BỆNH LỴ TRỰC KHUẨN
(Kỳ 1)
Lỵ trực khuẩn còn gọi là lỵ trực trùng, xích lỵ, lỵ nhiệt độc, là bệnh viêm
đại tràng cấp do trực khuẩn Shigella gây ra.
TÁC NHÂN GÂY BỆNH: là trực khuẩn Shigella, thuộc họ
Enterobacteriae (vi khuẩn đường ruột) là trực khuẩn gram (-), nhỏ, dài 1-3 mm,
không có bao, không tạo bào tử, không di động, ái khí, có thể kỵ khí, mọc dễ dàng
ở môi trường thạch lỏng 37
o
C.
Căn cứ vào tính chất sinh hóa và kháng nguyên, Shigella được chia thành 4
nhóm:
- Nhóm A: Shigella dysenteriae, gồm 10 type, type I là type duy nhất có
ngoại độc tố.
- Nhóm B: Shigella flexneri
- Nhóm C: Shigella boydii
- Nhóm D: Shigella sonnei
Người là nguồn bệnh độc nhất, do những người mắc bệnh thể cấp, thể mạn
tính và người lành mang vi khuẩn. Bệnh nhân mắc thể cấp là mối đe dọa nghiêm
trọng nhất, những ngày đầu họ thải một khối lượng lớn vi khuẩn ra ngoài. Những
bệnh nhân mắc thể nhẹ thường không bị cách ly, không được điều trị sớm, bệnh
nhân mắc thể mạn, thường là trẻ em, cũng gieo rắc mầm bệnh ở thời kỳ bộc phát.
Họ duy trì căn nguyên bệnh giữa các mùa dịch, vụ dịch. Có thể từ vài tháng đến
vài năm.
PHƯƠNG THỨC LÂY: Bệnh lỵ trực khuẩn lây qua đường tiêu hóa, lây
trực tiếp và gián tiếp. Lây trực tiếp là từ người sang người hoặc do bàn tay bẩn
nhiễm khuẩn. Lây gián tiếp thường qua nước uống, thức ăn. Ruồi nhặng là mối đe
dọa tiềm tàng ở các nước ôn đới, ở vùng khí hậu nóng, dân sống chen chúc tại các
thành phố trong khi vệ sinh cá nhân và cộng đồng kém.
TÍNH CẢM NHIỄM: Mọi người đều mang tính cảm nhiễm với trực
khuẩn lỵ, không có miễn dịch tự nhiên. Ở trẻ em, bệnh có thể nhẹ, triệu chứng
không rõ nhưng cũng có thể bệnh nặng hơn người lớn. Những người lớn tuổi mắc
đồng thời nhiều bệnh, những người suy dinh dưỡng dễ mắc lỵ thể nặng với tỷ lệ tử
vong cao.
TRIỆU CHỨNG LÂM SÀNG: Lỵ trực khuẩn thường cấp diễn. Thời kỳ ủ
bệnh ngắn (từ 1 đến 7 ngày).
Bệnh phát đột ngột, không có triệu chứng báo trước với 2 hội chứng:
- Hội chứng nhiễm khuẩn: sốt cao 38 - 39
o
C hoặc hơn, có rét run, nhức đầu,
mệt mỏi, đau lưng, đau khớp. Ở trẻ em có thể có cơn giật, đồng thời chán ăn, khát
nước, đắng miệng, buồn nôn (đôi khi bị nôn), BC tăng cao (10.000 - 13.000).
- Hội chứng lỵ: Đau bụng, lúc đầu đau âm ỉ quanh rốn rồi lan ra toàn bụng
theo khung đại tràng, cuối cùng thành cơn đau quặn bụng, khu trú ở hố chậu trái
làm bệnh nhân muốn đại tiện, mót rặn và rát hậu môn khi đại tiện, mỗi ngày đi
hơn 10 lần. Lúc đầu phân sệt, sau loãng, rất thối, lẫn với nhầy và máu. Nhầy
nhiều, ít khi trong, thường đục nhờ nhờ, có khi vàng đục như mủ. Máu không tươi
mà hồng nhạt hoặc sẫm như máu cá. Nhầy và máu hòa loãng với nhau không có
độ bám dính.
Hội chứng nhiễm khuẩn thường ngắn, từ 2 đến 4 ngày, ít khi dài hơn. Hội
chứng lỵ có thể từ 5 đến 10 ngày hoặc hơn, tùy thể bệnh, cơ địa. Ruột phục hồi
chậm, trở lại bình thường sau 3 đến 4 tuần.
CÁC THỂ LỴ:
1. Thể nhẹ, cấp: có hội chứng nhiễm khuẩn nhẹ hoặc không rõ, nhiệt độ
37,5 - 38
o
C trong 1 - 2 ngày, váng đầu, mệt không đáng kể. Hội chứng lỵ nhẹ: đau
quặn bụng, đi dưới 10 lần/ngày. Bệnh tự giảm nhanh. Bệnh nhân phục hồi trong
vòng 1 tuần.
2. Thể vừa, cấp: có hội chứng nhiễm khuẩn và hội chứng lỵ điển hình và
dài hơn. Sốt 38 - 40
o
C từ 1 - 4 ngày, đau đầu, mệt mỏi, mạch nhanh, huyết áp hạ ít.
Đi ngoài từ 15 đến 20 lần/ngày, kèm theo mất nước (khát nước, môi khô, lưỡi bự
trắng). Được điều trị tốt, bệnh nhân sẽ phục hồi sau 7 đến 14 ngày.
3. Thể nặng, cấp: ít gặp. Có hội chứng nhiễm khuẩn rất rõ rệt, kéo dài hơn
1 tuần.
Hội chứng lỵ: đau quặn bụng dữ dội, mót rặn kèm mót đái không kìm được.
Đi ngoài trên 30 lần/ngày, có khi không đếm được, mất nước, rối loạn điện giải.
Bệnh nhân kiệt sức, nằm đại tiện tại chỗ, có khi hậu môn mở rộng, phân tự chảy,
toàn mủ và máu, mắt trũng, mặt hốc hác, mạch nhanh yếu, nhịp tim mờ, huyết áp
hạ, thở gấp, li bì, ngủ gà, có thể chết nhanh sau 3 - 7 ngày.
Phục hồi chậm và khó khăn, để lại di chứng, biến chứng.
4. Lỵ cấp ở trẻ < 1 tuổi có những thể cấp như trên, ngoài ra còn gặp thể rất
nhẹ, kín đáo, giống như rối loạn tiêu hóa: phân loãng, không sốt.
5. Thể dạ dày - ruột cấp: như một nhiễm khuẩn, nhiễm độc thức ăn: bắt đầu
đột ngột, tiến triển nhanh, nôn nhiều lần, phân loãng, không nhầy máu, đau bụng
lan tỏa, sau đó bệnh có thể diễn biến như thể lỵ điển hình.
6. Thể tối độc: rất hiếm. đi ngoài nhiều, phân nhầy mủ, có khi toàn máu,
bệnh nhân có thể chết trong vài ngày đầu trong hôn mê, trụy tim mạch.
7. Lỵ kéo dài, mạn tính: ít gặp.
Thường thấy ở trẻ em (chiếm tỷ lệ từ 2 - 5% tổng số trường hợp lỵ), có thể
do hệ thần kinh chưa ổn định, ký sinh trùng đường ruột sẵn có ở đường tiêu hóa.
Lỵ mạn tính có thời kỳ bột phát và thuyên giảm nối tiếp nhau.
Khi bột phát, về lâm sàng như lỵ cấp nhẹ hoặc vừa, khả năng làm việc
giảm. Ở giai đoạn thuyên giảm, khả năng làm việc được hồi phục nhưng vẫn rối
loạn tiêu hóa.
Lỵ kéo dài không còn giai đoạn thuyên giảm, bệnh ngày càng nặng, toàn
thân suy sụp dần. Rối loạn tiêu hóa nặng, mọc nấm Candida đường tiêu hóa, thiếu
Vitamin, thiếu máu.
Thể này chỉ còn thấy ở người cao tuổi, mắc đồng thời nhiều bệnh nặng.