy còn được gọi là “thị trường
mạng” hay “thị trường báo giá điện tử của các nhà môi giới giao dịch”.
2.3. Cơ chế xác lập giá là thương lượng giá giữa bên mua và bán,
khác với cơ chế đấu giá tập trung như thị trường sở giao dịch. Việc thoả
thuận giá được thực hiện giữa các nhà kinh doanh chứng khoán với khách
hàng và giữa các nhà kinh doanh chứng khoán với nhau. Giá được hình
thành qua thương lượng riêng nên thường phụ thuộc vào từng nhà kinh
doanh chứng khoán và tại một thời điểm có nhiều mức giá được hình thành,
khác với thị trường sở giao dịch do đấu giá tập trung nên chỉ có một mức giá
tại một thời điểm. Tuy nhiên, với cơ chế báo giá tập trung qua mạng máy
tính điện tử và có cơ chế cạnh tranh giá công khai giữa các nhà kinh doanh
chứng khoán nên giá dược hình thành không chênh lệch nhiều so với cơ chế
đấu giá.
2.4. Chứng khoán giao dịch trên thị trường chủ yếu là chứng khoán
của các công ty vừa và nhỏ, công ty công nghệ cao, công ty mới thành lập
nhưng có tiềm năng phát triển tết, tóm lại là chứng khoán chưa đủ tiêu chuẩn
niêm yết trên sự giao dịch, có độ rủi ro cao hơn so với chứng khoán trên thị
trường tập trung. Tiêu chí để chứng khoán được giao dịch trên thị trường
này thường chỉ cần đảm bảo tính thanh khoản tối thiểu và đảm bảo công ty
hoạt động nghiêm túc, không lừa đảo. Đối với một số thị trường OTC thế
giới người ta còn giao dịch chứng khoán của các công ty chất lượng cao,
nhưng những trường hợp này ít phổ biến. mẹ S Hệ thông các nhà tạo lập thị
trường- Hệ thống các công ty chửng khoán tham gia thị trường này ngoài
các nhà mời giới, N doanh như dối với thị trường sở giao dịch còn có các
nhà tạo lập thị trường có nhiệm vụ lien tục tạo tính thanh khoản cho thị
trường thông qua việc thường xuyên nắm giữ một lượng chứng khoán nhất
định mà họ làm tạo lập thị trường để sẵn sàng mua bán với khách hàng và
hưởng chênh lệch giá mua bán. Đây là một đặc điểm rất đặc trưng của thị
trường OTC. Các nhà tạo lập thị trường được coi là động lực của thị trường

này, họ mua bán chửng khoán kiếm lời và tự chịu rủi ro. HỌ phải đăng ký
h08t động với các cơ quan quản lý chửng khoán, có nghĩa vụ tuân thủ các
chuẩn mực cao về kỹ thuật nghiệp vụ cũng như dạo đức hành nghề. Để được
làm nhà tạo lập thị trường cho một loại chứng khoán cần phải có một lượng
vốn tối thiểu và luôn phải nắm giữ một lượng chứng .khoán nhất định, loại
mà họ làm tạo lập thị trường để liên tục chào và sẵn sàng mua bán loại
chứng khoán này. Các nhà môi giới cung cấp dịch vụ mua bán chứng khoán
cho khách hàng, thu xếp giao dịch cho khách hàngvà hưởng phí môi giới
(hoa hồng). Các nhà tự doanh cũng mua bán chứng khoán cho chính mình để
hưởng chênh lệch giá nhưng họ không đăng ký là nhà tạo lập thị trường và
không phải tuân thủ các quy định như đối với các nhà tạo lập thị trường. Một
nhà kinh doanh chứng khoán không được phép cùng một lúc đóng hai vai trò
để vừa hưởng phí dịch vụ môi giới vừa hưởng chênh lệch giá chứng khoán,
người môi giới thường phải công. khai với khách hàng vai trò của mình và
mức phí hoa hồng mà họ thu trong khi người tạo lập thị trường và tự doanh
công bố vai trò của mình nhưng không cần phải công bố mức chênh lệch giá
mà họ hưởng. 2.e. Quản lý thị trường. Thị trường OTC thường được tổ chức
quản lý theo 2 cấp, cấp quản lý nhà nước vàc ín tự quản. Cấp quản lý nhà
nước do cơ quan quản lý thị trường chứng khoán nói chung như uỷ ban
chứng khoán trực tiếp quản lý trên cơ sở luật chứng khoán và các luật liên
quan. Cấp tự quản chủ yếu có hai hình thức, do hiệp hội các nhà giao dịch
chứng khoán quản lý (như Ở Mỹ, NASDAQ Nhật, Hàn Quốc, Thái Lan )
hoặc do sở giao dịch đồng thời quản lý (Anh, J net Nhật, Pháp, Canada ).
Hiệp hội hoặc sở giao dịch tổ chức hệ thống giao dịch và thong so sánh thị
trường OTC với thị trường sở giao dịch Thị trường OTC
Địa điểm giao dịch phi tập trung Giao dịch qua mạng máy tính điện tử
Thoả thuận giá Giao dịch chứng khoán loại hai (có độ rủi ro cao hơn) Sử
dụng hệ thống các nhà tạo lập thị trường hoạt động theo pháp luật TỔ chức
tự quản là hiệp hội hoặc sở giao dịch. CÓ quản lý nhà nước, dược tổ chức
chặt chẽ CƠ chế thanh toán đa dạng Do hệ thống luật chứng khoán điều

chỉnh Thị trường sở giao dịch (thị trường tập trung) Địa điểm giao dịch tả.
trung Qua mạng hoặc không du. mạng Đấu giá tập trung Giao dịch chứng
khoát loại một (có độ rủi ro thất hơn) Không sử dụng TỔ chức tự quản là sở
gia( dịch CÓ quản lý nhà nước, được tổ chức chặt chẽ Một cơ chế thanh toán
ớt trừ đa phương thống nhất Do hệ thống luật chính khoán diều chỉnh so
sánh thị trường OTC và thị trường tự do
(Biểu đồ)
II GIỚI THIỆU MỘT SỐ THỊ TRƯƠNG OTC TRÊN THẾ GIỚI
1- Thị trường OTC Mỹ
Thị trường OTC Mỹ là mô hình thị trường OTC điển hình, được phát triển
từ thị trường phi tập trung, tự do truyền thống, giao dịch qua thương lượng
giá trực tiếp ' mặt đối mặt", giao dịch điện thoại. Thị trường này có sự quản
lý của nhà nước từ sau luật chứng khoán sửa đổi (luật Ma/oney) 1935. Thị
trường OTC qua mạng máy tính Nasdaq dược thành lập từ năm 1971, là bộ
phận lớn nhất của thị trường thứ cấp Mỹ xét về số lượng chứng khoán giao
dịch trên thị trường này, có tổng số khoảng trên 15.000 chứng khoán được
giao dịch trên thị trường NASDAQ, lớn hơn rất nhiều so với số lượng
chứng khoán giao dịch trên thị trường giao dịch tập trung (có khoảng 4.500
chứng khoán giao dịch trên tất cả các thị trường sở giao dịch cộng lại, trong
đó NYSE có 2.600 chứng khoán, AMEX có 800 chứng khoán). Tuy nhiên,
thị trường NASDAQ đứng thứ hai về tổng giá trị cổ phiếu giao dịch (khoảng
2398 tỷ USD), sau NYSE (3083 tỷ USD). Chứng khoán được giao dịch trên
NASDAQ rất da dạng về loại hình và chất lượng, chủ yếu là chứng khoán
của các công ty mới thành lập, công ty vừa và nhỏ, công ty công nghệ cao
cho đến các công ty lớn có chất lượng cao như Intel, Microsoft, trái' phiếu
Các loại chứng khoán này cũng được phân thành nhiều bảng giao dịch theo
chất lượng chứng khoán. Thị trường này được vận hành bởi một hệ thống
các nhà tạo lập thị trường và các nhà môi giới, có khoảng 500 nhà tạo lập thị
trường hoạt động tích cực trên NASDAQ, trung bình mỗi nhà tạo lập thị
trường làm nhiệm vụ tạo lập cho 8 loại cổ phiếu. NASĐAQ chịu sự quản lý

hai cấp của Uỷ ban chứng khoán Mỹ (S~FC) và Hiệp hội các nhà giao dịch
chứng khoán Mỹ (NASD). Thị trường NASDAQ hiện nay đã được nối mạng
toàn cầu với nhiều thị trường OTC trên thế giới. Tiêu chí chứng khoán được
niêm yết trên Nasdaq có nhiều loại nhưng nói chung bao gồm các tiêu chuẩn
về tổng giá trị tài sản công ty; vốn và lợi nhuận; số cổ phiếu do công chúng
nắm giữ; số lượng cổ đông; số lượng các nhà tạo lập thị trường cho loại
chứng khoán này (tối thiểu phải là hai nhà tạo lập thị trường). Dôi với thị
trường NASDAQ quốc gia (NNM) tiêu chuẩn niêm yết chứng khoán cao
hơn à o với thị trường Nasdaq thông thường, cần có thêm các tiêu chí về lợi
nhuận rònglnăm, giá mỗi cổ phiếu, giá từ thị trường của cổ phiếu lưu hành.
SỐ chứng khoán giao dịch trên NNM của NASĐAQ khoảng 6.000. CƠ chế
xác lập giá chủ yếu là thoả thuận giá trên cơ sở báo giá tập trung, tuy nhiên
có một bộ phận của thị trường (gọi là hệ thống khớp lệnh nhỏ tự động của
NASDAQ - SOES) cung cấp dịch vụ khớp lệnh tập trung đối với các lệnh
nhỏ dưới 1.000 cổ phiếu. Ngoài ra Hiệp hội các n tà kinh doanh chứng
khoán NASD còn cung cấp dịch vụ báo giá điện tử qua mạng Nasdaq cho
hơn 15.000 chứng khoán khác không đủ tiêu chuẩn niêm yết trên 'thị trường
NASDAQ (còn gọi là OTC BB – OTC Bullentin Board), tạo điều kiện cho
những công ty chửng khoán tham gia thị trường này có thể báo giá chứng
khoán mà họ làm nhà tạo lập thị trường, cập nhật báo giá tức thời; truy cập
thông tin về báo giá của các nhà tạo lập thị trường khác.
2. Thị trường OTC Nhật Bản
CÓ hai thị trường OTC tại Nhật Bản. Thứ nhất là thị trường JASDAQ (còn
được gọi là NASDAQ Nhật Bản), hoạt động từ năm 1991 trên cơ sở phát
triển thị trường OTC truyền thống hoạt động từ tháng 2-/963 do Hiệp hội các
nhà kinh doanh chứng khoán Nhật Bản (JSDA) quản lý, có hình thức thương
lượng giá tay đôi giữa các công ty chứng khoán với nhàu hoặc giữa công ty
chứng khoán với khách hàng. buột chứng khoán sửa đổi năm 1983 đã đưa
thị trường OTC vào quỹ đạo quản lý nhà nước, cơ chế thương lượng giá
dược đổi sang cơ chế đấu giá tập trung. I~lệ thống các nhà tạo lập thị trù~lng

gắn liền với cơ chế thương lượng giá dược áp dụng lại từ năm 1987 để
cạnhtranh với thị trường tập trung và tạo tính thanh khoán cho thị trường
OTC. hiện nay trên thị trường ~ASDAQ. Có 449 công ty làm tạo lập thị
trường. IIỆ thống giao dịch và thông tin tự động qua mạng ~JASDAQ theo
mô hìnhbNASDAQ Mỹ được chính thi ~ dưa vào hoạt động từ năm 1991 để
thúc đẩy thị trường OTC, hiện nay hệ thống này bao gồm hai mạng, mạng
giao dịch và mạng thông tin. Mạng giao dịch được sử dụng để khớp các lệnh
giao dịch tự động và mạng thông tin được dùng cho các nhà tạo láp thị
trường báo giá tập trung, thông báo về các giao dịch đã thoả thuận và truyền
phát các thông tin khác . Chứng khoán giao dịch trên OTC là chứng khoán
của các công ty vừa và nhỏ, công ty có chất lượng hạng hai, công ty công
nghệ cao. Tiêu chí niêm yết trên Nasdaq chủ yếu dựa vào các tiêu chuẩn như
thời gian thành lập công ty, tài sản ròng, lợi nhuận ròng, tổng giá trị thị
trường của chứng khoán, số lượng cổ đông, số lượng chửng khoán lưu hành,
ý kiến kiểm toán và các tiêu chí khác. Tính đến tháng 9-/997 đã có 800
chứng khoán được giao dịch trên thị trường này, tăng hơn gấp 2 lần so với
năm 1990 (300 chứng khoán). Chứng khoán không đủ điều kiện giao dịch
trên thị trường này và thị trường sở giao dịch cũng được sự hỗ trợ để giao
dịch qua mạng ĐASDAQ tương tự như đối với thị trường NASDAQ Mỹ.
Thứ hai là thị trường J-net mới được đưa vào hoạt động tháng 4-/999, dây là
thị trường được thành lập mới, chịu sự quản lý trực tiếp của SỞ giao dịch
chứng khoán Osaka cho các chứng khoán không được niêm yết trên SỞ giao
dịch Osaka nhằm đáp ửng yêu cầu tiết kiệm thời gian và. chi phí của các đối
tượng tham gia thị trường, có phương thức thương lượng giá. Thành viên
của SỞ giao dịch chứng khoán Osaka, người đầu tư và trung tâm quản lý
được trực tiếp nối mạng với nhau thông qua một mạng điện tử đa tầng, tạo
điều kiện cho các đối tượng này có thể chia sẻ thông tin thị trường. Đặc
trưng của J-net là dịch vụ rẻ - nhanh - tiện lợi, có thể truy cập trực tiếp thị
trường - thông tin thị trường, người đầu tư có thể thực hiện giao dịch bất kỳ
khi nào - bất kỳ nơi nào - với bất kỳ ai. J-net cũng là mạng được nối với các

mạng khác trong nước và mạng quốc tế. Đây là mạng được đánh giá có tiềm
năng hữu dụng lớn trong tương lai đối với thị trường chứng khoán trong và
ngoài nước.
3. Thị trường OTC Hàn Quốc
Thị trường OTC truyền thống của Hàn Quốc được thành lập tháng 4-/987
nhằm tạo môi trường hoạt động cho các chứng khoán không được niêm yết
trên SỞ giao dịch chứng khoán Hàn Quốc (KSE), chịu sự kiểm soát của
Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán (KSDA), thành lập năm 1953.
Tháng 4-/997 Chính phủ Hàn Quốc quyết định tổ chứclại à thúc đẩy phát
triển thị trường này bằng việc thành ập thị trường mạng máy tính điện tử
KOSDAQ nhằm ạo điều kiện cho các công ty mạo hiểm, công ty công nghệ
ao, quỹ ương ô và các công ty vừa và nhỏ không đủ tiêu huẩn niêm yết trên
thị trường tập trung có thể uy động vốn trực tiếp. Đây là một thị trường được
xây dựng theo mô hình NASDAQ (Mỹ), giao dịch qua mạng điện tử có sự
kiểm soát trung tâm. Các tổ chức niêm yết trên thị trường KOSDAQ nhải
đáp ứng một số tiêu chí cơ bản như mức vốn điều lệ tối thiểu, tỷ lệ phát hành
ra công chúng, v.v Tuy nhiên, việc định giá được thực hiện theo phương
thức đấu lệnh tập trung tương tự như sở giao dịch Cho đến nay thị trường
KOSDAQ rất nhát triển, cạnh tranh với thị trường của những chứng khoán
có chất lượng cao KSE. Tốc độ tăng thị phần hàng năm của thị trương này
lớn hơn nhiều so với thị trường tập trung và chiếm 98% tổng giao dịch trái
phiếu của thị trường chửng khoán. Tính đến tháng 12- 1999 giá ta giao dịch
bình quân của KOSDAQ là khoảng 113 so với KSE. Thì dường KOSDA~ là
một trong những thị trường được quản lý khá hiệu quả. Tháng 3-2000 thị
trường thứ ba (OTC-BB) theo mô hình NASDAQ OTC-BB (Mỹ) chính thức
đì vào hoạt động tạo diều kiện huy động vốn cho các trái phiếu và các cổ
phiếu chưa đủ tiêu chuẩn niêm yết trên KSE và KOSDAQ. Thí trường này
sử dụng mạng . điện tử KOSDAQ để giao dịch tương tự như thị trường
OTC-BB Mỹ. Phương thức xác lập giá trên thị trường này là phương thức
thông lệnh tự động (crossed matching) trên cơ sở tự động khớp 2 lệnh có giá

và khối lượng giống hệt nhau. Thực chất đây cũng là phương pháp thương
lượng giá tự động đang được áp dụng tại một bộ phận của thị trường
NASDAQ Mỹ.
4- Thị trường OTC Malaysia
Tháng 5-1996 Chính phủ Ma/aysia bắt đầu xem xét khả năng xây dựng một
thị trường OTC nhằm đáp ứng nhu cẩu huy động vốn của các công ty công
nghệ cao, công ty có vốn nhỏ, công ty vốn mạo hiểm Để cho ra đời thị
trường này, Hội đồng chứng khoán Malaysia đã nghiên cứu tổ chức và hoạt
động của các thi trường OTC trên thế giới như NASDAQ (Mỹ), AIM (Anh),
Canadian Dealing Network (Canada), Le Nouveau Marche (Pháp), JASDAQ
(Nhật), ROC OTC Securities Exchange (Đài Loan), Bangkok stock dea/1ng
Center (Thái Lan) và dự kiến thành lập thị trường MESDAQ độc lập với
SỞ giao dịch chứng khoán Kham Lumpure. Thị trường MESDAQ được kỳ
vọng sẽ đóng vai trò đối với thị trường chứng khoán Malaysia tương tự như
NASDAQ đối với thị trường Mỹ. Việc áp dụng thành công thị trường này sẽ
tạo điều kiện phát triển lĩnh vực công nghệ cao tại Ma/aysia. Thị trường này
sẽ tạo điều kiện cho các công ty nhỏ, công ty công nghệ cao huy động vốn
và xa hơn nữa là thu hút các công ty khác trên thế giới. Việc xây dựng thị
trường này nằm trong chiến lược phát triển kinh tế và đặc biệt là chiến lược
hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước vào cuối năm
2020. MESDAQ khai trương hoạt động ngày 30 tháng 4 năm 1999, với
phương châm nằm trong bốn chữ: công bằng, hiệu quả, linh hoạt và công
khai (FELT: Fair- Efflcient- Liquid- Transparent). MESDAQ là một công ty
trách nhiệm hữu hạn của các thành viên trực tiếp sở hữu dưới dạng một tổ
chức tự quản, độc lập với SỞ giao dịch Kham Lumpure và cũng không thuộc
Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán, hoạt động phi lợi nhuận, tự hạch
toán thông qua việc thu phí thành viên và phí niêm yết. Tiêu chuẩn niêm yết
trên thị trường này bao gồm các tiêu chí về kinh nghiệm trong lĩnh vực hoạt
động kinh doanh, mô hình hoạt động công ty, triển vọng của công ty, các
mâu thuẫn lợi ích tồn tại liên quan đến công ty, chương trình nghiên cứu

phát triển công ty, các chính sách dân tộc như đầu tư trong nước. Hệ thống
trung gian thị trường bao gồm các nhà bảo lãnh phát hành, tu vấn đầu tư, các
nhà tài trợ, các nhà tạo lập thị trường ~ '
5. Thị trường OTC Singapore
Thị trường OTC với tên gọi SESDAQ Singapore được thành lập theo đề
nghị của uỷ ban cải cách kinh tế chính phủ, nhằm tạo một thị trường cho các
chứng khoán chưa niêm yết với mục tiêu mở rộng thị trường chứng khoán
để nuôi ngành công nghiệp quản lý vốn. Giao dịch trên thị trường SESDAQ
được thiết kế sử dụng các trạm đầu cuối được thành lập và hoạt động tháng
1-/987 tạo điều kiện huy động vốn cho các công ty vừa và nhỏ có thể mở
rộng hoạt động của mình. Mạng SESDAQ được nối với mạng NASDAQ
Mỹ, vì vậy các giao dịch trên NASDAQ cũng được giao dịch trên SESDAQ.
Khối lượng giao dịch trong 5 năm (1989-/993) tăng gấp 10 lần (từ 230 triệu
đến 2.300 triệu cổ phiếu) và tổng giá trị giao dịch tăng gấp 8 lần (từ 320
triệu đôla Singapore đến 2.410 triệu đôla Singapore).

×