Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Lược sử khoa học quản lý doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.98 KB, 5 trang )

Lược sử khoa học quản lý

Để có thêm thông tin làm nền tảng, ban quản trị diễn đàn giới thiệu đến các
bạn lược sử về lịch sử Khoa học quản lý giúp các bạn tiện theo dõi, nghiên
cứu và đóng góp.

Năm 1880 - Quản lý khoa học (Scientific Management)

Frederick Taylor đã quyết định lên lịch trình thời gian làm việc cụ thể cho mỗi
nhân viên tại công ty Midvale Steel Company. Nhìn nhận của ông về tương lai trở
nên vô cùng chính xác:

“Trong quá khứ, con người luôn là yếu tố được quan tâm nhất. Trong tương lai, hệ
thống sẽ là yếu tố được quan tâm nhất”.

Trong Quản lý khoa học, vai trò của các nhà quản lý được nâng cao, trong khi vai
trò của các nhân viên không được chú trọng nhiều.

“Khoa học, chứ không phải quy tắc ngón tay cái”- Taylor đã từng nói như vậy.

Quyết định của những nhà giám sát dựa trên kinh nghiệm và trực giác không còn
quan trọng nữa. Tinh thần trách nhiệm của các nhân viên sẽ bị kìm hãm. Tuy vậy,
câu hỏi vẫn còn đó - liệu sự thăng tiến trong vai trò của các nhà quản lý lên tới vị
thế trung tâm này có thực sự hợp lý?

Năm 1929 - Chủ nghĩa Taylor (Taylorism)

Những người theo chủ nghĩa Taylor đã xuất bản một cuốn sách hướng dẫn mới có
chỉnh sửa và cập nhập nội dung mang tên: Quản lý khoa học trong ngành công
nghiệp Mỹ (Scientific Management in American Industry).


Năm 1932 - Những nghiên cứu Hawthorne (The Hawthorne Studies)

Elton Mayo là người đầu tiên đặt nghi vấn đối với những giả định về hành vi trong
quản lý khoa học. Những nghiên cứu của ông đã kết luận rằng nhân tố con người
luôn quan trọng hơn nhiều so với các điều kiện vật chất trong việc động viên và
nâng cao rõ nét hiệu suất làm việc của các nhân viên.

Năm 1946 - Phát triển tổ chức (Organization Development)

Nhà xã hội học Kurt Lewin đã thành lập Trung tâm nghiên cứu về tính năng động
trong tập thể tại Viện nghiên cứu công nghệ Massachusetts. Những đóng góp
trong Học thuyết về sự thay đổi (Change theory), Nghiên cứu hành động (Action
research), và Học hỏi công việc (Action learning) đã đem lại cho ông danh hiệu
“Cha đẻ của Sự phát triển tổ chức”. Lewin được mọi người biết đến nhiều nhất từ
những công trình của ông trong lĩnh vực nghiên cứu về hành vi tổ chức và tính
năng động của tập thể. Nghiên cứu của ông đã khám phá ra rằng việc học hỏi sẽ
đạt mức hiệu quả tối đa khi có sự xung đột giữa những kinh nghiệm cụ thể trước
mắt với sự phân tích khách quan bên trong mỗi cá nhân.

Năm 1949 - Học thuyết hệ thống kỹ thuật-xã hội (Sociotechnical Systems
Theory)

Một nhóm các nhà nghiên cứu tại Viện nghiên cứu quan hệ con người Tavistock,
London, Anh đã tiến hành nghiên cứu một mỏ than ở phía Nam Yorkshire vào
năm 1949. Nghiên cứu của họ là một phần của sự phát triển Học thuyết Hệ thống
kỹ thuật-xã hội, theo đó học thuyết này quan tâm tới cả khía cạnh xã hội và kỹ
thuật trong khi lập cơ cấu các công việc. Nó khác hoàn toàn so với lý thuyết quản
lý khoa học của Frederick Taylor. Có bốn yếu tố cơ bản hợp thành Học thuyết kỹ
thuật - xã hội:


Hệ thống con về môi trường
Hệ thống con về xã hội
Hệ thống con về kỹ thuật
Bản thiết kế cơ cấu tổ chức

Năm 1954 - Tháp nhu cầu (Hierarchy of Needs)

Tháp nhu cầu của Maslow được giới thiệu lần đầu trong cuốn sách Động cơ và
Nhân cách (Motivation and Personality), tại đó Maslow đưa ra một khuôn mẫu để
tạo được sự gắn bó của các nhân viên.

Năm 1954 - Lãnh đạo/Quản lý (Leadership/Management)

Drucker đã viết cuốn Quản lý thực hành (The Practice of Management) và giới
thiệu 5 vai trò cơ bản của nhà quản lý. Ông viết: “Câu hỏi đầu tiên khi thảo luận
về cơ cấu tổ chức phải là: Chúng ta đang kinh doanh cái gì và nên kinh doanh cái
gì? Cơ cấu tổ chức phải được thiết kế hướng tới việc đạt được những mục tiêu
kinh doanh trong vòng năm, mười, mười lăm năm kế từ thời điểm hiện tại”.

Năm 1959 - Các nhân tố động viên và vệ sinh (Hygiene and Motivational
Factors)

Frederick Herzberg đã xây dựng thành công danh sách các nhân tố động viên và
vệ sinh dựa trên tháp nhu cầu của Maslow, chỉ có điều nó liên quan mật thiết hơn
đến công việc. Theo Herzberg thì các nhân tố vệ sinh cần phải hiện diện trong
công việc trước khi các nhân tố động viên được sử dụng để thúc đẩy nhân viên.

Thập niên 1960 - Sự phát triển tổ chức (Organization Development)

Trong thập niên 50 và 60 của thế kỷ trước, một phương pháp mới và có tính kế

thừa đã ra đời và được gọi là Sự phát triển tổ chức (Organization Development -
OD). OD được xem như một ứng dụng có tính hệ thống của tri thức khoa học về
hành vi tại các mức độ khác nhau (nhóm, liên nhóm, tổ chức) để đem lại sự thay
đổi đã được hoạch định từ trước.

Năm 1960 - Thuyết X và Thuyết Y (Theory X and Theory Y)

Những nguyên tắc cơ bản trong Thuyết X và Thuyết Y của Douglas McGregor có
ảnh hưởng rõ nét đến việc hình thành cũng như thực thi những thói quen và lối
hành xử của nhân viên.

×