Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

BỆNH NHƯỢC CƠ (Kỳ 4) doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (235.54 KB, 7 trang )

BỆNH NHƯỢC CƠ
(Kỳ 4)
VI. ÐIỀU TRỊ
Hướng xử trí nhằm 4 mục tiêu sau:
1. Hồi sức hô hấp (nếu có suy hô hấp).
2. Ðiều trị triệu chứng.
3. Ðiều trị tự miễn.
4. Phẫu thuật tuyến ức.
1. Hồi sức hô hấp:
Các biện pháp hồi sức hô hấp phải được thực hiện ngay lập tức, càng
khẩn trương thì khả năng cứu sống bệnh nhân càng nhiều.
- Ngưng cho bệnh nhân ăn qua đường miệng.
- Ðặt ống thông dạ dày.
- Khai thông đường dẫn khí là việc đầu tiên phải làm, nhưng dẫn lưu tư thế
không được đặt ra trong trường hợp nhược cơ.
- Phải đặt ống thông nội khí quản hoặc mở khí quản, nó cho phép hút đờm
nhiều lần, tránh được xẹp phổi, qua đó có thể tiến hành thở máy hoặc bóp bóng có
hiệu quả bất kỳ lúc nào. Không chỉ thế mà còn tránh được tai biến hít phải dịch vị.
Lưu ý trước lúc đặt ống thông hoặc mở khí quản không tiêm valium, chỉ
gây tê tại chỗ.
- Oxy liệu pháp cung lượng cao 5-12 lít/phút qua ống thông mũi, ống nội
khí quản. Không dùng O
2
trên 70% quá 48 giờ vì làm tổn thương phế nang gây
bệnh màng trong, co thắt động mạch và co giật.
Thở máy được chỉ định khi thấy một trong những dấu hiệu sau đây:
. SaO
2
dưới 60% (bình thường 95-97%), PaCO
2
trên 55mmHg (bình


thường 40 mmHg)
. Rối loạn ý thức.
. Tình trạng suy hô hấp cấp không đỡ sau khi đã dùng các biện pháp thông
thường.
Có thể ngưng thở máy khi thông khí phút bằng 10 lít và PaCO
2
gần
40mmHg. Sau 24 giờ có thể rút ống nội khí quản. Tuy nhiên phải thận trọng sau
khi rút xông vì phù nề thanh quản hay do viêm tại chỗ nên lúc đó bệnh nhân phải
gắng sức nhiều để thở và ho, vì vậy có thể yếu cơ trở lại và gây ngừng thở.
2. Ðiều trị triệu chứng:
- Nếu đang dùng các thuốc kháng cholinesterase mà nhược cơ nặng lên thì
có thể ngừng tạm thời thuốc đó và cho thở máy, sau đó điều chỉnh liều.
- Chưa điều trị thì dùng thuốc kháng cholinesterase. Các thuốc này làm
giảm sự phân hủy acetylcholine và gây tích lũy ở tấm vận động. Các thuốc này có
tác dụng kiểu muscarine và nicotine nên giảm liều khi đã có hô hấp nhân tạo để
tránh làm suy hô hấp nặng thêm do thuốc. Chủ yếu dùng prostigmine 1mg tiêm
bắp hay tĩnh mạch lặp lại sau vài phút theo nhu cầu đồng thời tiêm bắp 0,25mg
Atropine để giảm bớt tăng tiết nước bọt và dịch phế quản. Nếu hết suy hô hấp cấp
thì thay bằng thuốc uống qua bảng sau:
Bảng. Các thuốc kháng cholinesterase
Thuốc
Thời gian
tác dụng
Dạng
thuốc
Liều
Prostigmine 2-3 giờ Viên
15mg
5-20

viên/ngày hay 2-
(neostigmine) Ống
0,5mg
5 ống/ngày
Mestinon

(pyridostigmine)

3-4 giờ Viên
60mg
2-15
viên/ngày
Mytelase
(ambenonium)
5-6 giờ Viên
10mg
3-10
viên/ngày
Tensilon
(Edrophonium)
10 phút Ống
10mg
test chẩn
đoán 1 ống
- Ðiều chỉnh nước và điện giải: bệnh nhược cơ nặng dễ bị mất nước vì tăng
tiết nên phải bù dịch và năng lượng. Chú ý tình trạng hạ kali làm nặng thêm bệnh
nhược cơ (lưu ý điện giải đồ). Nếu cần thì cho thêm kali clorua 100-200
mmol/24giờ, tốc độ chuyền 4-8 mmol/giờ. Trong mỗi lít có thể pha 50-75 mmol
(1g KCl = 13 mmol).
- Chuyền tĩnh mạch gamma-globulines (IgG) với liều 0,4 g/kg/24 giờ trong

5 ngày, cải thiện lâm sàng tối đa giữa ngày thứ 15 và 25 ở một nửa số trường hợp
nhưng đó là giải pháp tạm thời.
Tác dụng của globulines miễn dịch là tương tác với các thụ thể Fc ức chế
lên các tế bào thực bào và các tế bào trình diện kháng nguyên. Chúng có thể trung
hòa trực tiếp các tác dụng chèn của kháng thể lên thụ thể Ach.
- Dùng kháng sinh chống bội nhiễm lưu ý loại kháng sinh gây bloc thần
kinh cơ.
- Có thể dùng thuốc chống thụ thai ở bệnh nhân lên cơn nhược cơ nặng lúc
có kinh.
- Chú ý loại bỏ các nguyên nhân làm cơn nhược cơ nặng lên.
3. Ðiều trị tự miễn:
Lọc huyết thanh bằng máy tách tế bào hay bởi màng lọc 2-3 lần có khi 3-
5 lần/tuần, có hiệu quả trên 2/3 trường hợp. Hiệu quả có thể thấy trong vòng 24
giờ, tuy nhiên thường rõ ràng sau ngày thứ hai.
Hiện nay để gia tăng tính chọn lọc và hiệu quả thì dùng gel polyvinyl
alcohol hoặc cột protein A để không hấp thu albumin và protein. Dĩ nhiên lọc
huyết tương không phải là vô hại mà có thể có những biến chứng như sau: phản
ứng tim mạch, rối loạn điện giải, nhiễm độc, huyết khối, viêm tắc tĩnh mạch. Khi
lọc không chỉ loại bỏ kháng thể kháng Ach mà còn làm giảm rõ các chất trung
gian gây viêm nhưng sau đó lại tăng lên nên phải phối hợp với thuốc ức chế miễn
dịch như Prednisolon 1 mg/kg/ngày đơn độc hoặc phối hợp với azathioprine (Aza,
Imurel) 2 mg/kg/ngày.
Khi kết hợp corticoid và Aza thì số lượng bạch cầu tăng nên không cần
thiết theo dõi công thức bạch cầu như khi dùng Aza đơn thuần (mỗi tuần trong 2
tháng đầu và mỗi tháng sau đó, nếu bạch cầu < 3000/mm
3
thì ngưng điều trị). Lưu
ý khi dùng corticoide đôi khi có suy hô hấp cấp đột ngột trong 3 ngày đầu (cảnh
giác hạ K+). Sau khi hết suy hô hấp hay hết rối loạn nuốt thì duy trì liều tác dụng
trong 1-3 tháng rồi chuyển sang điều trị cách nhật trong 1-2 tháng.

Khi kết quả tốt thì giảm liều từ từ. Có thể sử dụng ACTH 100mg hoặc
synacthène 1mg tiêm bắp hoặc tĩnh mạch, 10 ngày sau có thể tiêm đợt 2. Sau đó
củng cố bằng một liều ACTH hoặc synacthène chậm 3 tuần 1 lần. Cyclosporine A
(Cic A) ngăn cản sự sao chép RNAs thông tin cho các cytokines chìa khóa. Liều 5
mg/kg, nhưng do nó độc cho gan và thận, làm tăng huyết áp, run, rậm lông, giá lại
cao nên là thuốc lựa chọn thứ hai.
Các thuốc ức chế miễn dịch khác như cyclophosphamide và
methotrexate thường dùng trong nhược cơ nặng khi điều trị corticoid không hiệu
quả. Thuốc được sử dụng là mycophenolate mofeti (CellCept) tác động lên chuyển
hóa DNA. Hiệu quả của nó chậm sau 3-12 tháng hoặc hơn. Có hiệu quả 50%.
4. Phẫu thuật cắt bỏ tuyến ức:
Phẫu thuật cắt bỏ tuyến ức biện pháp tích cực khi có u hay loạn sản ở các
bệnh nhân nhược cơ. Thực hiện phẫu thuật sau gây tê tại chỗ. Cắt bỏ tuyến ức toàn
bộ mang lại hiệu quả lâu dài. Nếu có sự xâm lấn của tuyến ức thì sau phẫu thuật
tốt nhất phải chạy tia xạ hay hóa trị liệu. Không phải là chỉ định tốt về phẫu thuật
khi đối tượng là người già từ 70 tuổi trở lên, thể mắt đơn thuần, khi mà nhược cơ
lâu năm đã gây tổn thương tấm vận động cơ vân không hồi phục. Nhiều trường
hợp sau phẫu thuật không cần dùng thuốc hoặc dùng liều thấp như vậy tránh được
cơn nhược cơ nặng về sau.
Chú ý sau khi phẫu thuật một tuần mới sử dụng corticoid để tránh nhiễm
trùng do giảm miễn dịch và để chóng lành sẹo.
Nên giáo dục cho bệnh nhân biết những nguyên nhân gây nhược cơ nặng
nhằm tránh xảy ra các biến chứng đáng tiếc.




×